Hình thái địa hình đáy biển và đặc điểm
trầm tích tầng mặt khu vực vịnh Vân Phong
có những đặc điểm chính sau:
1. Hình thái đường bờ khu vực vịnh Vân
Phong có sự đan xen giữa những bờ đá, mũi
đá và bãi cát, có thể phân biệt 4 dạng địa
hình chính như sau:
- Địa hình bờ đá gốc: phân bố dọc theo
bờ phía Bắc của lạch Cửa Bé ra đến mũi
Khải Lương.
- Bờ biển tích tụ: khu vực bãi Ninh Tịnh,
Bãi Cỏ.
- Bờ biển mài mòn, xói lở: phân bố dọc
bờ phía Tây của vịnh.
- Bờ biển tích tụ cổ: phân bố dọc theo bờ
Tây của bán đảo Hòn Gốm, ngoài ra còn là
nơi tập trung rất nhiều bậc thềm biển tích
tụ.
2. Đặc điểm địa hình đáy biển khu vực
vịnh Vân Phong có thể chia thành hai phần.
- Phần trong là vịnh Bến Gỏi độ sâu dưới
20m, địa hình đáy vịnh tương đối đơn giản,
thoải đều theo các hướng Đông Bắc – Tây
Nam và Tây Bắc – Đông Nam.
- Phần ngoài là vịnh Vân Phong có độ
sâu 20 - 30m (trừ rìa Tây Nam), địa hình
đáy vịnh bằng phẳng, nghiêng thoải từ Tây
Nam lên Đông Bắc, từ Tây Bắc xuống
Đông Nam ra phía cửa vịnh. Ngoài ra khu
vực vụng Cổ Cò – lạch Cửa Bé, có diện tích
khoảng 1.000ha, rất kín, thông trực tiếp với
biển qua lạch Cửa Bé, độ sâu lớn nhất trong
lạch Cổ Cò là 34m. Địa hình lạch Cửa Bé
có dạng một chữ V không đối xứng, sâu
hơn ở phần sát bờ đảo Hòn Lớn, độ sâu
trung bình 20 - 23m. Lạch Cửa Bé là luồng
tàu tự nhiên rất lý tưởng cho các tàu ra vào
khu vực vụng Cổ Cò.
3. Trầm tích tầng mặt đáy vịnh Vân
Phong chủ yếu là các kiểu trầm tích từ cát
trung – cát nhỏ đến bùn và bùn sét. Các
kiểu trầm tích bùn và bùn sét chiếm ưu thế
và có diện tích phân bố lớn nhất. Trầm tích
ở vịnh Vân Phong có hai nguồn gốc chính
là lưu chuyển (các vật liệu lục nguyên do
sông suối mang ra và các vật liệu do sự mài
mòn các rạn san hô chết) và nguồn gốc sinh
vật, các vật liệu hạt thô được sóng gia công
và lắng đọng trong các vùng gần bờ phía
Tây và Nam. Các vật liệu hạt nhỏ được
mang ra xa bờ và lắng đọng ở các độ sâu
thường là 15 - 25m.
9 trang |
Chia sẻ: honghp95 | Lượt xem: 596 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đặc điểm địa hình đáy và trầm tích tầng mặt vịnh Vân Phong, tỉnh Khánh Hòa, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
44
Tuyển Tập Nghiên Cứu Biển, 2014, tập 20: 44 - 52
ĐẶC ĐIỂM ĐỊA HÌNH ĐÁY VÀ TRẦM TÍCH TẦNG MẶT
VỊNH VÂN PHONG, TỈNH KHÁNH HÒA
Phạm Bá Trung, Nguyễn Đình Đàn, Trần Văn Bình, Trịnh Minh Cường
Viện Hải dương học, Viện Hàn lâm Khoa học & Công nghệ Việt Nam
Tóm tắt Hình thái đường bờ khu vực vịnh Vân Phong có sự đan xen giữa những bờ
đá, mũi đá và bãi cát, có thể phân biệt 4 dạng địa hình chính như sau: địa
hình bờ đá gốc, bờ biển tích tụ, bờ biển mài mòn, xói lở và bờ biển tích tụ
cổ, ngoài ra còn là nơi tập trung rất nhiều bậc thềm biển tích tụ.
