Địa hình đáy biển ven bờ vịnh Nha Trang,
bị phân cắt bởi hệ thống gồm nhiều đảo lớn
nhỏ, đã tạo nên nhiều kiểu dạng địa hình có
bề mặt từ nghiêng thoải đến dốc, đồng thời
xen kẽ là các dạng địa hình lượn sóng và gò
cao là kiểu địa hình dương. Xen giữa các
đảo là các lạch sâu, máng trũng, đôi khi có
dạng lòng chảo.
Trầm tích tầng mặt chủ yếu là các thành
phần cát hạt trung đến nhỏ mịn, được phân
chia thành 8 kiểu trầm tích. Sự phân bố
trầm tích có sự phân dị rõ ràng từ bắc
xuống nam, từ trong bờ ra ngoài khơi. Phía
nam vịnh Nha Trang chủ yếu là trầm tích
hạt mịn do điều kiện lắng đọng ít chịu ảnh
hưởng của các yếu tố động lực biển, cũng
như phía ngoài khơi vịnh Nha Trang do xa
nguồn cung cấp.
Trên cơ sở các nguyên tắc nguồn gốchình thái-động lực, địa hình đáy biển vịnh
Nha Trang và khu vực lân cận được phân
chia thành 9 đơn vị địa mạo, trong đó: a-
địa hình trong đới sóng vỗ bờ có 2 đơn vị
địa mạo; b- địa hình trong đới sóng biến
dạng và phá hủy có 5 đơn vị địa mạo; c- địa
hình trong đới sóng lan truyền có 2 đơn vị
địa mạo, thuộc các kiểu hình thái và động
lực khác nhau.
Nghiên cứu đặc điểm địa mạo vịnh Nha
Trang và lân cận cho thấy, các quá trình địa
mạo ven bờ đang diễn ra mạnh, đặc biệt là
khu vực ven bờ bãi biển Nha Trang, trên
các đoạn bờ cát luôn xảy ra quá trình tích tụ
và xói lở đan xen theo mùa. Ngoài ra, tại
các đoạn bờ đá, rạn san hô chết, có các hoạt
động san lấp và lấn biển ngày càng gia
tăng
13 trang |
Chia sẻ: honghp95 | Lượt xem: 727 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đặc điểm địa mạo vịnh Nha Trang và khu vực lân cận, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
42
Tuyển Tập Nghiên Cứu Biển, 2015, tập 21, số 2: 42-54
ĐẶC ĐIỂM ĐỊA MẠO VỊNH NHA TRANG VÀ KHU VỰC LÂN CẬN
Trần Văn Bình, Nguyễn Đình Đàn, Phạm Bá Trung, Trịnh Minh Cường
Viện Hải dương học, Viện Hàn lâm Khoa học & Công nghệ Việt Nam
Tóm tắt Địa hình đáy biển vịnh Nha Trang và khu vực lân cận rất đa dạng và phức
tạp, đặc biệt về kiến trúc hình thái địa hình. Chúng bị phân chia bởi một hệ
thống bao gồm nhiều đảo lớn nhỏ trong vịnh, đã tạo nên bề mặt đáy biển có
nhiều nét đặc trưng về các dạng địa hình như: lạch sâu, máng trũng đan xen
giữa các đảo, là điều kiện thuận lợi cho các phương tiện giao thông hàng hải
ra vào. Cùng với bề mặt địa hình đáy là các kiểu trầm tích được phân dị khá
rõ ràng, từ cấp hạt thô là cát sạn cho đến bùn-sét. Do đó, về mặt địa mạo
cũng rất phong phú. Bằng các phương pháp nghiên cứu địa mạo truyền
thống, chúng được phân chia thành 9 đơn vị địa mạo, được thể hiện trên một
bức tranh tổng thể qua 3 đới động lực khác nhau: đới sóng vỗ bờ có 2 đơn vị
địa mạo; đới sóng phá hủy và biến dạng có 5 đơn vị địa mạo và đới sóng lan
truyền nước sâu có 2 đơn vị địa mạo, thuộc các kiểu hình thái và động lực
khác nhau.
