Vietnam has a long coastal line along which there are many plains that are
composed of unconsolidated Kainozoic sediments in 5 granular aquifers overlying fissured ancient
rock. The Holocene unconfined aquifer (qh) at the top of the profile contains fresh water lens with
small potential water reserves. The Pleistocene (qp) and Neocene aquifers are confined with wide
distribution and complicated hydrogeochemical condition: saline water in most areas, fresh water
in small areas. There are 4 typical hydrogeochemical profiles in coastal areas: (I) fresh water in the
whole profile, (II) fresh water in the upper part and saline water in the lower part, (IV) saline water
in the whole profile, and (V) saline water in the upper part and fresh water in the lower part.
Profiles (I), (II), (V) have effective use for drinking water. The profile type (Ib) has distribution in
Thach Khe-Ha Tinh, Quang Tri and Thua Thien-Hue, (V) has distribution in Nam Dinh, Tra Vinh,
Soc Trang, Bac Lieu, Ca Mau and South-East of Kien Giang in which the fresh water can be in
shallow onshore areas.
7 trang |
Chia sẻ: honghp95 | Lượt xem: 880 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đặc điểm địa chất thuỷ văn, thủy địa hóa và tính phân đới của chúng ở vùng ven biển Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
334
Tạp chí Khoa học và Công nghệ Biển; Tập 15, Số 4; 2015: 334-340
DOI: 10.15625/1859-3097/15/4/7378
ĐẶC ĐIỂM ĐỊA CHẤT THUỶ VĂN, THỦY ĐỊA HÓA VÀ
TÍNH PHÂN ĐỚI CỦA CHÚNG Ở VÙNG VEN BIỂN VIỆT NAM
Nguyễn Văn Đản1*,Triệu Đức Huy2, Phạm Bá Quyền2,
Trần Duy Hùng3, Văn Thùy Linh4, Phùng Anh Đào5, Đào Văn Dũng2
1Hội Địa chất Thủy văn Việt Nam
2Liên đoàn Quy hoạch và Điều tra Tài nguyên nước miền Bắc
3Cục Quản lý Tài nguyên nước
4Trường Đại học Khoa học tự nhiên-Đại học Quốc gia Hà Nội
5Trung tâm Chất lượng và Bảo vệ Tài nguyên nước
*E-mail: nguyenvandan1950@yahoo.com
Ngày nhận bài: 23-4-2015
TÓM TẮT: Việt Nam có bờ biển dài. Vùng ven biển có hàng loạt các đồng bằng cấu tạo bởi
các các trầm tích Kainozoi bở rời được phân chia thành 5 tầng chứa nước lỗ hổng nằm trên các đá
cố kết khác nhau. Tầng chứa nước lỗ hổng Holocen (qh) nằm ở trên cùng của mặt cắt phân bố rộng
rãi, nước nhạt chỉ tồn tại ở dạng các thấu kính nên có trữ lượng rất nhỏ. Các tầng chứa nước lỗ
hổng Pleistocen (qp) và Pliocen (n2) phân bố rộng rãi ở hầu hết các đồng bằng song có điều kiện
địa chất thủy văn và thủy địa hóa rất phức tạp: nước mặn và nước nhạt phân bố xen kẽ nhau cả
theo diện và mặt cắt. Có 4 kiểu mặt cắt thủy địa hóa: (I) nước nhạt tồn tại ở cả toàn bộ mặt cắt; (II)
nước nhạt phân bố ở phần trên, nước mặn phân bố ở phần dưới của mặt cắt; (IV) nước mặn phân
bố ở toàn bộ mặt cắt; và (V) nước mặn phân bố ở phần trên, nước nhạt phân bố ở phần dưới của
mặt cắt. Các kiểu mặt cắt thủy địa hóa (I), (II) và (V) có ý nghĩa cung cấp nước cho ăn uống sinh
hoạt, trong đó phụ kiểu Ib; V có ý nghĩa cung cấp lớn. Phụ kiểu Ib phân bố ở Thạch Hà tỉnh Hà
Tĩnh, Triệu Phong tỉnh Quảng Trị, Phú Vang và Phú Lộc tỉnh Thừa Thiên Huế. Kiểu V phân bố ở
các vùng Hải Hậu và Nghĩa Hưng tỉnh Nam Định; các huyện ven biển của các tỉnh Trà Vinh, Sóc
Trăng, Bạc Liêu, Cà Mau và Kiên Giang, ở đó nước nhạt không những tồn tại ở phần lục địa mà
còn có thể cả ở vùng ngoài khơi kề liền.