Hình thái địa hình đáy biển khu vực vịnh Vân Phong có thể chia thành hai
phần như sau: Phần trong vịnh Vân Phong (vụng Bến Gỏi) có độ sâu dưới
20m, địa hình đáy vịnh tương đối đơn giản, thoải đều theo các hướng Đông
Bắc – Tây Nam và Tây Bắc – Đông Nam. Phần ngoài vịnh Vân Phong, có độ
sâu 20 - 30m (trừ rìa Tây Nam), địa hình đáy vịnh bằng phẳng, nghiêng thoải
từ Tây Nam lên Đông Bắc, từ Tây Bắc xuống Đông Nam ra phía cửa vịnh.
Ngoài ra, khu vực vụng Cổ Cò – lạch Cửa Bé, thông trực tiếp với biển qua
lạch Cửa Bé. Độ sâu lớn nhất trong vụng Cổ Cò là 34m, độ sâu trung bình 20
- 23m. Lạch Cửa Bé với độ sâu trung bình 30m, rộng trung bình 1,2km là
luồng tàu tự nhiên rất lý tưởng cho các tàu ra vào khu vực vụng Cổ Cò. Phụ
thuộc vào nguồn tiếp vật liệu bồi tích và các quá trình thủy thạch động lực
trầm tích tầng mặt của đáy vịnh Vân Phong chủ yếu là các kiểu trầm tích từ
cát trung – cát nhỏ đến bùn và bùn sét. Các kiểu trầm tích bùn và bùn sét
chiếm ưu thế và có diện tích phân bố lớn nhất.
TOPOGRAPHICAL AND SEDIMENTOLOGICAL CHARACTERISTICS
OF VAN PHONG BAY, KHANH HOA PROVINCE
Pham Ba Trung, Nguyen Dinh Dan, Tran Van Binh, Trinh Minh Cuong
Institute of Oceanography, Vietnam Academy of Science & Technology
Abstract The coastline of Van Phong bay is alternation between rocky coast, rocky
headlands and sandy beaches. Four main types of terrain can be
distinguished such as: bedrock, accumulation, abrasion - erosion, and ancient
accumulation coasts. In addition, the coastline of Van Phong bay is gathered
a lot of marine accumulative terrace.
Bottom topography of Van Phong bay could be divided into two parts: Ben
Goi bay (inside part) is characterized by the shallow depth (less than 20m)
with the main axis is laid in Northeast-Southwestern direction. Bottom
topography is relatively simple with gentle slope. Van Phong bay (outer
part) is characterized by deeper depth (from 20 to 30m) with the main axis is
laid in Northwest-Southeastern direction. The bottom topography is
relatively flat. Besides, the embayment of Co Co – Cua Be area, with
44
average depth of 20 - 23m, which is connected to the open sea through Cua
Be channel. Cua Be channel is characterized by average depth of more than
30m and width of about 1.2km, which is an ideal natural area for marine
transportation and harbor activities. Depending on the source of supplied
materials and hydro-litho-dynamic processes the surface layer of bottom
sediment in Van Phong bay is dominated by medium sand, silt and clay. In
there, the silt and clay cover the largest area.
I. MỞ ĐẦU
Vịnh Vân Phong thuộc địa phận tỉnh Khánh
Hòa. Trong các thủy vực tự nhiên ven biển
Nam Trung Bộ, vịnh Vân Phong có những
đặc trưng riêng biệt về điều kiện tự nhiên,
cấu trúc địa chất, đặc điểm địa mạo, và
chịu tác động của nhiều yếu tố: cấu trúc địa
chất vùng bờ, hoạt động tân kiến tạo, cấu
tạo đường bờ, thủy thạch động lực đới bờ.
Những tác động này ảnh hưởng đến địa
chất – địa mạo đáy vịnh và tiềm năng tài
nguyên nguồn lợi của vịnh. Đây là một
trong những khu vực có hệ sinh thái biển đa
dạng và phong phú, đã có khu bảo tồn biển
Rạn Trào. Ngoài ra, ở vùng ven bờ đang
phát triển nhiều ngành kinh tế mũi nhọn của
tỉnh Khánh Hòa như: du lịch, nuôi trồng
thủy sản, đánh bắt hải sản, sản xuất muối,
cảng biển. Vì thế vịnh Vân Phong đã và
đang được con người khai thác và sử dụng
với mức độ ngày càng tăng. Những hoạt
động địa chất tự nhiên và hoạt động kinh tế
diễn ra trong phạm vi vùng vịnh như hoạt
động tân kiến tạo, quá trình xói lở - bồi tụ,
kinh tế- xã hội (du lịch, đánh bắt - chế biến
thủy sản, giao thông vận tải biển) đang là
những tác nhân ảnh hưởng trực tiếp tới địa
chất môi trường và môi trường sinh thái
vùng vịnh.