GEOMORPHOLOGICAL CHARACTERISTICS OF NHA TRANG BAY
AND ADJACENT AREA
Tran Van Binh, Nguyen Dinh Dan, Pham Ba Trung, Trinh Minh Cuong
Institute of Oceanography, Vietnam Academy of Science & Technology
Abstract The bottom topography of Nha Trang bay and adjacent area is very diverse
and complex, especially in architecture of terrain morphology. It was
partitioned by a system of many large and small islands in Nha Trang bay,
and created many features of the terrain types on the surface of the seabed
such as: deep creek, valley trough mix between the islands that was
favorable condition for the marine transportation. The sediment types were
differentiated quite clearly on the surface of the seabed topography from the
coarse grain of gravelly sand to mud-clay. Therefore, the geomorphology
was also varied. By the traditional research method, the geomorphology was
divided into 9 geomorphological units and was shown on an overall picture
through three different dynamic zones: two geomorphological units for surf
wave zone; five geomorphological units for wave zone of destruction and
deformation, and two geomorphological units for offshore wave zone.
I. MỞ ĐẦU
Vịnh Nha Trang thuộc địa phận tỉnh Khánh
Hòa, được đánh giá là một trong 29 vịnh
biển đẹp nhất trên thế giới. Hiện nay, do
nhu cầu phát triển kinh tế, con người chưa
hiểu sâu sắc về giá trị của thiên nhiên đã
ban tặng, đặc biệt là giá trị tài nguyên địa
hình, đã tác động không ít đến cảnh quan
khu vực như: quá trình lấn biển, xây dựng
43
công trình ở các đảo, các khu nghỉ dưỡng
ven bờ, ảnh hưởng đến các điều kiện tự
nhiên, quá trình hình thành địa hình và các
dạng địa hình do chúng tạo thành. Với nét
cảnh quan độc đáo của vịnh về cấu trúc
hình thái địa hình cũng như điều kiện hình
thành của địa chất khu vực, nhưng chỉ có
một số rất ít tài liệu công bố về đặc điểm
địa hình đáy cũng như nghiên cứu chi tiết
về đặc điểm địa mạo.
Trong các đề tài, dự án đã nghiên cứu ở
vịnh Nha Trang thuộc lĩnh vực này, đáng
quan tâm nhất là đề tài điều tra tổng hợp
của Viện nghiên cứu biển từ những năm
1976-1977, đã công bố công trình về “Đặc
điểm địa mạo và trầm tích đáy vịnh Bình
Cang-Nha Trang” (Trịnh Phùng và cs.,
1979), trong đó, đã nêu khái quát được 4
dạng địa hình là: đồng bằng mài mòn, đồng
bằng tích tụ ven bờ, đồng bằng tích tụ xác
sinh vật, và đồng bằng biển tiến có dạng địa
hình kế thừa; Báo cáo về sự phân bố trầm
tích trên thềm lục địa đông Châu Á
(Shepard và cs., 1949); Công trình “Địa
mạo bờ biển Phú Khánh” (Nguyễn Thanh
Sơn, Nguyễn Tiết, 1981) thì bờ biển vùng
nghiên cứu gồm bờ biển mài mòn trên đá
gốc và bãi biển được thành tạo do quá trình
di cư bồi tích theo hai mùa khác nhau;
Công trình “Đặc điểm trầm tích các bãi cát
hiện đại ven bờ biển Phú Khánh” (Trịnh
Thế Hiếu, 1981) đã nhận định: Ở bãi Nha
Trang, vật liệu trầm tích phân bố thay đổi
theo mùa và có hiện tượng di cư bồi tích;