Từ khóa: Địa chất thủy văn, thủy địa hóa, tính phân đới thủy địa hóa, đồng bằng ven biển.
KHÁI QUÁT CHUNG
Vùng ven biển nước ta, trừ một vài nơi là
đồi núi cấu tạo bởi các đá cổ bị cố kết rắn chắc
còn lại chủ yếu là đồng bằng cấu tạo bởi các
trầm tích bở rời tạo nên các đồng bằng châu thổ
gắn liền với các sông bồi đắp nên chúng:
Đồng bằng Bắc Bộ có sông Hồng, sông
Thái Bình;
Đồng bằng Thanh Hoá có sông Mã;
Đồng bằng Nghệ An - Hà Tĩnh có Sông Cả;
Đồng bằng Quảng Bình có sông Gianh;
Đồng bằng Thừa Thiên-Huế có sông
Hương;
Đồng bằng Phú Yên có sông Đà Rằng;
Đồng bằng Nam Bộ có sông Cửu Long,
sông Đồng Nai.
Trong đó đáng kể nhất là đồng bằng Bắc
Bộ và đồng bằng Nam Bộ với diện tích lớn, phì
nhiêu là các vùng kinh tế quan trọng vào bậc
nhất của đất nước.
Đặc điểm địa chất thủy văn, thủy địa hóa
335
Địa hình của các đồng bằng châu thổ nhìn
chung thấp và tương đối bằng phẳng. Lượng
mưa khá lớn, bình quân hàng năm ở đồng bằng
Bắc Bộ từ 1.600 mm đến 1.800 mm, ở các
đồng bằng miền Trung từ 1.200 mm đến
3.000 mm, ở đồng bằng Nam Bộ từ 1.300 mm
đến 2.100 mm, song phân bố không đều trong
năm: đến 80% tập trung vào mùa mưa. Các
đồng bằng châu thổ là vùng hạ lưu của các hệ
thống sông ở Việt Nam với nguồn nước rất lớn
đạt gần 800 km3 hàng năm, chiếm 85% nguồn
nước mặt trên toàn quốc. Nước sông, tương tự
như lượng mưa, phân bố không đều trong năm,
70 - 80% lượng nước tập trung vào mùa lũ kéo
dài trong 4 - 5 tháng trong năm.
Nước sông cùng với nước mưa là nguồn
cung cấp chính cho nước dưới đất (NDĐ). Các
đồng bằng ven biển tiếp xúc với Biển Đông ở
phía đông và phía tây nam thông ra Thái Bình
Dương. Nước biển có độ mặn cao (33 g/kg)
cùng với thuỷ triều ảnh hưởng lớn đến chất
lượng nước các cửa sông. Nước ở vùng hạ lưu
các tất cả các sông đều bị mặn. Nếu lấy giới
hạn độ mặn là 1 g/l thì giới hạn mặn ở các sông
chính cách cửa biển như sau: sông Thái Bình
45 km; sông Hồng 22 km; sông Đáy 22 km;
sông Mã 20 km; sông Cả 27 km; sông Hậu
20 km; sông Tiền 30 km; sông Đồng Nai 8 km.
Nước mặn ở biển và các cửa sông ảnh
hưởng rất lớn đến chất lượng NDĐ và là
nguyên nhân gây nhiễm mặn NDĐ nhất là
trong điều kiện khai thác.
Các đồng bằng châu thổ ở Việt Nam được
cấu tạo bởi các trầm tích Kainozoi, trong đó các
trầm tích Đệ tứ, đôi nơi cả Neogen, bở rời. Các
hoạt động địa chất kiến tạo và các đợt biển tiến
khác nhau trong Kainozoi nói chung và Đệ tứ
nói riêng đã tạo nên sự phân nhịp hình thành
các thành tạo vụn thô, dính kết xen kẽ nhau
trong mặt cắt địa chất, kết quả là hình thành các
tầng chứa nước khác nhau luân phiên nhau trên
mặt cắt làm cho đặc điểm địa chất thuỷ văn đặc
biệt là đặc điểm địa hoá rất phức tạp.