Nội dung của bài báo này là một phần
kết quả nghiên cứu của nhiệm vụ đề tài cấp
cơ sở 2013 của phòng Địa chất – Địa mạo
biển. Đây là một trong những cơ sở dữ liệu
khoa học góp phần phục vụ cho việc quy
hoạch, định hướng quản lý bảo vệ và phát
triển bền vững khu vực vùng vịnh.
II. TÀI LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP
1. Tài liệu
- Hải đồ do Hải quân Nhân dân Việt
Nam xuất bản năm 1979 và tái bản năm
1981 với các tỉ lệ 1:100.000; 1:200.000,
1:300.000 và Hải đồ của Hải quân Mỹ
(1967) tỉ lệ 1:50.000.
- Tài liệu đo sâu của tàu Gagarinsky
(ngày 02 tháng 3 đến ngày 07/06/1990),
trong chương trình hợp tác Việt - Xô.
- Tài liệu đo sâu của tàu HQ- 652
(5/6/2000) của dự án “Mapping -2000”,
trong Chương trình hợp tác giữa PACON
thuộc Trường đại học Hawaii (Mỹ) và Viện
Hải dương học, trong khuôn khổ “Chương
trình bản đồ Thái Bình Dương” (Pacific
Mapping Programme).
- Bản đồ C-map năm 1999, tỷ lệ 1:
50.000.
- Kết quả của các chuyến khảo sát tháng
6/1994 (chương trình biển – hải đảo, đề tài
07) và 5/2013 (đề tài cấp cơ sở).
2. Phương pháp
2.1. Ngoài thực địa:
Đo sâu khu vực vịnh Vân Phong, bằng máy
đo sâu hồi âm Lowarance LMS -525CDF.
Các file dữ liệu được lưu trữ trên máy tính
bao gồm các tham số kinh độ, vĩ độ, độ sâu,
thang đo từ 0 - 1600m, với độ chính xác là
± 1m.
Mẫu trầm tích đáy được thu bằng cuốc
lấy mẫu “Petite Ponar” của Mỹ theo các
trạm được định vị bằng máy định vị vệ
tinh GPS. Các mẫu được mô tả tại chỗ về
các đặc điểm như màu sắc, mùi, kiểu trầm
tích, thành phần vật liệu và độ sâu thu
mẫu sau đó được mang về phòng thí
nghiệm để xử lý và phân tích các chỉ tiêu
theo yêu cầu. Số mẫu thu được trong
chuyến khảo sát tháng 5 năm 2013 là 16
mẫu (Hình 1).
45
46
Hình 1. Sơ đồ vị trí thu mẫu ở vịnh Vân Phong
Fig. 1. Sampling locations in Van Phong bay
2.2. Trong phòng thí nghiệm:
Để thành lập được các bản đồ, sơ đồ nghiên
cứu tại khu vực vịnh Vân Phong, chúng tôi
thành lập bản đồ nền khu vực vịnh Vân
Phong, hệ VN2000, múi 60, kinh tuyến 1110
(Bộ Tài nguyên và Môi trường, 2004, phần
đất liền), sau đó, số hóa các số liệu đo sâu
từ các bản đồ tỉ lệ 1:100.000 của Hải quân
nhân dân Việt Nam (1981), Hải đồ Mỹ, tỉ
lệ 1:50.000, (1965), phần mềm C-map
(1993), tất cả các số liệu đo đạc trong các
chuyến khảo sát trước đây, được xử lý và
hiệu chỉnh theo độ sâu được quy về mức
“0” triều trạm Nha Trang. Các số liệu đo
đạc được xử lý, hiệu chỉnh số đo trên máy ở
các mốc tạm với tọa độ ghi trên Hải đồ rồi
từ đó thành lập các bản đồ địa hình đáy biển
khu vực nghiên cứu. Trong quá trình thành
lập các sơ đồ tuyến, điểm đo và bản đồ địa
hình đáy và trầm tích tầng mặt vịnh Vân
Phong, đã sử dụng các phần mềm Surfer
10.0, MapInfo 10.5, Arcview 3.2 và Adobe
photoshop 7.0.
