Qua phân tích đặc điểm của tốc độ SM khi
có khi TC hoạt động trên Biển Đông, bài báo có
một số kết luận sau:
1. Tốc độ SM trên khu vực phía Nam Việt
Nam khi có TC hoạt động trên Biển Đông ít
phụ thuộc vào thời gian trong năm, độ lớn của
nó là gần tương đương nhau trong tất cả các
tháng;
2. Khi TC hoạt động trên Biển Đông, tốc độ
SM tăng lên, mức tăng trong khoảng từ 30%
đến 85% và phụ thuộc vào khu vực cũng như
mực độ cao trong khí quyển;
3. Khi TC hoạt động trên Biển Đông, tốc độ
SM trên khu vực phía Nam Việt Nam có tần
suất xuất hiện lớn nhất trong khoảng 1 đến 1,5
lần hoặc 1,5 đến 2 lần so với tốc độ trung bình.
Tổng tần suất trên các mực ở hai khu vực từ
khoảng 55% đến gần 75%
8 trang |
Chia sẻ: honghp95 | Lượt xem: 780 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đặc điểm của gió mùa mùa hè trên khu vực phía Nam Việt Nam khi xoáy thuận nhiệt đới hoạt động trên Biển Đông, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Các Khoa học Trái đất và Môi trường, Tập 34, Số 1S (2018) 124-131
124
Đặc điểm của gió mùa mùa hè trên khu vực phía Nam Việt Nam
khi xoáy thuận nhiệt đới hoạt động trên Biển Đông
Trần Đình Linh, Chu Thị Thu Hường, Trần Thị Kim Ngân
Khoa Khí tượng Thủy văn, Đại học Tài nguyên và Môi trường Hà Nội
Số 41A, Phú Diễn, Bắc Từ Liêm, Hà Nội, Việt Nam
Nhận ngày 30 tháng 11 năm 2018
Chỉnh sửa ngày 11 tháng 12 năm 2018; Chấp nhận đăng ngày 25 tháng 12 năm 2018
Tóm tắt: Để xem xét đặc điểm của gió mùa mùa hè trên khu vực phía Nam Việt Nam (SM) khi
xoáy thuận nhiệt đới (TC) hoạt động trên Biển Đông, bài báo đã sử dụng số liệu tái phân tích ERA
Interim và xem xét đặc điểm của tốc độ gió ở ba mực đẳng áp chuẩn 1000mb, 850mb và 700mb
trên hai khu vực. Khu vực 1 (0 - 100N; 105 - 1100E) để xem xét đặc điểm của dòng gió có nguồn
gốc chủ đạo từ áp cao Châu Úc, còn khu vực 2 (5 - 150N; 90 - 1050E) đại diện cho dòng gió từ áp
cao Mascarene. Đặc điểm của SM trên cả hai khu vực được xem xét thông qua hai khía cạnh: (1)
Mức độ biến đổi của tốc độ khi có TC hoạt động so với trung bình và (2) Tần suất xuất hiện theo
các khoảng giá trị của tốc độ gió khi có TC hoạt động. Kết quả cho thấy, tốc độ SM khi có TC
hoạt động ít phụ thuộc vào thời gian trong năm khi độ lớn trong tất cả các tháng được xét là gần
tương đương nhau. Trung bình cả thời kỳ, tốc độ gió ở tất cả các mực đều tăng lên, mức tăng lên
khoảng từ 30% đến 85% so với trung bình. Về tần suất xuất hiện, khi có TC hoạt động, SM đạt tần
suất lớn nhất trong khoảng tốc độ VTB - 1,5VTB hoặc 1,5VTB - 2VTB với tổng tần suất gió có tốc độ
trong hai khoảng này khoảng 55% đến 75%.
Từ khóa: Đặc điểm của gió mùa mùa hè; Xoáy thuận nhiệt đới hoạt động trên Biển Đông.