TÀI NGUYÊN NƯỚC DƯỚI ĐẤT
Khái quát về đặc điểm địa chất thủy văn
Đặc điểm tổng quát về địa chất thủy văn ở
các đồng bằng châu thổ trong các trầm tích bở
rời là tính chất chứa nước. NDĐ tồn tại, lưu
thông trong các khoảng trống của các hạt đất
đá. Đất đá vụn thô hạt càng lớn (như cuội, sỏi,
sạn) thì mức độ chứa nước và lưu thông của
NDĐ càng lớn; đất đá vụn thô hạt càng nhỏ
(như cát, cát pha) thì mức độ chứa nước và lưu
thông kém hơn; đất đá nhóm dính kết (sét, sét
pha) thì mức độ thấm nước rất yếu có thể xem
như cách nước.
Sự phân nhịp trong các trầm tích Kainozoi
ở các đồng bằng châu thổ là cơ sở để phân chia
mặt cắt ra các tầng chứa nước lỗ hổng từ trên
xuống dưới như sau:
Tầng chứa nước các trầm tích Holocen (qh);
Tầng chứa nước các trầm tích Pleistocen
giữa - trên (qp2);
Tầng chứa nước các trầm tích Pleistocen
dưới (qp1);
Tầng chứa nước các trầm tích Pliocen (n2);
Tầng chứa nước các trầm tích Miocen (n1);
Theo các nhà nghiên cứu [1-4] ở các khu
vực khác nhau, sự phân bố của chúng ở các
đồng bằng châu thổ như thể hiện ở bảng 1.
Bảng 1. Sự phân bố của các tầng chứa nước lỗ hổng ở các đồng bằng châu thổ Việt Nam
TT Vùng đồng bằng
Các tầng chứa nước
qh qp2 qp1 n2 n1
1 Bắc Bộ x x x x
2 Bắc Trung Bộ x x x x
3 Trung Trung Bộ x x x x
4 Nam Trung Bộ x x x x
5 Nam Bộ x x x x x
Như tổng hợp ở bảng trên cho thấy chỉ có ở
đồng bằng Nam Bộ là có mặt đầy đủ 5 tầng
chứa nước lỗ hổng. Ở đó các trầm tích bở rời
Kainozoi có chiều dày tăng dần từ trên dưới
Nguyễn Văn Đản, Triệu Đức Huy
336
100 m ở phía tây bắc (vùng biên giới
Campuchia) đến trên 500 m ở phía đông nam
(cửa sông Tiền và sông Hậu) và tăng dần theo
hướng đông bắc - tây nam từ vài chục mét ở
vùng Đồng Nai - Sông Bé đến khoảng 600 m ở
trung tâm đồng bằng (vùng Cần Thơ - Vĩnh
Long) sau đó giảm dần đến 400 m ở bán đảo
Cà Mau.
Các tầng chứa nước qp2; qp1; n2; n1 chỉ lộ ra
ở vùng ven rìa thuộc miền Đông Nam Bộ. Phần
còn lại bị phủ kín hoàn toàn.
Ở đồng bằng Bắc Bộ chỉ tồn tại 3 tầng chứa
nước lỗ hổng. Các trầm tích bở rời chủ yếu là
Đệ tứ và phần trên của trầm tích Pliocen có
chiều dày tăng dần từ vùng đỉnh, vùng ven rìa
(rìa đông bắc và rìa tây nam) đến trung tâm và
ra biển từ trên dưới 10 m đến 100 - 150 m.
Các trầm tích bở rời ở các đồng bằng châu
thổ miền Trung biến đổi phức tạp không có quy
luật rõ ràng.
Về đặc điểm địa chất thủy văn, nhìn chung
ở tất cả các đồng bằng, toàn bộ tầng chứa nước
Holocen (qh) lộ trên mặt có điểm chung là
nước không có áp, mức độ giàu nước không
lớn, độ tổng khoáng hóa và thành phần hóa học
biến đổi rất phức tạp theo diện tích. Tầng chứa
nước qh không có ý nghĩa để cung cấp nước
lớn song lại là đối tượng chủ yếu cung cấp cho
dân cư vùng ven biển hiện nay.