Các mẫu sau khi được mang về phòng
thí nghiệm được xử lý và phân tích cơ học,
thành phần vật liệu và thành phần hóa học
theo “Qui phạm điều tra Địa chất biển” do
Tổng cục Đo lường và Chất lượng Nhà
nước ban hành năm 1982. Phân tích độ hạt
để xác định phần trăm trọng lượng cấu
thành nên các kiểu trầm tích. Độ hạt của
trầm tích được xác định bằng phương pháp
“rây” ở các cấp hạt cát (> 0,062mm) và
phương pháp ống hút ở các cấp hạt nhỏ hơn
0,062mm. Sau đó chúng được phân loại và
gọi tên theo bảng phân loại của Folk 1964,
sự phân loại này được đặt trên cơ sở phân
loại của Wentworth 1992.
47
III. KẾT QUẢ
1. Đặc điểm hình thái đường bờ vịnh Vân
Phong
Vùng ven bờ vịnh Vân Phong có địa hình
khá đặc biệt: hầu như toàn bộ dải ven bờ
phía Bắc, phía Tây và phía Nam của vịnh
được che chắn bởi các dãy núi; phía Đông
Bắc là bán đảo Hòn Gốm. Dãy núi phía Tây
Bắc chạy theo hướng Đông Bắc – Tây
Nam, kéo dài 70km từ dãy núi Đá Bia (Phú
Yên) ở phía Bắc tới phía Bắc của thành phố
Nha Trang, với độ cao trung bình 700m,
đỉnh cao nhất là 2.051m. Các thung lũng
sông bắt nguồn từ dãy núi này đều ngắn và
dốc, đổ vào vịnh Vân Phong theo hướng
Tây Bắc – Đông Nam. Phía Nam Tây Nam
là dãy núi thuộc bán đảo Hòn Hèo, kéo dài
trên 20km, độ cao trung bình 400m, có đỉnh
Tiên Du cao 771m.
Dọc theo vùng bờ vịnh có thể phân biệt
4 dạng địa hình chính như sau:
- Địa hình bờ đá gốc phân bố dọc theo
bờ phía Bắc của lạch Cửa Bé ra đến mũi
Khải Lương.
- Bờ biển tích tụ: khu vực bãi Ninh Tịnh,
Bãi Cỏ.
- Bờ biển mài mòn, xói lở: phân bố dọc
bờ phía Tây của vịnh.
- Bờ biển tích tụ cổ: phân bố dọc theo bờ
Tây của bán đảo Hòn Gốm (Hình 2).
Hình 2. Sơ đồ hình thái vùng bờ vịnh Vân Phong
Fig. 2. Coastline features of Van Phong bay
1.1. Dạng bờ đá gốc:
Đoạn bờ từ ngang Hòn Đôi xuống Khải
Lương, xung quanh các đảo như Hòn Đôi,
Hòn Đen, đoạn bờ mũi Bàng Thang. Đây
là dạng bờ biển gần như giữ nguyên hình
dạng nguyên sinh từ khi được thành tạo.
48
Vật liệu cấu thành bờ là đá granite bền
vững, các vòng cung nhỏ xen kẽ các bờ và
mũi đá có được tích tụ nhưng với lượng vật
liệu cuội, sỏi, cát không đáng kể, các quá
trình ngoại sinh, tích tụ, mài mòn không
làm biến đổi đường bờ.
1.2. Dạng bờ chủ yếu tích tụ:
Thuộc dạng bờ này là các bãi phía Đông
bán đảo Hòn Gốm (bãi Ngang, bãi Thắm),
bãi Ninh Tịnh. Đây chính là các bãi biển
hiện đại, vật liệu chủ yếu là cát biển do quá
trình di chuyển ngang của bồi tích tạo
thành.
1.3. Dạng bờ chủ yếu mài mòn, xói lở:
Dạng bờ chủ yếu mài mòn, xói lở: trong đó
các quá trình mài mòn, xói lở, tích tụ vật
liệu cùng song hành và xen kẽ, nhưng vai
trò chủ đạo là xói lở, mài mòn. Hậu quả dẫn
đến đường bờ bị phá hủy, làm biến đổi
không những về mặt hình thái mà còn làm
thay đổi cả về mặt sinh cảnh, sinh thái và
tập tục ven biển. Thuộc dạng bờ này là gần
như cả vùng bờ phía Tây vịnh Vân Phong.