Công trình “Kích thước hạt của bãi biển
Nha Trang và bãi biển Đồng Đế” (Nguyễn
Ngọc Thạch, 1968) đã đưa ra kết quả phân
giải độ hạt, cát vừa trên bãi biển Nha Trang
và cát mịn trên bãi biển Đồng Đế; Công
trình “Trầm tích tầng mặt vùng biển ven bờ
Phú Khánh” (Phạm Văn Thơm, 1981) trong
phạm vi vùng nghiên cứu có 4 kiểu trầm
tích; Công trình “Mô hình phân bố trầm
tích và vai trò của các nguồn vật liệu ở bên
trong thềm ngoài khơi Nha Trang” (Hoang
Van Long, Dam Quang Minh, 2005) đã đưa
ra sơ đồ phân bố trầm tích và trong phạm vi
nghiên cứu có 4 kiểu trầm tích. Ngoài ra,
trong công trình của Bùi Minh Đức (1965),
cũng đã đưa ra nhận xét về thềm đá cuội tại
Hòn Tằm (Nha Trang); Công trình của
Nguyễn Văn Tạc, Trịnh Phùng (1992) đã
đưa ra một vài kết quả nghiên cứu địa mạo
phần phía nam thềm lục địa Việt Nam;
Công trình của Võ Thịnh và cs., 2013 cũng
đã đưa ra các kiểu bờ biển khu vực Phú
Yên-Khánh Hòa và vấn đề dự báo xu thế
biến động bờ biển trong bối cảnh mực nước
biển dâng. Các kết quả trên đã đạt được là
đáng trân trọng. Tuy nhiên, vẫn chưa làm rõ
đặc điểm thành tạo địa hình đáy biển hiện
đại và các quá trình địa mạo ven bờ đang
diễn ra.
Nội dung của bài báo là kết quả nghiên
cứu của đề tài cấp cơ sở năm 2015 của tập
thể cán bộ phòng Địa chất-Địa mạo biển,
nhằm góp phần bổ sung cơ sở dữ liệu, đồng
thời, phục vụ quản lý phát triển bền vững
và bảo tồn vịnh Nha Trang.
II. TÀI LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP
1. Tài liệu
Các tài liệu được sử dụng trong báo cáo này
bao gồm các loại bản đồ có liên quan như:
Bản đồ địa chất tỷ lệ 1:50.000 (xuất bản
1991); Bản đồ địa chất và khoáng sản tỷ lệ
1:200.000 (xuất bản 1994). Bản đồ địa hình
khu vực nghiên cứu tỷ lệ 1:50.000, phần
trên lục địa (xuất bản 2004); Hải đồ Pháp tỷ
lệ 1:60.000 (xuất bản 1964); Hải đồ Mỹ tỷ
lệ 1:50.000 (xuất bản 1967); Hải đồ Hải
quân Nhân dân Việt Nam ở các tỷ lệ
1:100.000, 1:200.000, 1:300.000 (xuất bản
năm 1979, tái bản năm 1981) và bản đồ địa
hình đáy vùng biển Khánh Hòa-Phú Yên tỷ
lệ 1:300.000 do phòng Địa chất-Viện Hải
dương học thành lập vào năm 2003; Bản đồ
địa mạo, trầm tích dải ven biển và đáy biển
ven bờ tỷ lệ 1:500.000 được thành lập vào
năm 2001.
Số liệu đo sâu được thu thập từ các
chuyến khảo sát trong vịnh Nha Trang
thuộc các đề tài, dự án đã công bố bao gồm:
Số liệu đo sâu khu vực Hòn Một (1/2008);
Số liệu đo sâu khu vực Đầm Bấy (7/2011);
Số liệu đo sâu ven bờ bãi biển Nha Trang
đến độ sâu 15 m nước vào các năm 2002,
44
2009, 2013; Số liệu đo sâu khu vực mũi
Bàng Thang 12/2013 (Hình 1).
Số liệu trầm tích thu thập từ các tài liệu
đã công bố như: Trịnh Phùng và cs. (1979),
Phạm Văn Thơm (1981), và số liệu, tài liệu
được bổ sung từ các chuyến khảo sát tại
khu vực vịnh Nha Trang vào các năm 2010
(12 mẫu), 2013 (22 mẫu) và 2015 (12 mẫu)
(Hình 1).
Ngoài ra, còn có một số công trình của
nhiều nhà nghiên cứu khác đã công bố có
liên quan cũng được sử dụng trong bài báo
này.