Các tầng chứa nước qp2; qp1; n2; n1 phân bố
rộng rãi ở tất cả các đồng bằng, trừ một ít diện
tích lộ, bị phủ bởi các trầm tích trẻ hơn nên đều
có áp lực. Nhìn chung các tầng chứa nước này
rất phong phú song điều kiện thủy hóa rất phức
tạp, nhiều nơi bị mặn. Ở vùng nhạt chúng là đối
tượng cung cấp nước với công suất lớn.
Các tầng chứa nước khe nứt trong các đá cố
kết trước Kainozoi phân bố ở các đồi, núi, có nơi
sát biển như vùng Quảng Ninh, một ít ở các
đồng bằng Bắc Trung Bộ, Nam Trung Bộ dạng
núi đồi sót và phân bố ở móng các đồng bằng. Ở
vùng lộ, nước trong các tầng này tuy không giầu
nhưng có chất lượng rất tốt đối với mục đích ăn
uống sinh hoạt.
Tiềm năng nước dưới đất
Tiềm năng nước dưới đất được thể hiện
bằng trữ lượng khai thác và trữ lượng khai thác
tiềm năng.
Trữ lượng khai thác tiềm năng của một
vùng là lượng nước có thể khai thác từ các tầng
chứa nước mà không làm suy thoái, cạn kiệt
nguồn nước và tác động không đáng kể đến
môi trường. Trữ lượng khai thác tiềm năng bao
gồm các thành phần: trữ lượng tĩnh tự nhiên,
trữ lượng động tự nhiên, trữ lượng cuốn theo,
trữ lượng bổ sung ... và được xác định bằng
công thức tổng quát như sau:
tn nt
kt 1 tn 2 3 nt 4 bs
V VQ =α Q α α Q α Qt t
Trong đó: Qkt: Trữ lượng khai thác tiềm năng
(m3/ngày); Qtn: Trữ lượng động tự nhiên
(m3/ngày); Qnt: Trữ lượng khai thác bổ sung
nhân tạo (m3/ngày); Vtn, Vnt: Tương ứng là
lượng nước tĩnh tự nhiên và nhân tạo (m3); Qbs:
Trữ lượng cuốn theo được hình thành trong
điều kiện khai thác (m3/ngày); t: Thời gian khai
thác, thường được lấy bằng 27 năm (104 ngày);
1, 2, 3, 4: Các hệ số sử dụng nguồn trữ
lượng tự nhiên và nhân tạo tương ứng.
Bảng 2. Tiềm năng nước dưới đất vùng ven biển, 103 m3/ngày
STT Vùng ven biển
Trữ lượng khai thác xếp cấp
Trữ lượng khai thác tiềm năng
Cấp A+B C1
1 Đông Bắc Bộ 39,6 22,8 619,2
2 Đồng bằng Bắc Bộ 45,7 976,6
3 Bắc Trung Bộ 1,2 24,4 4.180,5
4 Nam Trung Bộ 177,7 4.297 5.200,7
5 Đồng bằng Nam Bộ 154,2 462,3 5.766,4
Cộng 372,7 4.853,2 16.734,2
Đặc điểm địa chất thủy văn, thủy địa hóa
337
Trên cơ sở mức độ nghiên cứu hiện nay,
Triệu Đức Huy, năm 2012, trong báo cáo hợp
phần III của dự án “Điều tra, đánh giá, quy
hoạch sử dụng đất, nước mặt tại các thủy vực
ven biển; tiềm năng nước dưới đất vùng ven
biển và các hải đảo” thuộc Chương trình biển
đảo 47 đã tổng hợp xác định gần đúng 2 thành
phần đầu của công thức tính trữ lượng khai thác
tiềm năng nêu ở trên là trữ lượng tĩnh và trữ
lượng động tự nhiên, còn trữ lượng khai thác
được tổng hợp từ các báo cáo tìm kiếm, thăm
dò nước dưới đất do ngành Địa chất thực hiện
có kết quả thống kê ở bảng 2.
Kết quả nghiên cứu trên đây cho thấy tiềm
năng nước dưới đất ở vùng ven biển nhìn chung
không phong phú lắm nhưng là tài nguyên vô
cùng quý giá phục vụ dân sinh, phát triển kinh tế
và an ninh quốc phòng.