Dạng bờ chủ yếu mài mòn, xói lở xen kẽ
tích tụ tập trung tại vùng đồng bằng ven
biển Vạn Ninh, ở đây, có rất nhiều thềm
biển cấu tạo từ san hô, đá cuội, cát
(Fontaine, 1964). Dải đồng bằng này bị chia
cắt bởi hệ thống sông ngòi như: sông Cạn,
sông Ngòi Tre, sông Hương, sông Dong
Diên, sông Chà Là, sông Bụ Bông, sông
Hiền Lương, sông Mương Cái Hệ thống
sông suối này một mặt cung cấp nguồn vật
liệu cho vịnh tạo điều kiện gây ra bồi lấp
một số vùng bờ, mặt khác hệ thống sông
ngòi còn cung cấp nguồn nước ngọt, đây là
nguyên nhân quan trọng thúc đẩy tác động
của con người làm thay đổi hiện trạng bề
mặt vùng bờ và địa hình bờ ven vịnh.
Những hệ thống ao hồ nuôi tôm, cua ven
biển, những cánh đồng lúa được thay bằng
các mương, ao, đầm nước lợ, là những
nguyên nhân chính làm biến đổi đường bờ
tại khu vực này. Ở những khu vực còn lại
như khu vực bán đảo Hòn Khói, dạng bờ
này có thành phần vật liệu chính là cát và
san hô chết. Cả hai loại này là nguồn vật
liệu phục vụ cho việc xây dựng, chính vì
vậy việc khai thác ở đây diễn ra mạnh mẽ
và thiếu kế hoạch. Hậu quả là bờ biển bị xói
lở nghiêm trọng, lượng bồi tích thiếu hụt,
hình dáng các bãi, bờ bị biến đổi mạnh.
1.4. Dạng bờ tích tụ cổ:
Thuộc dạng này là đoạn bờ phía tây bán
đảo Hòn Gốm (từ ngang vụng Cổ Cò trở lên
đỉnh). Cấu thành nên dạng bờ này là các
đụn cát cổ. Những đụn cát này có độ cao từ
4 - 5m và 15 - 20m. Ở khu vực vịnh Vân
Phong các đụn cát ở phía Bắc thường có độ
cao trên 10m, càng về phía Nam độ cao của
các đụn giảm dần.
Dạng bờ tích tụ cổ hiện nay đang trong
giai đoạn cân bằng vì quá trình cung cấp vật
liệu và tích tụ đã kết thúc, các tác động
ngoại sinh kể cả chế độ thủy động lực biển
hầu như không có khả năng xói mòn, di
dịch những gì đã tích đọng. Sa khoáng chủ
yếu tập trung trong dạng bờ này.
Ngoài ra trong phạm vi vùng bờ và trên
các đảo gặp nhiều dấu tích của các thềm
biển 1,5 - 2,0m, 4 - 6m và 15m.
- Thềm 1,5 - 2,0m phân bố dọc bờ Ninh
Phước, Ninh Thủy, Hòn Mỹ Giang, bán đảo
Hòn Khói, mũi Cổ Cò,... Cấu tạo thềm là
các khối san hô chết, cát cuội kết lẫn nhiều
khối tảng san hô và mảnh vỏ sinh vật vỡ và
nguyên vẹn.
- Thềm 4 - 6m phân bố ở vùng bờ Ninh
Thủy, bán đảo Hòn Khói, Bãi Tre (đảo Hòn
Lớn), Hòn Mỹ Giang với cấu tạo thềm là
cuội, sỏi, cát. Thành phần là mảnh vụn san
hô (chủ yếu là san hô dạng cành) lẫn vỏ các
loài nhuyễn thể (foraminifora). Đây là tầng
đã và đang được Nhà máy xi măng Hòn
Khói khai thác làm nguyên liệu sản xuất xi
măng.
- Thềm 15m phân bố ở khu vực dọc bờ
phía Bắc bán đảo Hòn Khói. Cấu tạo thềm
là cát sinh vật lẫn nhiều sỏi sạn là các mảnh
vụn san hô và các loài sinh vật hai mảnh vỏ
(Fontaine, 1972). Đây cũng là tầng được
Nhà máy xi măng Hòn Khói khai thác làm
nguyên liệu sản xuất xi măng.
