Quan sát dòng chảy tại điểm số 1 cho thấy hàng ngày có sự thay đổi dòng
chảy của sông theo hướng từ sông ra biển và ngược lại từ biển vào sông, do ảnh
hưởng của thuỷ triều. Giữa các chu kỳ thay đổi hướng chảy của sông là thời gian
nước đứng. Tại thời điểm này, tính chất thuỷ văn của sông giống trong các hồ
chứa. Điều này liên quan đến sự phân bố mật độ di cư của trứng cá - cá con ở các
tầng nước khác nhau. Theo kết quả phân tích về định lượng cho thấy, hầu hết thời
gian trong ngày, mật độ trứng cá Trích ở tầng đáy lớn hơn tầng mặt. Mật độ trứng
cá tầng đáy tập trung lớn nhất vào khoảng thời gian thủy triều đạt đỉnh. Sau khi
thủy triều đạt đỉnh, ảnh hưởng của thuỷ triều giảm, nước có hướng chảy từ sông ra
biển, trứng cá Trích di cư chủ yếu ở tầng mặt và có mật độ lớn nhất khi đỉnh triều
là thấp nhất, tốc độ dòng chảy theo hướng sông ra biển là lớn nhất (hình 4). Tại
điểm số 2 hầu như không có ảnh hưởng của thủy triều đến dòng chảy của sông,
dòng chảy tại đây chỉ chảy từ sông ra biển nên mật độ của trứng cá - cá con hầu
như không bị tác động, chúng tập trung chủ yếu tại tầng mặt và tầng giữa. Kết quả
này cho thấy thủy triều và tốc độ dòng chảy bề mặt của sông có ảnh hưởng lớn đến
sự di cư của trứng cá - cá con thuộc bộ cá Trích ra biển để tiếp tục phát triển trong
các giai đoạn sinh trưởng tiếp theo.
Kết quả nghiên cứu, phân tích định loại các mẫu thu được tại điểm số 1 và 2 cho
thấy họ cá Trích di cư vào lưu vực sông Hồng để đẻ gồm 2 loài là cá Mòi cờ hoa -
Clupanodon thrissa (Linnaeus, 1758) và cá Cháy - Tenualosa reevesii (Richardson,
1846). Căn cứ mật độ, thời điểm thành thục sinh sản (các mẫu cá thu được đều có
tuyến sinh dục của cá đực và cá cái trong giai đoạn 5, 6), tốc độ trung bình của dòng
chảy có thể cho rằng loài cá Mòi chỉ đẻ trứng tại đoạn sông nằm cách cửa biển 60
đến 120 km. Địa điểm cụ thể của khu vực cá đẻ trứng cũng là vấn đề cần được
nghiên cứu trong thời gian tiếp theo. Các kết quả nghiên cứu về trứng cá - cá con
trên đây có thể cung cấp thông tin cho việc quy hoạch và xây dựng các khu bảo tồn
nhằm bảo vệ các bãi đẻ của cá Trích tại hạ lưu sông Hồng, góp phần bảo tồn quần
thể các loài cá quý và bảo vệ đa dạng sinh học.
8 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Lượt xem: 3 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đặc điểm di cư của trứng cá - cá con thuộc bộ cá trích (clupeifomes) tại hạ lưu sông Hồng, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nghiên cứu khoa học công nghệ
Tạp chí Khoa học và Công nghệ nhiệt đới, Số 04, 09 - 2013 44
ĐẶC ĐIỂM DI CƯ CỦA TRỨNG CÁ - CÁ CON THUỘC BỘ
CÁ TRÍCH (CLUPEIFOMES) TẠI HẠ LƯU SÔNG HỒNG
PHẠM HỒNG PHƯƠNG (1), NHEZDOLY V.K. (2)
I. MỞ ĐẦU
Trứng cá - cá con trôi dạt theo dòng chảy có thể gọi là sự di cư thụ động của
cá [9]. Quá trình này có vai trò quan trọng trong việc tái định cư về mật độ và phân bố
của các loài cá trên các lưu vực sông. Ở nước ngoài, nghiên cứu di cư của trứng cá -
cá con được tiến hành đối với cá Hồi - Salmonid anadromous. Tại Nga, các nghiên
cứu về di cư của nhiều loài cá đã được tiến hành, điển hình là các nghiên cứu về sự di
cư cá trên các sông Volga, Ili và các hồ chứa [9, 10, 12]. Ở Việt Nam, từ 2002 đến
2006, nhóm nghiên cứu thủy sinh thuộc Trung tâm Nhiệt đới Việt - Nga đã tiến hành
các nghiên cứu sự di cư của trứng cá và cá con tại sông Cái, Nha Trang [7].