1. Mở đầu
Như chúng ta đã biết SM trên lãnh thổ Việt
Nam có nguồn gốc từ dải áp cao cận nhiệt đới
Nam bán cầu. Trong đó, dòng gió xuất phát từ
áp cao Mascarene là thành phần chủ đạo chi
phối trên phần đất liền nước ta. Bên cạnh đó,
dòng gió từ áp cao Châu Úc sau khi vượt xích
đạo đổi hướng và biến tính cùng với dòng từ áp
_______
Tác giả liên hệ. ĐT.: 84-985341723
Email: tdlinh@hunre.edu.vn
https://doi.org/10.25073/2588-1094/vnuees.4343
cao Mascarene chi phối vùng biển phía nam và
Biển Đông nước ta. SM hoạt động chủ yếu
trong thời gian từ tháng 5 đến tháng 10 hàng
năm và có ảnh hưởng rất lớn đến thời tiết và khí
hậu trên toàn lãnh thổ Việt Nam. SM chính là
nhân tố qui định mùa mưa ở Nam Bộ và Tây
Nguyên khi hoạt động của nó đóng góp 80%
đến 85% lượng mưa trên khu vực [1].
Cường độ của SM có sự biến động qua các
năm và phụ thuộc vào các hệ thống khí áp cũng
như các dao động khí hậu, đặc biệt là ENSO.
Trong năm La-Nina, SM mạnh lên và bắt đầu
sớm hơn trung bình nhiều năm, ngược lại, trong
T.Đ. Linh và nnk. / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Các Khoa học Trái đất và Môi trường, Tập 34, Số 1S (2018) 124-131 125
năm El-Nino, SM lại yếu đi và bắt đầu muộn
hơn trung bình [2-4].
Ngoài sự biến đổi cường độ qua các năm,
SM cũng có biến động trong thời kỳ hoạt động
của nó. Sự biến động nội mùa của SM liên quan
đến hoạt động của MJO, tuy nhiên vấn đề này
chưa được nghiên cứu nhiều. Một nghiên cứu
về vấn đề này được thực hiện ở Indonesia cho
thấy MJO pha 3 khi xuất hiện vào mùa xuân
và MJO pha 4 khi xuất hiện vào mùa hè đóng
góp làm suy giảm tốc độ gió trên vùng biển
khu vực [5].
Chúng ta cũng biết rằng, khi SM được tăng
cường thì lượng mưa trên khu vực Tây Nguyên
và Nam Bộ sẽ tăng lên và một trường hợp làm
tăng cường SM là hoạt động của TC trên khu
vực tây bắc Thái Bình Dương và Biển Đông.
Hoạt động của TC trên khu vực đóng vai trò là
một trung tâm hút gió, làm tăng gradient khí áp
theo phương ngang, do đó làm tăng cường
cường độ của SM.
Mặc dù chúng ta dễ dàng hình dung được là
khi có TC hoạt động thì SM sẽ được tăng
cường, tuy nhiên tốc độ gió tăng lên với mức độ
như thế nào thì ta chưa thể khẳng định được.
Chính vì vậy, trong bài báo này, chúng tôi tiến
hành tính toán và định lượng tốc độ SM trên
khu vực phía Nam nước ta (gọi tắt là tốc độ
SM) khi TC hoạt động trên Biển Đông, từ đó
cung cấp cơ sở cho các nhà dự báo đưa ra bản
tin dự báo thời tiết trong những ngày có TC
hoạt động, đặc biệt là dự báo gió và mưa cho
khu vực Tây Nguyên, Nam Bộ nước ta.
2. Số liệu và phương pháp nghiên cứu
2.1. Số liệu
Bài báo sử dụng số liệu TC từ trang web
và số liệu
tái phân tích ERA Interim của Trung tâm Khí
tượng hạn vừa châu Âu trong giai đoạn 1981-
2015. Số liệu tái phân tích được sử dụng là số
liệu lúc 00Z và nó được xem như giá trị trung
bình ngày trong khuôn khổ của bài báo. Độ
phân giải của số liệu thu thập là 0,5×0,5 độ kinh
vĩ, bao gồm tốc độ gió vĩ hướng u và tốc độ gió
kinh hướng v.