48
2. Đặc điểm địa hình đáy khu vực vịnh
Vân Phong
Từ những kết quả đo đạc, khảo sát trong
chuyến khảo sát 5/2013 và tham khảo các
số liệu từ các Hải đồ, đã xây dựng bản đồ
địa hình đáy biển khu vực vịnh Vân Phong,
tỷ lệ 1:50.000 (Hình 3 và 3a). Từ các bản
đồ này cho thấy, địa hình đáy biển khu vực
vịnh Vân Phong có thể chia thành phần
trong và phần ngoài.
Hình 3. Bản đồ địa hình đáy vịnh Vân Phong
Fig. 3. Bottom topographic map of Van Phong bay
Hình 3a. Hình thái địa hình đáy biển khu vực vịnh Vân Phong (3D)
Fig. 3a. Morphology of bottom topography in Van Phong bay (3D)
49
51
- Phần trong là vụng Bến Gỏi phân cách
với phần ngoài bởi bán đảo Hòn Khói ở
phía Tây Nam và mũi Tây Bắc của đảo Hòn
Lớn ở phía Đông Bắc, ngoài ra còn thông ra
biển qua vụng Cổ Cò và lạch Cửa Bé. Vụng
Bến Gỏi có độ sâu không quá 20m, trên bề
mặt đáy vịnh có nhiều bãi cạn được cấu tạo
bởi rạn san hô sống và san hô chết. Nhìn
chung địa hình đáy vịnh tương đối đơn
giản, thoải đều theo các hướng Đông Bắc –
Tây Nam và Tây Bắc – Đông Nam. Đường
đẳng sâu phân bố khá đều, song song với
nhau và song song với đường bờ.
- Phần ngoài là vịnh Vân Phong có độ
sâu 20 - 30m (trừ rìa Tây Nam), địa hình
đáy vịnh bằng phẳng, nghiêng thoải từ Tây
Nam lên Đông Bắc, từ Tây Bắc xuống
Đông Nam hướng ra phía cửa vịnh.
- Khu vực vụng Cổ Cò – lạch Cửa Bé: là
vực nước nằm giữa bờ Tây Nam bán đảo
Hòn Gốm và đảo Hòn Lớn. Vụng Cổ Cò
với diện tích khoảng 1.000ha, rất kín, thông
trực tiếp với biển qua lạch Cửa Bé. Trong
vụng Cổ Cò có đảo Hòn Ông và Hòn Đỏ.
Độ sâu lớn nhất trong vụng là 34m, địa hình
bằng phẳng được phủ bởi bùn cát và bùn
sét. Địa hình đáy lạch Cửa Bé có dạng một
chữ V không đối xứng, sâu hơn ở phần sát
bờ đảo Hòn Lớn, độ sâu trung bình 20 -
23m. Lạch Cửa Bé là luồng tàu tự nhiên rất
lý tưởng cho các tàu ra vào khu vực vụng
Cổ Cò.
3. Đặc điểm trầm tích tầng mặt vịnh Vân
Phong
Trầm tích đáy vịnh Vân Phong, chủ yếu là
các kiểu trầm tích từ cát nhỏ đến bùn sét.
Các kiểu trầm tích cát lớn, cát trung chỉ
phân bố trên diện tích rất hẹp tại khu vực
phía Tây Bắc của đảo Hòn Lớn và Hòn Mỹ
Giang. Sự phân dị cơ học trầm tích thể hiện
khá rõ ràng (Hình 4).
Khu vực phía Nam vịnh Vân Phong từ
mũi Đông Bắc Hòn Mỹ Giang xuống Hòn
Hèo có trầm tích cát và bùn sét phân bố ở
độ sâu 20 - 23m, trầm tích thường có màu
xám, xám sáng, chọn lọc kém, thành phần
cát bao gồm các vật liệu lục nguyên và các
mảnh vụn san hô, vỏ sò ốc vỡ nát và
nguyên vẹn.