Hình 1. Sơ đồ vị trí bổ sung mẫu trầm tích và số liệu đo địa hình đáy
Fig. 1. Location of additional sediment samples and measured data of seabed topography
2. Phương pháp
Bằng phương pháp bản đồ, các số liệu độ
sâu từ hải đồ và các sơ đồ trầm tích trong
khu vực nghiên cứu được số hóa và quy về
cùng một hệ quy chiếu thống nhất là hệ lưới
chiếu VN2000-Kinh tuyến trục 108025’ múi
30. Đối với việc xây dựng bản đồ địa hình
đáy, số liệu độ sâu thu thập từ các hải đồ
được giữ nguyên theo mức “0” hải đồ, số
liệu đo sâu bổ sung được quy về mức “0”
thủy triều trạm Nha Trang. Còn đối với việc
xây dựng sơ đồ phân bố trầm tích, các mẫu
trầm tích bổ sung đã được phân tích thành
phần cơ học, sau đó sử dụng phần mềm
Gradistat 6.2 để xử lý số liệu (tính toán
đường kính hạt trung bình, độ mài tròn và
độ chọn lọc). Từ đó, tên gọi trầm tích được
xác định thống nhất theo biểu đồ tam giác,
đây là biểu đồ phân loại trầm tích bở rời
bao gồm 15 kiểu trầm tích của Cục Địa chất
Hoàng gia Anh) (Hình 2).
Nghiên cứu đặc điểm địa mạo đáy biển
vịnh Nha Trang và lân cận, đã sử dụng tổ
hợp các phương pháp nghiên cứu địa mạo
truyền thống: Phương pháp phân tích trắc
lượng-hình thái; phương pháp phân tích
hình thái-thạch học; phương pháp phân tích
hình thái-động lực.
Để thành lập bản đồ địa mạo trong phạm
vi nghiên cứu, đã sử dụng kết hợp nguyên
tắc nguồn gốc-hình thái-động lực. Bởi vì,
nội dung của bản đồ địa mạo là biểu diễn
các đơn vị địa mạo có đặc điểm nguồn gốc,
hình thái, và động lực khác nhau. Theo đó,
đơn vị địa mạo là một thành tạo địa hình
riêng biệt, đồng nhất về nguồn gốc và hình
thái, đồng nhất về hình thái và động lực
được tạo ra bởi một quá trình địa mạo tích
45
tụ hay bóc mòn, được xác định dưới tác
động của một hay vài nhân tố động lực nhất
định (sông, sóng, thủy triều dòng chảy biển,
sinh vật,). Trong đó, đặc điểm hình thái
và trắc lượng hình thái được quan tâm đầu
tiên, sau đó là nguồn gốc và động lực tác
động đến quá trình thành tạo và biến đổi địa
hình.
M sM mS S
(g)M (g)sM (g)mS (g)S
gM gmS gS
mG
msG
sG
G
Bïn (M) C¸t (S)
S¹n (G)
1:9 1:1 9:1
1
5
30
80
H
µm
l−
î
ng
%
s
¹n
Hình 2. Biểu đồ phân loại trầm tích của Cục Địa chất Hoàng gia Anh
Fig. 2. Chart of sediment classification of Geological Department of the Royal UK
M: Bùn (Mud) (g)S: Cát chứa sạn (Slightly gravelly sand)
sM: Bùn cát (Sandy mud) gM: Bùn sạn (Gravelly mud)
(g)M: Bùn chứa sạn (Slightly gravelly mud) gmS: Cát bùn sạn (Slightly muddy sand)
(g)sM: Bùn cát chứa sạn (Slightly gravelly sandy mud) gS: Cát sạn (Gravelly sand)
(g)mS: Cát bùn chứa sạn (Slightly gravelly muddy sand) sG: Sạn cát (Sandy gravel)
Cát (Sand) msG: Sạn cát bùn (Muddy sandy gravel)
mS: Cát bùn (Muddy sand) mG: Sạn bùn (Muddy gravel)
Sạn sỏi (Gravel)
III. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN
1. Đặc điểm địa hình vịnh Nha Trang và
khu vực lân cận
Địa hình lục địa ven biển bị chia cắt phức
tạp, phía tây bắc chủ yếu là đồi núi thấp đến
trung bình, có độ cao từ 300-500 m là Hòn
Ngang phía tây bắc thành phố Nha Trang,
độ cao từ 500-900 m là núi cầu Hin ở phía
nam thành phố Nha Trang. Địa hình đồng
bằng là thành phố Nha Trang, có diện tích
hẹp và khá bằng phẳng ở độ cao từ 5-7 m,
bị phân cắt bởi sông Cái ở phía bắc trung
tâm thành phố Nha Trang. Ngoài ra, còn
nhiều đồi núi sót có độ cao dưới 300 m như
Hòn Nghê, núi Sạn, núi Chụt.