ĐỘ TỔNG KHOÁNG HÓA VÀ THÀNH
PHẦN HÓA HỌC CỦA NƯỚC
Độ tổng khoáng hóa và thành phần hóa học
của nước trong các cồn cát, đụn cát thuộc
tầng chứa nước Holocen
Ở vùng ven biển nước ta thường gặp các
dải cát, đụn cát liên quan đến hoạt động của
sóng biển, gió, sông, hình thành trong Holocen.
Ở miền Trung, các vùng Hà Tĩnh, Quảng Bình,
Quảng Trị, Thừa Thiên-Huế, Ninh Thuận, Bình
Thuận thường gặp các dải cát kéo dài tới
100 km chiều rộng đến trên dưới 10 km có địa
hình nâng cao đôi nơi rất cao, cao hơn địa hình
đồng bằng hàng chục mét đến 130 m như các
vùng đồi cát ở Ninh Thuận, Bình Thuận. Các
vùng ven biển của đồng bằng Bắc Bộ và Nam
Bộ các đụn cát, dải cát không cao lắm. Ở đó,
NDĐ không có áp lực, mực nước ngầm cao hơn
mực nước biển, địa hình càng cao thì mực nước
ngầm càng cao. Theo chiều sâu, độ tổng khoáng
hóa của nước tăng dần đến lợ và mặn. Như vậy
nước nhạt chỉ tồn tại ở phía trên cùng dạng thấu
kính. Điều đó được giải thích như sau: nước
mưa, nước ngưng tụ, các nguồn nước bề mặt
ngấm xuống do nhạt, có tỷ trọng nhỏ hơn nước
mặn nên tạo thành thấu kính nước nhạt nổi trên
nước mặn.
Bề dày cột nước nhạt được xác định như sau:
Giả thiết rằng chiều sâu kể từ mặt nước
biển đến ranh giới mặn nhạt là H, chiều cao của
lớp nước nhạt trên mực nước biển là h, tỷ trọng
của nước nhạt ( n) là 1 g/cm3 của nước biển
(m) là 1,024 g/cm3 , có phương trình:
(H+h)n = Hm
H+ h = 1,024H
h= 0,024H
H= 42h
Xác định được độ cao trên mực nước biển
của lớp nước nhạt (h) ở vùng nào đó sẽ xác định
được chiều sâu phân bố nước nhạt (H).
Theo diện tích, độ tổng khoáng hóa của
nước nhạt phụ thuộc vào mức độ trao đổi nước.
Vùng có địa hình cao, tính thấm của đất đá
càng lớn, sự trao đổi nước càng mạnh, thì độ
tổng khoáng hóa của NDĐ nhỏ, tương đương
với nước mưa với thành phần clorua
bicacbonat-natri rất đặc trưng cho thành phần
nước mưa vùng ven biển. Ở các vùng có địa
hình thấp, đất đá chứa nước có thành phần
phức tạp, độ tổng khoáng hóa của NDĐ sẽ cao
hơn và thành phần phức tạp hơn. Theo chiều
tăng của độ tổng khoáng hóa đến 1 g/l và lớn
hơn thì nước chuyển sang thành phần clorua
natri, tức là tương tự thành phần của nước biển.
Nước trong các đụn cát, dải cát ven biển có
thể khai thác để cung cấp cho ăn uống sinh
hoạt, thậm chí tưới rau màu, cây công nghiệp
như ở vùng Sầm Sơn, Vinh - Cửa Lò, Đồng
Hới, Ninh Thuận, Bình Thuận ... Ở đây cần
khai thác với lưu lượng không lớn với chế độ
hợp lý được tính toán kỹ để không lôi kéo nước
mặn về phía công trình khai thác.
Độ tổng khoáng hóa và thành phần hóa học
của nước ở các tầng chứa nước áp lực
Các tầng chứa nước áp lực vùng ven biển
gồm các tầng chứa nước Pleistocen, Pliocen,
Miocen và các tầng chứa nước trong các đá cố
kết nằm lót đáy các trầm tích Kainozoi bở rời.
Độ tổng khoáng hoá và thành phần hóa học
của các tầng chứa nước áp lực rất phức tạp phụ
thuộc vào nhiều điều kiện khác nhau như điều
kiện cổ địa lý, khả năng trao đổi nước và nguồn
cung cấp cho các tầng chứa nước ...