Số liệu TC được sử dụng để xác định thời
gian có TC hoạt động trên Biển Đông trong
từng tháng. Thời gian có TC hoạt động bao
gồm cả thời gian hoạt động của áp thấp nhiệt
đới và bão trên khu vực vùng biển Việt Nam
giới hạn trong khu vực: phía tây kinh tuyến
120
0E, phía bắc vĩ độ 100N và phía nam vĩ độ
22
0N. Khu vực này không tính đến một phần
của vùng biển nam Biển Đông, một phần vùng
biển từ Bình Thuận đến Cà Mau và toàn bộ
vùng biển từ Cà Mau đến Kiên Giang.
2.2. Phương pháp nghiên cứu
Với mục tiêu là xác định sự biến đổi của
SM khi có TC hoạt động trên Biển Đông, bài
báo tiến hành xác định mức độ biến đổi và biểu
đồ phân bố tần suất của tốc độ SM theo các
ngưỡng của giá trị tốc độ khi có TC hoạt động.
Phương pháp chi tiết được trình bày ngay sau đây.
a. Thống kê thời gian TC hoạt động trên
Biển Đông
Thời gian TC hoạt động trên Biển Đông
trong thời kỳ tháng 5 đến tháng 9 trong giai
đoạn 1981-2015 được thống kê. Bài báo xác
định tổng số ngày và tần suất hoạt động của TC
trong từng tháng và từng mùa. Số ngày hoạt
động là tổng số ngày có TC hoạt động trên
vùng biển được giới hạn phía trên. Lưu ý rằng,
những ngày có nhiều hơn một TC hoạt động
cũng chỉ được tính là một ngày có TC hoạt
động mà thôi.
b. Phương pháp xác định mức độ biến đổi
của SM
T.Đ. Linh và nnk. / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Các Khoa học Trái đất và Môi trường, Tập 34, Số 1S (2018) 124-131
126
Hình 1. Các khu vực được lựa chọn để đánh giá sự
thay đổi của SM.
Mức độ biến đổi của SM được xác định lần
lượt cho từng tháng từ tháng 5 đến tháng 9 và
trung bình cả thời kỳ. Theo đó, trong mỗi mốc
thời gian, chúng tôi tiến hành xác định tốc độ
gió trung bình, tốc độ gió trung bình trong các
ngàycó TC hoạt động, chuẩn sai (CS) và mức
độ biến đổi của nó tính ra phần trăm so với tốc
độ gió trung bình.
Xác định mức độ biến đổi được thực thiện
thông qua việc xem xét sự thay đổi tốc độ gió
trên hai khu vực như ở hình 1. Cụ thể, khu vực
1 là vùng giới hạn từ 00N đến 100N, 1050E đến
110
0E. Vùng này được xác định để đánh giá sự
thay đổi của dòng gió có nguồn gốc chủ yếu từ
áp cao Châu Úc. Khu vực thứ hai bao phủ Vịnh
Thái Lan, kéo dài từ phía tây Nam Bộ đến kinh
tuyến 900E; giới hạn từ 50N đến 150N, 900E đến
105
0E. Khu vực thứ hai này được tính toán để
đánh giá sự biến đổi của dòng gió có nguồn gốc
từ áp cao Mascarene từ vịnh Bengal thổi sang.
Phạm vi của các khu vực được xác định sao cho
giảm thiểu được ảnh hưởng trực tiếp của hoàn
lưu TC đến tốc độ gió trên khu vực tính toán.
Nghĩa là các khu vực được lựa chọn cố gắng
sao cho nằm ngoài phạm vi ảnh hưởng trực tiếp
của TC.
Trên mỗi khu vực, bài báo tiến hành đánh
giá sự biến đổi của tốc độ gió ở ba mực đẳng áp
chuẩn là 1000mb, 850mb và 700mb. Mực thứ
nhất để đánh giá sự thay đổi của gió gần bề mặt,
mực thứ hai (850mb) là mực có SM ổn định
nhất, thường được dùng để xác định các chỉ số
gió mùa, còn mực 700mb là độ cao mà SM
thường đạt đến khi có cường độ mạnh.