Từ mũi đông Hòn Khói đến Hòn Mỹ
Giang, dọc bờ phía Tây bán đảo Hòn Gốm
có trầm tích cát phân bố thành dải hẹp dọc
bờ, tới độ sâu 5 - 7m đến hơn 10m; ở ven
bờ phía Tây từ đèo Cổ Mã tới Ninh Thọ có
trầm tích cát phân bố thành dải hẹp dọc bờ,
tới độ sâu 2 - 3m. Trầm tích cát thô màu
xám, xám vàng xuất hiện ở khu vực quanh
bãi cạn giữa mũi Đông Hòn Khói và Hòn
Mỹ Giang. Ở đây chúng phân bố thành dải
bao quanh đới rạn, ranh giới giữa chúng với
đới cát nhỏ bên trong ở độ sâu 10 - 11m và
khoảng 350 - 370m từ bờ ra theo mặt cắt
vuông góc với đường bờ. Thành phần vật
liệu gồm: chủ yếu là các vật liệu lục nguyên
và vật liệu sinh vật. Hàm lượng carbonat
trong trầm tích thường đạt trên 25% (Phạm
Văn Thơm và cs., 1979) với thành phần chủ
yếu là vỏ xác sinh vật vôi (hàm lượng
carbonat thường là 57%), đôi nơi còn lẫn
mùn bã thực vật màu đen. Ngoài ra có một
đới rộng ở khu vực này có cát nhỏ chọn lọc
rất tốt màu xám, xám tro có thành phần vật
chất tương tự với dãi cát phân bố ở phía
Tây bán đảo Hòn Gốm, dọc bờ Tây vụng
Bến Gỏi. Phía Tây bán đảo Hòn Gốm, dọc
bờ Tây vụng Bến Gỏi, khu vực quanh bãi
cạn giữa mũi Hòn Khói và mũi Đông Bắc
đảo Hòn Lớn có cát nhỏ chọn lọc rất tốt có
màu xám, xám tro phân bố thành dải hẹp.
Thành phần chính của cát nhỏ là thạch anh,
fenspat, các mảnh đá vụn, các khoáng vật
nặng (manhetit, zircon, ilmenit, granat,
epidot) và vụn vỏ xác sinh vật với hàm
lượng carbonat trong cát nhỏ thay đổi theo
từng khu vực: Phía Tây bán đảo Hòn Gốm
thường là 5 - 7%, dọc bờ Tây vụng Bến Gỏi
thường là > 20%, trong vụng Bến Gỏi cát
lẫn bùn sét thường có màu xám, xám xanh
(khu vực Đầm Môn) và xám vàng (vịnh
Vân Phong) với thành phần vật liệu cấp hạt
cát chủ yếu là vụn vỏ xác sinh vật, các
khoáng vật thạch anh, fenspat và ít khoáng
vật nặng, hàm lượng carbonat 20 - 30%
(Phạm Văn Thơm và cs., 1979).
50
52
Hình 4. Sơ đồ phân bố trầm tích tầng mặt khu vực vịnh Vân Phong
Fig. 4. Distribution feature of surface sediment in Van Phong bay
Vụng Cổ Cò, vụng Bến Gỏi có kiểu trầm
tích phổ biến là bùn sét thường có màu xám
xanh, độ ướt và độ dính cao, lạch Cửa Bé
và phần còn lại vịnh Vân Phong có màu
xám vàng do ảnh hưởng của dòng bồi tích
dọc bờ. Nhìn chung, kiểu trầm tích này có
độ chọn lọc tốt, hàm lượng carbonat trong
thành phần trầm tích cao (20 - 27%) trong
vụng Bến Gỏi và 15 - 20% ở vịnh Vân
Phong.
Các kiểu trầm tích cát bùn và bùn cát
màu xám hoặc xám nâu, tạo thành các dải
hẹp phân bố bên ngoài đới trầm tích cát
nhỏ. Hàm lượng cacbonat trong trầm tích
dao động từ 20 - 30%.
Trầm tích bùn sét chọn lọc tốt đến trung
bình, tỷ lệ cấp hạt > 0,1mm không đáng kể.
Diện tích phân bố chiếm gần như toàn bộ
bề mặt đáy vịnh. Trong vịnh Bến Gỏi chúng
có màu xám xanh, hàm lượng cacbonat
20 - 25%, còn ở vịnh Vân Phong chúng có
màu xám nâu, hàm lượng cacbonat là 15 -
25% (Phạm Văn Thơm, 1981).
Trầm tích ở vịnh Vân Phong có hai
nguồn gốc chính: nguồn gốc lưu chuyển
(các vật liệu lục nguyên do sông suối mang
ra và các vật liệu do sự mài mòn các rạn san
hô chết) và nguồn gốc sinh vật. Các vật liệu
hạt thô được sóng gia công và lắng đọng
trong các vùng gần bờ phía Tây và Nam.
Các vật liệu hạt nhỏ được mang ra xa bờ và
lắng đọng ở các độ sâu thường là 15 - 25m.