Ở đồng bằng Nam Bộ, các tầng chứa nước
Đệ tứ và Neogen phân bố rộng rãi ở vùng ven
Nguyễn Văn Đản, Triệu Đức Huy
338
biển nhưng nhiều nơi bị mặn hoặc nước nhạt và
nước mặn nằm xen khẽ nhau cả theo diện tích
lẫn chiều sâu. Các tầng chứa nước Pleistocen
(qp1; qp2) chứa nước nhạt phát hiện thấy ở vùng
ven biển của các tỉnh Trà Vinh, Sóc Trăng,
Kiên Giang, Bạc Liêu. Các tầng chứa nước
Neogen (n2; n1) chứa nước nhạt phát hiện thấy
ở vùng ven biển của các tỉnh Bạc Liêu, Trà
Vinh, Cà Mau. Ở các đồng bằng ven biển miền
Trung, nước nhạt trong các tầng chứa nước áp
lực Pleistocen và Neogen và các đá cố kết trước
Đệ tứ phát hiện thấy ở vùng ven biển của các
tỉnh Hà Tĩnh, Quảng Trị, Thừa Thiên Huế,
Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, một ít Bà
Rịa-Vũng Tàu Ở đồng bằng Bắc Bộ, nước
nhạt của các tầng chứa nước áp lực Pleistocen
và Neogen chỉ quan sát được ở vùng ven biển
tỉnh Nam Định.
Thành phần hoá học của nước tương đối
đồng nhất đối vùng nước nhạt là bicacbonat
clorua đến clorua bicacbonat-natri canxi, đối
với vùng nước mặn là clorua-natri.
PHÂN ĐỚI THỦY HÓA
Để phân đới thuỷ địa hoá, I. K. Zaixev và
cộng sự dùng độ khoáng hoá của nước dưới đất
làm tiêu chuẩn. Các ông đã chia ra 3 đới chủ
yếu: Đới A chứa nước nhạt (độ tổng khoáng
hoá nhỏ hơn 1 g/kg); đới B chứa nước mặn (độ
tổng khoáng hoá từ 1 g/kg đến 35 g/kg) và đới
C chứa nước muối (độ tổng khoáng hoá từ
35 g/kg đến 350 g/kg).
Theo cách phân chia này, N. I. Tonxtikhin
đã phân ra 6 kiểu mặt cắt như hình 1 dưới đây.
I II III IV V VI
Hình 1. Các kiểu mặt cắt thuỷ địa hoá
Kiểu thứ nhất quan sát thấy khi móng cách
nước nằm không sâu và ở gần miền cung cấp.
Kiểu thứ 2 đặc trưng cho phần mặt cắt nằm
cách xa miền cung cấp một chút. Kiểu thứ 3
thường quan sát thấy ở các bồn Actezi khi ở xa
miền cung cấp. Kiểu thứ 4 đặc trưng cho các
bồn tồn tại trong các điều kiện khí hậu khô và
phát triển các quá trình muối hoá lục địa do
nước ngầm. Kiểu thứ 5 và thứ 6 là những mặt
cắt thuỷ hoá dị thường đặc trưng cho các phần
khác nhau của các hệ thống chứa nước áp lực,
ở đó có sự phân đới thuỷ địa hoá nghịch.
Theo đó, Nguyễn Văn Đản, năm 2009,
trong báo cáo kết quả nghiên cứu đề tài khoa
học công nghệ “Nghiên cứu, ứng dụng tổ hợp
các phương pháp địa chất thuỷ văn, địa vật lý,
mô hình số đề tài điều tra, đánh giá nhiễm mặn
và tìm kiếm các thấu kính hoặc tầng chứa nước
nhạt dải ven biển Nam Định” đã tiến hành phân
vùng theo đặc điểm phân đới thủy địa hóa cho
vùng ven biển nước ta. Trong đó, do chưa phát
hiện nguồn nước có độ tổng khoáng hoá lớn
hơn 35 g/kg tức là không có đới C. Ông đã chia
thành 4 kiểu mặt cắt thủy địa hóa: I; II; IV; V,
trong đó kiểu I được chia thành 2 phụ kiểu (Ia
và Ib) phổ biến ở các vùng ven biển như thể
hiện ở hình 2, cụ thể như sau:
Kiểu I: Toàn bộ mặt cắt là nước nhạt.