Kết quả xử lý các số liệu đo sâu đã xây
dựng được bản đồ địa hình vịnh Nha Trang
và lân cận (Hình 3), cho thấy rằng: Phía bắc
vịnh Nha Trang, ở độ sâu từ 0-10 m địa
hình nghiêng thoải và có hướng tây bắc-
đông nam, trên đó có nhiều cồn ngầm, rạn
ngầm, chủ yếu là các rạn san hô chết ở độ
sâu 2-4 m, rộng nhất là bãi cạn lớn (Grand
bank), ở độ sâu từ 3-10 m. Ngoài ra, còn có
các đảo nhỏ như Hòn Mát, Hòn Câu, Hòn
Dung làm cho địa hình đáy biển ở đây bị
chia cắt mạnh, đồng thời tạo thành các
máng trũng khá rộng, nghiêng về phía địa
hình đáy có độ sâu hơn và có hướng tây
nam-đông bắc, đó là, máng nghiêng giữa
bãi cạn lớn và Hòn Câu, Hòn Dung; máng
nghiêng giữa Hòn Mát và mũi Kê Gà.
Ở độ sâu từ 10-20 m nước, địa hình khá
bằng phẳng và có hướng nghiêng từ tây
sang đông, độ dốc thay đổi từ 0,2-10, ở độ
sâu từ 20-30 m địa hình lượn sóng, đồng
thời bị chia cắt bởi các máng trũng có độ
sâu thay đổi không lớn.
Ở độ sâu từ 30-40 m nước, địa hình dốc
hơn và uốn lượn theo đường bờ hiện nay,
46
tại khu vực Hòn Câu, Hòn Dung, phía đông
Hòn Tre, Hòn Mun địa hình ở đây khá dốc.
Ở độ sâu lớn hơn 50 m đến 80 m nước,
địa hình dốc thoải và nghiêng về phía biển
khơi theo hướng tây bắc-đông nam.
Địa hình đáy biển ven bờ khu vực bãi
biển Nha Trang đến độ sâu 10 m nước
nghiêng thoải với độ dốc trung bình từ 2-50,
về phía nam bề mặt địa hình đáy dốc hơn,
độ dốc trung bình từ 10-150.
Phía nam vịnh Nha Trang có nhiều đảo
lớn nhỏ như Hòn Tre, Hòn Miễu, Hòn Tằm,
Hòn Một, Hòn Mun nên địa hình đáy biển
bị chia cắt mạnh và tạo nên nhiều lạch sâu,
hoặc máng trũng kéo dài ở độ sâu 15-20 m,
đôi khi có dạng lòng chảo như dạng địa
hình âm xen giữa Hòn Miễu và mũi Chụt,
hoặc xen giữa các đảo.
Từ phía nam sông Lô đến mũi Cầu Hin,
ở độ sâu từ 0-10 m, địa hình đáy khá dốc,
với độ dốc trung bình từ 5-100 và sau đó
thoải đều theo hướng tây bắc-đông nam đến
độ sâu 30 m, từ độ sâu 30-40 m địa hình
dốc hơn, ở độ sâu 40-50 m địa hình khá
bằng phẳng, đồng thời có dạng địa hình âm
là các hố trũng và địa hình dương là các gò
cao nhô lên khỏi mặt đáy từ 2-4 m, tại phía
đông nam Hòn Mun. Ở độ sâu từ 50-80 m
địa hình khá bằng phẳng và nghiêng dốc,
với độ dốc thay đổi từ 2-50 theo hướng
đông bắc-tây nam.