Sông Hồng là một sông lớn có chiều dài 1.149 km, trong đó có 510 km nằm trong
lãnh thổ Việt Nam. Việc nghiên cứu đặc điểm phân bố của trứng cá - cá con vùng hạ
lưu, đặc biệt ở khu vực cửa sông, nơi có tác động của dòng triều còn ít được thực hiện.
Bộ cá Trích (Clupeiformes) thuộc lớp cá Vây tia (Actinopterygii) là một trong
những bộ cá xương nguyên thủy sống trong môi trường nước biển và nước ngọt [8].
Nghiên cứu phân tích định loại mẫu vật và các kết quả điều tra phỏng vấn cho thấy
họ cá Trích di cư vào lưu vực sông Hồng để đẻ gồm 2 loài là cá Mòi cờ hoa
Clupanodon thrissa [3] và cá Cháy - Tenualosa reevesii [3, 5]. Tuy nhiên, loài cá
Cháy trong những năm gần đây hầu như không được bắt gặp mà chỉ thấy loài cá Mòi
cờ hoa. Cá Mòi cờ hoa có tập tính di cư từ biển vào các sông lớn để sinh sản, đẻ
trứng trôi nổi theo dòng chảy. Cá Mòi có sức sinh sản cao, mỗi cá thể cho 2 - 5 vạn
trứng một mùa. Thời vụ cá đẻ từ cuối tháng 3 đến tháng 5, rộ nhất vào trung tuần
tháng 4. Cá Mòi đã được đưa vào Sách Đỏ Việt Nam (1992, 2001, 2007) và danh
sách các loài cần bảo vệ của ngành Thủy sản từ năm 1996 [1]. Đây là loài cá có giá
trị thực phẩm, thịt ngon, sản lượng khai thác ở hạ lưu các sông khá cao, ước tính vào
thập kỷ 60 của thế kỷ trước, hàng năm ở miền Bắc đạt 800 tấn. Cá Mòi có triển vọng
trở thành cá nuôi ở đầm nước lợ [2].
Bài báo trình bày kết quả nghiên cứu bước đầu về đặc điểm phân bố và di cư
của trứng cá - cá con bộ cá Trích vùng hạ lưu sông Hồng, một trong những bộ cá có
giá trị kinh tế và có vòng đời di cư sông biển điển hình.
II. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
1. Địa điểm và thời gian lấy mẫu
Việc thu mẫu trứng cá - cá con được tiến hành vào cuối mùa khô, từ cuối
tháng 4 đến giữa tháng 5 năm 2009. Thời điểm lấy mẫu mỗi lần cách nhau 2 giờ
trong suốt ngày đêm, mỗi lần thả lưới 30 phút. Địa điểm lấy mẫu gồm 7 điểm trên
sông Hồng (hình 1) đoạn từ Phú Thọ đến cầu Tân Đệ, Thái Bình (cách bờ biển từ
65 - 250 km) và các phụ lưu của sông Hồng là sông Đà và sông Lô (khu vực ngã
ba sông Đà - Lô - Thao). Tại mỗi điểm, mẫu được lấy ở 3 độ sâu: Tầng mặt (0,5 m),
tầng giữa (5 m) và tầng đáy (10 m).
Nghiên cứu khoa học công nghệ
Tạp chí Khoa học và Công nghệ nhiệt đới, Số 04, 09 - 2013 45
Hình 1. Vị trí các điểm thu mẫu
2. Phương pháp thu và xử lý mẫu
Mẫu trứng cá - cá con được thu bằng lưới thụ động, miệng lưới hình chữ nhật,
diện tích 0,2 m2 (50 x 40 cm). Các mẫu trứng cá - cá con ngay sau khi thu được đem
cố định trong dung dịch formalin 4 - 8%, lọc tách trong phòng thí nghiệm và bảo
quản trong cồn 70o. Thành phần loài cá được xác định bằng kính lúp soi nổi, định
loại bằng các tài liệu ngư loại học [3, 4, 5, 6]. Các thông số như tốc độ dòng chảy,
nhiệt độ, độ trong của nước tại các thời điểm và vị trí lấy mẫu được đo và sử dụng
trong phân tích kết quả.