Kiểu nay được chia thành 2 phụ kiểu. Phụ kiểu
Ia, trong đó tầng chứa nước nhạt không dày là
phần phong hoá của đá cố kết lộ trên mặt đất
hoặc các đá trầm tích bở rời chủ yếu Holocen
có chiều dày không lớn phủ lên đá cố kết không
chứa nước. Kiểu này phổ biến ở vùng ven biển
Quảng Ninh; nam Thanh Hoá; bắc Nghệ An;
nam Hà Tĩnh, Quảng Bình và vùng duyên hải
từ Quảng Nam đến Bình Thuận. Phụ kiểu Ib,
trong đó tầng chứa nhạt tương đối dày bao gồm
các tầng chứa nước Holocen, pleistocen,
Neogen và các tầng chứa nước trong đá cố kết
A
A
B
A
B
C
B
C
B
A
B
A
C
Đặc điểm địa chất thủy văn, thủy địa hóa
339
nứt nẻ hoặc Karst hoá. Kiểu này phổ biến ở
vùng Thạch Hà tỉnh Hà Tĩnh, Triệu phong tỉnh
Quảng Trị, Phú Vang và Phú Lộc tỉnh Thừa
Thiên-Huế.
Kiểu II: Phần trên của mặt cắt thường là
tầng chứa nước Holocen chứa nước nhạt, phần
dưới là các tầng chứa nước Pleistocen, Neogen
chứa nước mặn. Kiểu này phố biến ở vùng ven
biển đồng bằng Bắc Bộ thuộc tỉnh Thái Bình,
bắc Thanh Hoá, nam Nghệ An, một số nơi
thuộc đồng bằng Nam Bộ.
Hình 2. Sơ đồ phân bố các kiểu mặt cắt thủy
địa hóa vùng ven biển Việt Nam
Kiểu IV: Toàn bộ mặt cắt gồm các tầng
chứa nước Holocen, Pleistocen, Neogen chứa
nước mặn. Kiểu này phổ biến ở vùng ven biển
Hải Phòng thuộc đồng bằng Bắc Bộ, một ít ở
Bà Rịa -Vùng Tàu, thành phố Hồ Chí Minh,
Long An, Mỹ Tho, Bến Tre, phía tây bắc Kiên
Giang của đồng bằng Nam Bộ.
Kiểu V: Phần trên của mặt cắt là các tầng
chứa nước Holocen chứa nước mặn; phần dưới
của mặt cắt gồm các tầng chứa nước Pleistocen,
Neogen chứa nước nhạt do có nguồn cung cấp
từ xa. Kiểu này phổ biến ở các vùng Hải Hậu
và Nghĩa Hưng tỉnh Nam Định, các huyện ven
biển của các tỉnh Trà Vinh, Sóc Trăng, Bạc
Liêu, Cà Mau và Kiên Giang, ở đó nước nhạt
không những tồn tại ở phần lục địa mà còn có
thể cả ở vùng ngoài khơi kề liền.
Các vùng có các kiểu thủy địa hóa I; II; V
có ý nghĩa cung cấp nước cho ăn uống sinh
hoạt, trong đó phụ kiểu Ib; V có ý nghĩa cung
cấp lớn.
KẾT LUẬN
Vùng ven biển nước ta phân bố chủ yếu các
đồng bằng cửa sông, cấu tạo bởi các trầm tích
bở rời Kainozoi, được chia thành 5 tầng chứa
nước lỗ hổng phủ lên trên các tầng chứa nước
khe nứt trong các đá cố kết trước Đệ tứ hoặc
trước Kainozoi. Tiềm năng nước dưới đất vùng
ven biển, trừ Nam Trung Bộ và Nam Bộ không
lớn và phân bố không đều: Tầng chứa nước
Holocen (qh) phân bố trên cùng, nước không
có áp lực, phổ biến các thấu kính nước nhạt có
trữ lượng không lớn, phụ thuộc vào chiều dày
và độ cao địa hình bề mặt tầng chứa nước. Các
tầng chứa nước Pleistocen, Neogen phân bố
rộng dãi, có áp lực, có điều kiện thủy địa hóa
phức tạp: nước mặn và nước nhạt luôn phiên
xen kẽ nhau theo cả diện tích lẫn chiều sâu tạo
thành 5 kiểu mặt cắt thủy địa hóa, trong đó có 2
kiểu: phụ kiểu Ib; V có ý nghĩa cung cấp lớn.