Hình 3. Bản đồ địa hình đáy vịnh Nha Trang và lân cận (thu nhỏ từ tỉ lệ 1:50000)
Fig. 3. Map of the bottom topography of Nha Trang bay and adjacent area
2. Đặc điểm trầm tích tầng mặt và sự
phân bố
Sự phân bố trầm tích tầng mặt được thể
hiện ở hình 4, trong đó có các kiểu sau:
a. Trầm tích cát sạn (gS): Trầm tích này
được phân bố trong vùng vịnh Nha Trang
tại khu vực phía đông nam bãi cạn lớn trên
một diện rộng, ở độ sâu từ 20-35 m kéo dài
đến Hòn Dung. Hàm lượng cát chiếm từ
45,1-61,6% chủ yếu là cát hạt thô, hàm
lượng sạn từ 31,1-38,4%. Độ mài tròn và
chọn lọc kém, So dao động từ 1,5-2.
47
Hình 4. Sơ đồ phân bố trầm tích tầng mặt khu vực vịnh Nha Trang và lân cận
Fig. 4. The scheme of sediment distribution at the surface layer of Nha Trang bay and adjacent area
b. Trầm tích cát (S): cát có màu vàng hơi
nâu, độ hạt thay đổi từ cát lớn đến cát nhỏ,
độ chọn lọc So dao động từ 0,6-1, ven các
đảo có độ chọn lọc kém; thành phần chính
gồm thạch anh, fenspat, mảnh đá và xác
sinh vật (sò ốc, giáp xác, foraminifera)
(Trịnh Phùng và cs., 1979). Trầm tích cát
có diện tích phân bố rộng trong vịnh Nha
Trang và lân cận, dọc ven bờ bãi Nha
Trang, bãi Đồng Đế đến độ sâu 25-30 m và
khu vực mũi Cầu Hin. Phía bắc Hòn Tre, ở
độ sâu từ 15-30 m cát có cấp hạt lớn hơn,
cấp hạt nhỏ được phân bố thành dải ở độ
sâu từ 5-10 m, thuộc tướng bãi triều cổ và
tướng biển nông cổ trên các bãi cạn. Chúng
được thành tạo do sự tương tác giữa lục địa
và biển.
c. Trầm tích cát bùn sạn (gmS): trầm tích
có mặt tại phía tây bắc Hòn Một, ở độ sâu
10-15 m, diện phân bố thành dải nhỏ hẹp.
Hàm lượng cát chủ yếu là cát hạt nhỏ chiếm
từ 12,4-38,5%, hàm lượng bùn từ 13,9-
32,9%, hàm lượng sạn từ 25,4-28,7%. Độ
chọn lọc rất kém.
48
d. Trầm tích cát bùn chứa sạn-(g)mS:
được phân bố rải rác thành các vệt nhỏ hẹp
tại khu cửa Bé (sông Tắc), và phía tây Hòn
Một. Hàm lượng cát từ 39,9-52,8%, hàm
lượng bùn tương đối ổn định (thay đổi từ
44,4-44,9%), hàm lượng sạn cũng tương
đối ổn định (1,7-2,3%). Độ chọn lọc rất
kém, So dao động từ 2,34-3,61.
e. Trầm tích cát bùn (mS): có màu nâu
đến xám, được phân bố ở phía tây nam Hòn
Tằm, ở độ sâu từ 20-30 m, tạo thành một
dải hẹp kéo dài từ phía đông nam Hòn Tre
xuống đến ngoài khơi mũi Cầu Hin. Hàm
lượng cát chiếm tỷ lệ từ 76,0-79,7%; hàm
lượng bùn từ 20,1-23,6%. Độ chọn lọc kém,
So dao động từ 1,1-1,9.