III. KẾT QUẢ VÀ BÀN LUẬN
Cuối tháng 4 và đến giữa tháng 5 năm 2009, chúng tôi đã tiến hành nghiên cứu
thành phần và phân bố của trứng cá - cá con thuộc bộ cá Trích vùng hạ lưu sông
Hồng theo chu kỳ ngày đêm và các tầng nước khác nhau, đánh giá về mật độ, sự
phân bố của trứng cá - cá con. Qua thời gian lấy mẫu 6 ngày đêm liên tục với 217
mẫu, đã xác định được 3.338 trứng cá - cá con (bảng 1).
Bảng 1. Vị trí, thời gian và số lượng mẫu
Điểm thu mẫu Số lượng
TT
Khoảng
cách từ
biển, km
Độ
trong Vị trí thu mẫu
Thời gian
thu mẫu Tổng số mẫu
Tổng số
trứng cá
và cá con
1 65 70 Cầu Tân Đệ - 500 m (hạ lưu cầu) 28 - 29/4/09 36 2089
2 100 70 Cầu Yên Lệnh - 500 m (hạ lưu cầu) 30/4 - 1/5/09 36 49
3 175 60 Cầu Thăng Long -500 m (hạ lưu cầu) 25/5/09 1 11
4 210 50 Sơn Tây 4 - 5/5/09 36 197
5 230 40 Sông Lô 11 - 12/5/09 36 677
6 245 150 Sông Đà 6 - 7/5/09 36 278
7 250 10 Sông Thao 9 - 10/5/09 36 35
Tổng số 217 3338
Nghiên cứu khoa học công nghệ
Tạp chí Khoa học và Công nghệ nhiệt đới, Số 04, 09 - 2013 46
Kết quả phân tích đã xác định được thành phần loài cá di cư gồm 8 bộ (bảng 2).
Về số lượng loài, bộ cá Trích - Clupeifomes chiếm tỷ lệ 62,7%, bộ cá Chép -
Cypriniformes: 18,4%, bộ cá Vược - Perciformes: 17,1% và các bộ khác chiếm 1,8%.
Trong tổng số trứng cá - cá con thu được, trứng cá chiếm 66,1%; cá con chiếm 33,9%.
Trong đó về trứng cá, bộ cá Trích chiếm thành phần chủ yếu (93%), trong khi các mẫu
cá con hầu hết lại thuộc hai bộ cá Vược (50,2%) và cá Chép (41,9%). Về kích thước,
các mẫu trứng cá của bộ cá Trích thường có đường kính 0,8 - 1,2 mm. Chiều dài thân
của các mẫu cá con từ 4,5 đến 37,0 mm, phổ biến là trong khoảng 5 - 12 mm (85%).
Bảng 2. Thành phần phiêu sinh cá lưu vực sông Hồng
Điểm thu mẫu
Các bộ
1 2 3 4 5 6 7
Trứng cá/
cá con
Bộ cá Trích
Clupeiformes 2023/14 33/1 0 7/11 0/3 0 0 2063/29
Bộ cá Chép
Cypriniformes 13/17 2/12 0/10 76/62 20/343 12/19 18/11 141/474
Bộ cá Vược
Perciformes 0/6 0/1 0/1 0/41 2/270 0/244 0/5 2/568
Bộ cá Nheo
Siluriformes 0/0 0/0 0/0 0/0 0/28 0/1 0/1 0/30
Bộ cá Ốt me
Osmeriformes 0/1 0 0 0 0/4 0/1 0 0/6
Bộ cá Nhái
Beloniformes 0/4 0 0 0 0 0 0 0/4
Bộ cá Đối
Mugiliformes 0/1 0 0 0 0 0 0 0/1
Bộ cá Nóc
Tetraodontiformes 0/1 0 0 0 0 0 0 0/1
Các bộ khác 0/10 0 0 0 0/9 0 0 0/19
Tổng số 2036/54 35/14 0/11 83/114 22/657 12/265 18/17 2206/1132
Phân tích số liệu từ 7 điểm thu mẫu trứng cá - cá con nước ngọt lưu vực hạ lưu
sông Hồng cho thấy có sự khác nhau rõ rệt mật độ trứng cá - cá con giữa các điểm thu
mẫu. Mật độ trứng cá - cá con hạ lưu sông Hồng ở các điểm gần cửa sông cao hơn
đáng kể so với những điểm ở xa cửa sông. Ngoài ra, tại các điểm số 5, 6, 7 hầu hết các
mẫu trứng cá - cá con thuộc bộ cá Vược, tại điểm số 4 chủ yếu là trứng cá - cá con bộ
cá Chép, còn tại các điểm số 1, 2 lại chủ yếu là trứng cá - cá con của bộ cá Trích.