Phụ kiểu Ib phân bố ở Thạch Hà tỉnh Hà Tĩnh,
Triệu Phong tỉnh Quảng Trị, Phú Vang và Phú
Lộc tỉnh Thừa Thiên-Huế. Kiểu V phân bố ở
các vùng Hải Hậu và Nghĩa Hưng tỉnh Nam
Định, các huyện ven biển của các tỉnh Trà
Vinh, Sóc Trăng, Bạc Liêu, Cà Mau và Kiên
Giang, ở đó nước nhạt không những tồn tại ở
phần lục địa mà còn có thể cả ở vùng ngoài
khơi liền kề.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Lê Văn Hiển, Bùi Học, Châu Văn Quỳnh,
Đặng Hữu Ơn, Nguyễn Thị Tâm, Trân
Minh, 2000. Nước dưới đất đồng bằng Bắc
Bộ. Cục Địa chất và Khoáng sản Việt Nam
xuất bản. Hà Nội. 111 tr.
2. Nguyễn Văn Đản, Võ Công Nghiệp, Đăng
Hữu Ơn, 1996. Nước dưới đất các đồng
bằng ven biển Bắc Trung Bộ. Cục Địa chất
Nguyễn Văn Đản, Triệu Đức Huy
340
và Khoáng sản Việt Nam xuất bản. Hà Nội.
98 tr.
3. Nguyễn Trường Giang, Võ Công Nghiệp,
Đặng Hữu Ơn, Vũ Ngọc Trân, 1998. Nước
dưới đất các đồng bằng ven biển Nam
Trung Bộ. Cục Địa chất và Khoáng sản
Việt Nam xuất. Hà Nội.123 tr.
4. Vũ Văn Nghi,Trần Hồng Phú, Đặng Hữu
Ơn, Bùi Thế Định, Bùi Trần Vượng, Đoàn
Ngọc Toản, 1998. Nước dưới đất đồng
bằng Nam Bộ. Cục Địa chất và Khoáng sản
Việt Nam xuất bản. Hà Nội. 163 tr.
HYDROGEOLOGICAL, HYDROGEOCHEMICAL
CHARACTERISTICS AND HYDROGEOCHEMICAL
PROFILES IN COASTAL AREA IN VIETNAM
Nguyen Van Dan1, Trieu Duc Huy2, Pham Ba Quyen2,
Tran Duy Hung3, Van Thuy Linh4, Phung Anh Dao5, Dao Van Dung2
1Vietnam Acosiation of Hydrogeology
2Northern Division for Water Resources Planning and Investigation
3Department of Water Resources Management
4Hanoi University of Science-VNU
5Center for Water Resources Quality and Protection
ABSTRACT: Vietnam has a long coastal line along which there are many plains that are
composed of unconsolidated Kainozoic sediments in 5 granular aquifers overlying fissured ancient
rock. The Holocene unconfined aquifer (qh) at the top of the profile contains fresh water lens with
small potential water reserves. The Pleistocene (qp) and Neocene aquifers are confined with wide
distribution and complicated hydrogeochemical condition: saline water in most areas, fresh water
in small areas. There are 4 typical hydrogeochemical profiles in coastal areas: (I) fresh water in the
whole profile, (II) fresh water in the upper part and saline water in the lower part, (IV) saline water
in the whole profile, and (V) saline water in the upper part and fresh water in the lower part.
Profiles (I), (II), (V) have effective use for drinking water. The profile type (Ib) has distribution in
Thach Khe-Ha Tinh, Quang Tri and Thua Thien-Hue, (V) has distribution in Nam Dinh, Tra Vinh,
Soc Trang, Bac Lieu, Ca Mau and South-East of Kien Giang in which the fresh water can be in
shallow onshore areas.
Keywords: Hydrogeology, hydrogeochemistry, typical hydrogeochemical profiles, coastal
plain.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 7378_27361_1_pb_6741_2079694.pdf