Cụ thể, tốc độ SM trung bình trong các
ngày có TC hoạt động, chênh lêch và mức biến
đổi của nó so với tốc độ SM trung bình được
xác định bằng các công thức sau:
(1)
(2)
(3)
Trong đó:
- , lần lượt là tốc độ SM
trung bình trong các ngày có TC hoạt động và
tốc độ SM trung bình ở mực khí áp p (1000mb,
850mb hay 700mb) vào thời gian t (từng tháng
hoặc trung bình thời kỳ) trên khu vực i;
- là tốc độ SM trong ngày có TC
hoạt động thứ j ở mực khí áp p vào thời gian t
trên khu vực i;
- là chênh lệch hay chuẩn sai của
so với ;
- là mức biến đổi của
so với .
c. Phương pháp xác định phân bố tốc độ
SM khi có TC hoạt động
Ngoài việc xác định mức độ biến đổi của
tốc độ SM so với trung bình như đã trình bày ở
trên, bài báo còn tiến hành xây dựng biểu đồ
phân bố của tốc độ SM (biểu đồ tần suất thực
nghiệm) khi có TC hoạt động theo các ngưỡng
giá trị của tốc độ gió trung bình. Mục tiêu của
công việc này là để xác định xem khi có TC
hoạt động thì SM sẽ có tốc độ thay đổi như thế
nào, xác suất để cường độ SM đạt giá trị ở một
khoảng tốc độ nào đó là bao nhiêu phần trăm.
Từ kết quả đó mà các nhà dự báo có thể căn cứ
để đưa ra dự báo, cảnh báo một cách định lượng
và chính xác hơn.
Các ngưỡng giá trị của tốc độ gió được
xác định tương ứng ở từng mực khí áp và trên
từng khu vực gồm: VTB; 1,5VTB; 2VTBvà
2,5VTB.Từ bốn ngưỡng giá trị này, chúng tôi
tiến hành xác định tần số và tần suất xuất hiện
(tỉ lệ phần trăm) của tốc độ SM khi có TC
hoạt động trong năm khoảng giá trị, gồm có:
- VTC≤ VTB;
- VTB< VTC ≤ 1,5VTB;
- 1,5VTB < VTC ≤ 2VTB;
- 2VTB < VTC ≤ 2,5VTB;
- VTC> 2,5 VTB.
T.Đ. Linh và nnk. / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Các Khoa học Trái đất và Môi trường, Tập 34, Số 1S (2018) 124-131 127
Trong đó VTC là tốc độ SM trung bình
trong các ngày có TC hoạt động trên Biển
Đông,VTBtốc độ SM trung bình của cả giai
đoạn. Độ ớn của VTB trên từng mực đẳng áp
và ở từng khu vực là khác nhau. Khác với
việc đánh giá mức độ biến đổi ở trên, trong
nội dung này, bài báo chỉ xây dựng biểu đồ
tần suất cho hai mực khí áp là 1000mb và
850mb. Nghĩa là, bài báo sẽ xác định hai giá
trị VTB, từ đó xây dựng hai biểu đồ tần suất
theo các ngưỡng giá trị khác nhau cho mỗi
khu vực.
3. Kết quả và thảo luận
3.1. Thời gian có TC hoạt động trên Biển Đông
Kết quả thống kê trong bản 1 cho thấy TC
hoạt động với tần suất lớn trong các tháng 7, 8,
9. Trung bình mỗi tháng có hơn 6 ngày/tháng
TC hoạt động (tháng 7), hoặc gần 9 ngày/tháng
(tháng 8, tháng 9). Trong tháng 5 - tháng 6, tần
suất hoạt động của TC thấp hơn. Cụ thể trong
tháng 6 là khoảng 3 ngày/tháng và tháng 5
trung bình chưa tới 1 ngày/tháng.