Nghiên cứu khoa học công nghệ
Tạp chí Khoa học và Công nghệ nhiệt đới, Số 04, 09 - 2013 47
Kết quả nghiên cứu cũng cho thấy sự xuất hiện của trứng cá - cá con thuộc bộ
cá Trích chỉ tập trung chủ yếu tại hai điểm số 1 và số 2, cách biển từ 60 đến 100 km
và cách nhau 40 km. Phân tích các số liệu thu được về số lượng trứng cá - cá con
tại các điểm số 1 và 2 cũng cho thấy có sự khác nhau về thời điểm di cư của
trứng cá - cá con bộ cá Trích (hình 2). Tại điểm số 1, mật độ di cư lớn nhất của
trứng cá - cá con vào thời điểm từ 23 giờ đến 1 giờ sáng, đạt số lượng từ 331 đến
345 trứng cá - cá con trong 100 m3 nước. Tại điểm số 2, mật độ trứng cá - cá con
thấp hơn đáng kể, chỉ đạt tối đa 5 - 10 trứng cá - cá con trong 100 m3 nước và vào
thời điểm từ 5 - 7 giờ sáng. Tuy nhiên, sự di cư của trứng diễn ra chủ yếu là vào
ban đêm với tỷ lệ mẫu thu được chiếm đến 85%.
Hình 2. Sự biến động số lượng của trứng cá - cá con bộ cá Trích theo chu kỳ
ngày đêm tại điểm số 1 (theo thứ tự tầng mặt, tầng giữa, tầng đáy)
Phân tích các số liệu quan trắc về mật độ trứng cá - cá con thuộc bộ cá
Trích tại điểm số 1 và số 2 theo chiều thẳng đứng cũng cho thấy sự khác nhau về
mật độ giữa các điểm cũng như các tầng nước khác nhau. Tại điểm số 1, mật độ
trứng cá - cá con tập trung chủ yếu ở tầng mặt và tầng đáy (63,1% và 36,2%),
tầng giữa (0,7%). Tại điểm số 2, tầng mặt và tầng giữa cao hơn, lần lượt là
57,3% và 35%, còn lại là tầng đáy 7,7% (hình 3). Ðiều này dẫn đến một câu hỏi
rất thú vị là tại sao tại điểm số 1 lại có mật độ trứng cá - cá con ở tầng giữa thấp
hơn rất nhiều (0,7%) so với điểm số 2 là 36,2%. Sự khác nhau này được lý giải
khi nghiên cứu về dòng chảy của hạ lưu sông Hồng và thủy triều là yếu tố ảnh
hưởng đến mật độ trứng cá - cá con.