IV. KẾT LUẬN
Hình thái địa hình đáy biển và đặc điểm
trầm tích tầng mặt khu vực vịnh Vân Phong
có những đặc điểm chính sau:
1. Hình thái đường bờ khu vực vịnh Vân
Phong có sự đan xen giữa những bờ đá, mũi
51
53
đá và bãi cát, có thể phân biệt 4 dạng địa
hình chính như sau:
- Địa hình bờ đá gốc: phân bố dọc theo
bờ phía Bắc của lạch Cửa Bé ra đến mũi
Khải Lương.
- Bờ biển tích tụ: khu vực bãi Ninh Tịnh,
Bãi Cỏ.
- Bờ biển mài mòn, xói lở: phân bố dọc
bờ phía Tây của vịnh.
- Bờ biển tích tụ cổ: phân bố dọc theo bờ
Tây của bán đảo Hòn Gốm, ngoài ra còn là
nơi tập trung rất nhiều bậc thềm biển tích
tụ.
2. Đặc điểm địa hình đáy biển khu vực
vịnh Vân Phong có thể chia thành hai phần.
- Phần trong là vịnh Bến Gỏi độ sâu dưới
20m, địa hình đáy vịnh tương đối đơn giản,
thoải đều theo các hướng Đông Bắc – Tây
Nam và Tây Bắc – Đông Nam.
- Phần ngoài là vịnh Vân Phong có độ
sâu 20 - 30m (trừ rìa Tây Nam), địa hình
đáy vịnh bằng phẳng, nghiêng thoải từ Tây
Nam lên Đông Bắc, từ Tây Bắc xuống
Đông Nam ra phía cửa vịnh. Ngoài ra khu
vực vụng Cổ Cò – lạch Cửa Bé, có diện tích
khoảng 1.000ha, rất kín, thông trực tiếp với
biển qua lạch Cửa Bé, độ sâu lớn nhất trong
lạch Cổ Cò là 34m. Địa hình lạch Cửa Bé
có dạng một chữ V không đối xứng, sâu
hơn ở phần sát bờ đảo Hòn Lớn, độ sâu
trung bình 20 - 23m. Lạch Cửa Bé là luồng
tàu tự nhiên rất lý tưởng cho các tàu ra vào
khu vực vụng Cổ Cò.
3. Trầm tích tầng mặt đáy vịnh Vân
Phong chủ yếu là các kiểu trầm tích từ cát
trung – cát nhỏ đến bùn và bùn sét. Các
kiểu trầm tích bùn và bùn sét chiếm ưu thế
và có diện tích phân bố lớn nhất. Trầm tích
ở vịnh Vân Phong có hai nguồn gốc chính
là lưu chuyển (các vật liệu lục nguyên do
sông suối mang ra và các vật liệu do sự mài
mòn các rạn san hô chết) và nguồn gốc sinh
vật, các vật liệu hạt thô được sóng gia công
và lắng đọng trong các vùng gần bờ phía
Tây và Nam. Các vật liệu hạt nhỏ được
mang ra xa bờ và lắng đọng ở các độ sâu
thường là 15 - 25m.
Lời cảm ơn: Công trình này là một phần
kết quả nghiên cứu của nhiệm vụ đề tài cấp
cơ sở 2013 của phòng Địa chất – Địa mạo
biển, được hỗ trợ kinh phí của Viện Hải
dương học, Viện Hàn lâm Khoa học và
Công nghệ Việt Nam.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Fontaine H., 1964. Anciens niveaux marins
dans la region de Ninhhoa (Province de
Nhatrang). Archives geologiques du
Vietnam. No. 6, Saigon.
Fontaine H., 1972. Remarque sur les
formations littorales quaternaires de
centre Viet Nam meridional. Archives
geologiques du Vietnam. No. 15, Saigon.
Phạm Văn Thơm, Trịnh Thế Hiếu, Nguyễn
Hửu Sữu, 1979. Đặc điểm trầm tích của
các vịnh Vân Phong – Bến Gỏi và Cam
Ranh. Tuyển tập nghiên cứu biển, tập I,
phần 2, tr. 115-125.
Phạm Văn Thơm, 1981. Trầm tích tầng mặt
vùng biển ven bờ Phú Khánh. Tuyển tập
nghiên cứu biển, tập II, phần 1, tr. 179-
198.
52
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 06_phambatrung_trang44_52_397_2070857.pdf