Bảng 1. Số ngày TC hoạt động trên Biển Đông giai
đoạn 1981-2015
Thời gian
Số ngày bão hoạt động
Tổng số(ngày)
Trung bình
(ngày/tháng)
Tháng 5 23 0,66
Tháng 6 106 3,02
Tháng 7 223 6,37
Tháng 8 301 8,6
Tháng 9 300 8,57
Cả thời kỳ 953
27,2
(ngày/thời kỳ)
3.2. Mức độ biến đổi của tốc độ SM khi có TC
hoạt động trên Biển Đông
Sự biến đổi của tốc độ SM, tốc độ SM khi
có TC hoạt động trên Biển Đông và mức biến
đổi của nó so với trung bình trên các mực ở hai
khu vực được thể hiện ở hình 2. Kết quả cho
thấy, tốc độ SM trung bình của cả thời kỳ từ
tháng 5 đến tháng 9 trên các mực ở hai khu vực
biến đổi từ 4,33m/s (mực 1000mb – vùng 1)
đến gần 6,97m/s (mực 850mb – vùng 2). Trong
các tháng được xem xét, sự biến đổi của tốc độ
SM trung bình là có qui luật và tương đối rõ
ràng,giá trị của nó nhỏ nhất trong tháng 5 và
lớn nhất trong tháng 7, tháng 8. So sánh tốc độ
gió giữa hai khu vực và giữa các mực cho thấy
ở vùng 2 tốc độ gió lớn hơn ở vùng 1 và ở cả
hai khu vực tốc độ gió lớn nhất ở mực 850mb
và nhỏ nhất ở mực 1000mb.
Khi có TC hoạt động thì tốc độ SM tăng
lên, điều này được thể hiện ở cả hai khu vực và
trên tất cả các mực đẳng áp. Mức tăng so với
tốc độ gió trung bình trong cả thời kỳ trên các
mực đẳng áp ở hai khu vực biến đổi từ khoảng
30% đến hơn 85%. Tốc độ gió khi có TC hoạt
động trong tất cả các tháng trên cả hai vùng là
gần tương đương nhau ở cả ba mực khí áp.
Điều này có nghĩa là tốc độ SM khi có TC hoạt
động ít phụ thuộc vào thời gian trong năm, khác
với sự phụ thuộc vào thời gian của tốc độ gió
trung bình khi tốc độ gió biến đổi khá lớn giữa
các tháng.
Mức tăng của tốc độ gió có biến động khá
lớn, từ không đáng kể (dưới 1m/s – tháng 9,
mực 1000mb, vùng 2) đến gần 2,5 lần tốc độ
trung bình (5,95m/s - tháng 5, mực 700mb,
vùng 1). Bên cạnh đó, mức tăng ở vùng 1 cao
hơn mức tăng ở vùng 2 trên cả ba mực khí áp
và trong tất cả các tháng. Ở vùng 1, mức tăng
trung bình cả thời kỳ trên cả ba mực đều xấp xỉ
hoặc trên 50%, thậm chí mức tăng đạt đến
86,12% so với trung bình ở mực 700mb. Trong
khi đó, ở vùng 2 mức tăng của tốc độ SM khi có
TC hoạt động chỉ đạt trên dưới 30% so với tốc
độ trung bình.
Mức biến đổi của tốc độ gió ở mực 700mb
là lớn nhất, điều này có thể được lí giải vì SM
trong điều kiện trung bình đã yếu đi khi lên đến
độ cao này. Còn khi có TC hoạt động trên Biển
Đông, đóng vai trò như một trung tâm hút gió
mạnh thì gió mùa phát triển cả về cường độ lẫn
bề dày của nó, đến mực 700mb SM vẫn mạnh
tương đương (vùng 2) hoặc hơn (vùng 1) so với
ở mực 850mb.
T.Đ. Linh và nnk. / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Các Khoa học Trái đất và Môi trường, Tập 34, Số 1S (2018) 124-131
128
Ở tất cả các mực khí áp trên cả hai khu
vực, sự biến đổi của tốc độ gió so với trung
bình là lớn nhất trong tháng 5. Mức biến đổi
của tốc độ SM trong tháng này vượt xa nhiều
lần so với mức biến đổi trong các tháng khác.
Chuẩn sai của tốc độ gió so với trung bình rất
lớn do đây là tháng mà SM mới phát triển và
chưa mạnh chứ không phải do sự tăng lên
vượt trội của tốc độ gió khi có hoạt động của
TC (tốc độ SM khi có TC hoạt động tương
đương trong các tháng khác).