Số lượng
trứng cá-
cá con/100m3
0.00
50.00
100.00
150.00
200.00
250.00
300.00
350.00
11,00 13,00 15,00 17,00 19,00 21,00 23,00 1,00 3,00 5,00 7,00 9,00
Thời gian
Nghiên cứu khoa học công nghệ
Tạp chí Khoa học và Công nghệ nhiệt đới, Số 04, 09 - 2013 48
Hình 3. Mật độ trứng cá - cá con theo các tầng nước tại điểm số 1 và 2
Quan sát dòng chảy tại điểm số 1 cho thấy hàng ngày có sự thay đổi dòng
chảy của sông theo hướng từ sông ra biển và ngược lại từ biển vào sông, do ảnh
hưởng của thuỷ triều. Giữa các chu kỳ thay đổi hướng chảy của sông là thời gian
nước đứng. Tại thời điểm này, tính chất thuỷ văn của sông giống trong các hồ
chứa. Điều này liên quan đến sự phân bố mật độ di cư của trứng cá - cá con ở các
tầng nước khác nhau. Theo kết quả phân tích về định lượng cho thấy, hầu hết thời
gian trong ngày, mật độ trứng cá Trích ở tầng đáy lớn hơn tầng mặt. Mật độ trứng
cá tầng đáy tập trung lớn nhất vào khoảng thời gian thủy triều đạt đỉnh. Sau khi
thủy triều đạt đỉnh, ảnh hưởng của thuỷ triều giảm, nước có hướng chảy từ sông ra
biển, trứng cá Trích di cư chủ yếu ở tầng mặt và có mật độ lớn nhất khi đỉnh triều
là thấp nhất, tốc độ dòng chảy theo hướng sông ra biển là lớn nhất (hình 4). Tại
điểm số 2 hầu như không có ảnh hưởng của thủy triều đến dòng chảy của sông,
dòng chảy tại đây chỉ chảy từ sông ra biển nên mật độ của trứng cá - cá con hầu
như không bị tác động, chúng tập trung chủ yếu tại tầng mặt và tầng giữa. Kết quả
này cho thấy thủy triều và tốc độ dòng chảy bề mặt của sông có ảnh hưởng lớn đến
sự di cư của trứng cá - cá con thuộc bộ cá Trích ra biển để tiếp tục phát triển trong
các giai đoạn sinh trưởng tiếp theo.
Điểm số 1
Điểm số 2
57.3
34.98
7.74
63.11
0.67
36.22
0
10
20
30
40
50
60
70
Tỷ lệ (%)
Tầng mặt
Tầng giữa
Tầng đáy
Nghiên cứu khoa học công nghệ
Tạp chí Khoa học và Công nghệ nhiệt đới, Số 04, 09 - 2013 49
Hình 4. Biểu đồ phân bố mật độ trứng cá - cá con theo thời gian
tại tầng mặt và tầng đáy ở điểm số 1
Kết quả nghiên cứu, phân tích định loại các mẫu thu được tại điểm số 1 và 2 cho
thấy họ cá Trích di cư vào lưu vực sông Hồng để đẻ gồm 2 loài là cá Mòi cờ hoa -
Clupanodon thrissa (Linnaeus, 1758) và cá Cháy - Tenualosa reevesii (Richardson,
1846). Căn cứ mật độ, thời điểm thành thục sinh sản (các mẫu cá thu được đều có
tuyến sinh dục của cá đực và cá cái trong giai đoạn 5, 6), tốc độ trung bình của dòng
chảy có thể cho rằng loài cá Mòi chỉ đẻ trứng tại đoạn sông nằm cách cửa biển 60
đến 120 km. Địa điểm cụ thể của khu vực cá đẻ trứng cũng là vấn đề cần được
nghiên cứu trong thời gian tiếp theo. Các kết quả nghiên cứu về trứng cá - cá con
trên đây có thể cung cấp thông tin cho việc quy hoạch và xây dựng các khu bảo tồn
nhằm bảo vệ các bãi đẻ của cá Trích tại hạ lưu sông Hồng, góp phần bảo tồn quần
thể các loài cá quý và bảo vệ đa dạng sinh học.
IV. KẾT LUẬN
1. Cuối mùa khô, đầu mùa mưa, hiện tượng di cư trứng cá - cá con diễn ra tại
tất cả các điểm lấy mẫu ở trên 200 km hạ lưu sông Hồng, trong đó bộ cá Trích -
Clupeifomes chiếm tỷ lệ cao nhất (62,7%). Các mẫu phiêu sinh thuộc bộ cá Trích
hầu hết là trứng cá, chiếm 93% tổng số trứng cá - cá con, có đường kính khoảng
0,8 - 1,2 mm.
2. Sự di cư trứng cá - cá con bộ cá Trích xảy ra chủ yếu ở gần cửa biển, có mật
độ và phân bố phụ thuộc vào các yếu tố không gian và thời gian, liên quan chặt chẽ
với hoạt động của thủy triều và dòng chảy của hạ lưu sông Hồng.
Mật độ
0.00
50.00
100.00
150.00
200.00
250.00
300.00
350.00
400.00
Thời gian
11,00 13,00 15,00 17,00 19,00 21,00 23,00 1,00 3,00 5,00 7,00 9,00
0
3
1
2
0.5
1.5
2.5
3.5
4
Tầng mặt Tầng đáy Cao trình mực nước
v=0 v=0 v=0
Biển ← SôngBiển ← Sông Biển → Sông
Nghiên cứu khoa học công nghệ
Tạp chí Khoa học và Công nghệ nhiệt đới, Số 04, 09 - 2013 50
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ Thuỷ Sản, Nguồn lợi thuỷ sản Việt Nam, NXB Nông Nghiệp, 1996, tr.616.
2. I.F.Pravdin (Phan Thị Minh Giang dịch), Hướng dẫn nghiên cứu cá, NXB
Khoa Học và Kỹ Thuật Hà Nội, 1973.
3. Mai Đình Yên, Định loại cá nước ngọt phía Bắc Việt Nam, NXB Khoa học và
Kỹ thuật Hà Nội, 1978.
4. Mai Đình Yên và cộng sự, Định loại các loài cá nước ngọt Nam Bộ, NXB
Khoa học và Kỹ thuật Hà Nội, 1992.
5. Maurice Kottelat, Fresshwater fishes of Northern Vietnam, The WB, 2001.
6. Mori T, Các nghiên cứu về sự phân bố địa lý của các loài cá nước ngọt ở
Đông Á, Tokyo, 1936, tr.88.
7. Nezdoly V.K., Ngô Chí Thiện, Nguyễn Duy Toàn, Sự di cư của cá phiêu sinh
cá sông Cái đến biển Nha Trang, Kỷ yếu Hội nghị quốc tế về phát triển hiện
đại hoá ngành Thuỷ sản của Việt Nam trong bối cảnh toàn cầu, Trường Đại
học Nha Trang, Việt Nam, 11/2006, tr.34-39.
8. Nguyễn Văn Hào, Ngô Văn Sỹ, Cá nước ngọt Việt Nam, tập I, (Cyprinidae), 2001.
9. Pavlov D.S., Nezdoly V.K., Khodorevskaya R.P., nnk, Sự di cư của cá
phiêu sinh cá tại sông Volga và Ili, M.: Nauka, 1981, tr.320.
10. Nezdoly V.K., Bước đầu nghiên cứu sự di cư của cá vùng hạ lưu sông Ili.
VNIRO, M., 1982, tr.24.
11. Nezdoly V.K., Ostrovsky M.P., Di cư vùng hạ lưu của trứng và ấu trùng của
các loài cá ăn thực vật trong hồ chứa, IEMEZH ASUSSR, 1989, tr.84-102.
12. Pavlov D.S., Pakhorukov A.M., Nezdoly V.K., Kuragina G.N., Ersler A.L.,
Nekrasov N., Brodsky D.A., Một số quy luật của di cư hạ lưu của cá con trong
các con sông Volga và Kuban, Tạp chí Ichthyology, 1977, tr.415-428.
Nghiên cứu khoa học công nghệ
Tạp chí Khoa học và Công nghệ nhiệt đới, Số 04, 09 - 2013 51
SUMMARY
MIGRATION CHARACTERISTICS OF CLUPEIFOMES
ICHTHYOPLANKTON IN THE DOWNSTREAM OF THE RED RIVER
The study describes some migration charateristics of Clupeiformes
ichthyoplanton in downstream of the Red river at the end of the dry season. At that
time the migratory phenomenon takes place at all sampling points along 200 km
downstream of the river. It is found that among the ichthyoplanton collected the
Clupeifomes account for the highest percentage (62,7%) and of which 93% is eggs.
The migration of Clupeiformes ichthyoplanton occurs mostly near the estuary. Its
density and distribution depend on the location and time of sampling, and closely
relate to the flow and tide at the downstream.
Nhận bài ngày 25 tháng 4 năm 2013
Hoàn thiện ngày 15 tháng 9 năm 2013
(1) Viện Sinh thái nhiệt đới, Trung tâm Nhiệt đới Việt - Nga
(2) Viện Các vấn đề Sinh thái và Tiến hoá LB Nga
Các file đính kèm theo tài liệu này:
dac_diem_di_cu_cua_trung_ca_ca_con_thuoc_bo_ca_trich_clupeif.pdf