Hình 2. Sự biến đổi của tốc độ SM trung bình (Vtb), tốc độ SM khi có TC hoạt động trên Biển Đông (Vtc),
chuẩn sai (CS) và mức biến đổi so với trung bình ở các mực 1000mb (hàng trên), 850mb (hàng giữa) và
700mb (hàng dưới) tại khu vực 1 (cột bên trái) và khu vực 2 (cột bên phải).
T.Đ. Linh và nnk. / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Các Khoa học Trái đất và Môi trường, Tập 34, Số 1S (2018) 124-131 129
3.3. Phân bố của tốc độ SM khi có TC hoạt
động trên Biển Đông
Kết quả ở hình 3 và bảng 2 cho thấy SM khi
có TC hoạt động chủ yếu đạt tốc độ trong
khoảng từ 1 đến 2 lần tốc độ trung bình với
tổng tần suất từ khoảng 55% đến hơn 75%.
Trong đó, tần suất xuất hiện ở vùng 2 cao hơn ở
vùng 1, mực 1000mb cao hơn mực 850mb.Ở
vùng 2,tổng tần suất mà SM có tốc độ trong
khoảng nàylần lượt là73,8% (1000mb) và
66,8% (850mb) so với 58,1% (1000mb) và
54,9%(850mb) ở vùng 1.
Ở vùng 1, khi có TC hoạt động, SM có tốc
độ chủ yếu trong khoảng 1,5 đến 2 lần so với
tốc độ trong điều kiện trung bình. Trong khi ở
vùng 2, tỉ lệ xuất hiện gió trong khoảng từ 1
đến 1,5 lần lại lớn nhất. Hơn nữa, ở vùng 1 tỉ
lệ gió đạt ngưỡng tốc độ cao (VTC>2 VTB) lớn
hơn nhiều so với ở vùng 2. Từ kết quả này
chúng ta có thể nhận định rằng, khi có TC
hoạt động tốc độ SM ở vùng biển phía đông
nước ta (ví dụ ở khu vực giữa và nam Biển
Đông) có khả năng được tăng cường lên
nhiều hơn tốc độ SM ở vùng biển phía tây,
tây nam như ở vịnh Thái Lan.
Ngoài ra, kết quả tính toán cũng cho thấy
một điều khá thú vị đó là khả năng xuất hiện
SM với tốc độ tương đương, thậm chí nhỏ
hơn tốc độ trong điều kiện trung bình là có,
thậm chí còn xuất hiện với tỉ lệ khá cao, tỉ lệ
này dao động ở khoảng từ 15% đến 30%.
Hình 3: Tần số và tỉ lệ xuất hiệntrong các khoảng giá trị của tốc độ SM khi có TC hoạt động trên Biển Đông ở
mực 1000mb (hàng trên), 850mb (hàng dưới) tại khu vực 1 (cột bên trái) và khu vực 2 (cột bên phải)
T.Đ. Linh và nnk. / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Các Khoa học Trái đất và Môi trường, Tập 34, Số 1S (2018) 124-131
130
Bảng 2. Tỉ lệ xuất hiện của tốc độ SM khi có TC hoạt động trên Biển Đông (VTC)
trong các khoảng giá trịtheo tốc độ gió trung bình (VTB)
Các khoảng tốc độ
Tỉ lệ xuất hiện (%)
Vùng 1 Vùng 2
1000mb 850mb 1000mb 850mb
VTC ≤ VTB 14,0 18,3 25,6 27,7
VTB<VTC ≤ 1,5VTB 24,1 24,9 48,6 35,9
1,5VTB< VTC ≤ 2VTB 34,0 30,0 25,2 30,9
2VTB< VTC ≤ 2,5VTB 21,7 20,3 0,6 5,3
VTC>2,5VTB 6,2 6,5 0 0,2
4. Kết luận
Qua phân tích đặc điểm của tốc độ SM khi
có khi TC hoạt động trên Biển Đông, bài báo có
một số kết luận sau:
1. Tốc độ SM trên khu vực phía Nam Việt
Nam khi có TC hoạt động trên Biển Đông ít
phụ thuộc vào thời gian trong năm, độ lớn của
nó là gần tương đương nhau trong tất cả các
tháng;
2. Khi TC hoạt động trên Biển Đông, tốc độ
SM tăng lên, mức tăng trong khoảng từ 30%
đến 85% và phụ thuộc vào khu vực cũng như
mực độ cao trong khí quyển;
3. Khi TC hoạt động trên Biển Đông, tốc độ
SM trên khu vực phía Nam Việt Nam có tần
suất xuất hiện lớn nhất trong khoảng 1 đến 1,5
lần hoặc 1,5 đến 2 lần so với tốc độ trung bình.
Tổng tần suất trên các mực ở hai khu vực từ
khoảng 55% đến gần 75%.
Lời cảm ơn
Bài báo này sử dụng số liệu của đề tài
“Nghiên cứu sự dịch chuyển mùa của các hệ
thống gió mùa và ảnh hưởng của nó đến sự biến
động thời tiết trên khu vực Việt Nam”, mã số
TNMT.2016.05.07. Các tác giả xin chân thành
cảm ơn.
Tài liệu tham khảo
[1] Nguyễn Viết Lành (2007), Nghiên cứu ảnh hưởng
của gió mùa Á-Úc đến thời tiết, khí hậu Việt
Nam, Báo cáo tổng kết đề tài nghiên cứu khoa học
cấp Bộ.
[2] Trần Đình Linh, Lê Minh Đức, Nguyễn Thị
Thanh Tâm, Đỗ Thị Tuyết Mai (2016), Đặc điểm
các trung tâm khí áp và trường hoàn lưu thời kỳ
mùa hè trong các pha ENSO, Kỷ yếu hội thảo
khoa học Semregg lần thứ 3, p55-62.
[3] Jianhua Ju, Julia Slingo (1995), The Asian
summer monsoon and ENSO, Royal
Meteorologycal Society, Volume 121, Issue 525,
p1133-1168.
[4] Xuezhen Zhang, Maowei Wu, Yang Liu, Zhixin
Hao, Jingyun Zheng (2018), The relationship
between the East Asian Summer Monsoon anf El-
Nino – Southern Oscillation revealed by
reconstructions and a control simulation for
millenium, Quaternary International (online publish).
[5] https://www.sciencedirect.com/science/article/pii/
S1040618218307432?via%3Dihub
[6] I Hilmi, N S Ningsih, I Sofian, A M Rizal (2018),
The study of MJO impact on wave hight and wind
speed in Indosian Seas, IOP Conference Series:
Earth and Environmental Science, 162 (2018)
01/2004.
T.Đ. Linh và nnk. / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Các Khoa học Trái đất và Môi trường, Tập 34, Số 1S (2018) 124-131 131
Characteristics Of The Summer Monsoon
In The Southern of Vietnam During Tropical Cyclone
Activity In The Vietnam’s East Sea
Tran Dinh Linh, Chu Thi Thu Huong, Tran Thi Kim Ngan
Faculty of Meteorology and Hydrology, Hanoi University of Natural Resources and Environment
41A, Phu Dien, North Tu Liem, Hanoi, Vietnam
Abstract: In order to investigate the characteristic of Summer Monsoon in the Southern of
Vietnam (SM) during Tropical Cyclone (TC) acitivity in the Vietnam’s East Sea (VES), we have used
the ERA Interim reanalysis data to determine the characteristic of SM intensity in two areas at three
levels (1000mb, 850mb and 700mb). The first area (0 - 10
0
N; 105 - 110
0
E) was used to examine the
change of wind from Australian High and the second area (5 - 15
0
N; 90 - 105
0
E) was used to analyze
the change of wind from Mascarene High. These variations are investigated towards two
characteristics: (1) Anomaly of wind compared with mean value and (2) Appearance frequency of
wind in each value range. The results show that SM intensity during TC activity in the VES is less
dependent on the time of year. SMI is stronger from 30% up to 85% of the mean values. In addition,
during TC activity in the VES, frequency of SMI gets the maximum value at the range of VTB - 1,5VTB
or 1,5VTB - 2VTB with the total of frequency from 55% to 75%.
Keywords: Characteristic of Summer Monsoon; Tropical Cyclone activity in the Vietnam’s East Sea.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 4343_49_9152_1_10_20181225_5755_2106834.pdf