f. Trầm tích bùn cát chứa sạn-(g)sM:
được phân bố rải rác thành vệt nhỏ hẹp, ở
độ sâu 10-15 m, tại khu vực phía tây Hòn
Một, tây nam Hòn Tre, có diện tích không
đáng kể.
g. Trầm tích bùn cát (sM): được phân bố
diện hẹp ở trước cửa sông Cái, phần lớn ở
phía tây nam Hòn Tre, trong phạm vi độ
sâu từ 10-20 m và ven rìa các thung lũng
ngầm giữa các đảo trong vịnh. Hàm lượng
cát chiếm tỷ lệ từ 25,1-29,0%, hàm lượng
bùn từ 70,3-74,9%. Độ chọn lọc kém, So
dao động từ 1,58-1,97 đã phản ánh đúng sự
phân bố của nó trên một địa hình dốc thoải,
bên ngoài trường trầm tích cát.
h. Trầm tích bùn (M): Phân bố khá rộng
rãi trong phạm vi nghiên cứu, chúng có mặt
ở độ sâu 15-20 m và độ sâu lớn hơn 40 m
nước.
Ở độ sâu 15-20 m: trầm tích bùn có màu
xám xanh, phân thành diện nhỏ hẹp, tại các
rãnh trũng hay các thung lũng ngầm giữa
mũi Chụt và Hòn Tre, Hòn Miễu và giữa
Hòn Tre với Hòn Miễu, Hòn Tằm, Hòn Một
và Hòn Mun, trầm tích thuộc tướng vũng
vịnh cổ. Thành phần chủ yếu là bùn sét, độ
chọn lọc kém, So dao động trong khoảng
1,18-1,26.
Ở độ sâu lớn hơn 40 m nước, chúng
được phân bố ở phía đông Hòn Tre, ngoài
khơi vịnh Nha Trang, với diện phân bố khá
rộng, từ vùng cửa vịnh Bình Cang ra phía
ngoài khơi và có xu hướng kéo dài xuống
phía nam. Trầm tích bùn có độ chọn lọc
kém, S0 = 1,0-1,5.
Trong công trình của Trịnh Phùng và cs.
(1979), là kiểu trầm tích (bùn nhuyễn-đất
sét-cát bột); còn trong công trình của Phạm
Văn Thơm (1981), là kiểu trầm tích (bùn-
sét).
i. Trầm tích cacbonat: tại vùng biển này
vùng có hàm lượng cacbonat lớn hơn 50%
chủ yếu phân bố ở khu vực bãi cạn lớn,
trong kiểu trầm tích cát sạn, ở độ sâu 4-20
m nước và dải ven bờ phía bắc vịnh Nha
Trang, dưới chân đảo hòn Tre (Trịnh Phùng
và cs., 1979). Ở độ sâu từ 0-5 m nước, hàm
lượng tổng cacbonat thay đổi từ 5-20% chủ
yếu phân bố trong trường trầm tích cát, cát
lẫn sạn.
3. Đặc điểm địa mạo đáy biển vịnh Nha
Trang và lân cận
Trên cơ sở các nguyên tắc nguồn gốc-hình
thái-động lực, đã thành lập bản đồ địa mạo
vịnh Nha Trang và khu vực lân cận (Hình
5).
3.1. Địa hình trong đới sóng vỗ bờ (đến
độ sâu 5 m nước)
a. Bề mặt mài mòn-tích tụ hiện đại do tác
động của sóng:
Đơn vị địa mạo này được phân bố rải rác,
tại khu vực Hòn Đỏ, bãi Hòn Chồng, phía
đông bắc Đồng Đế, Hòn Mát và bãi cạn lớn
với diện tích nhỏ hẹp. Thực chất đây là khu
vực đáy biển bị mài mòn do sóng, trên các
rạn san hô chết. Bề mặt của dạng địa hình
này không bằng phẳng, mà bị chia cắt thành
các hố trũng và vùng nổi cao. Nó chuyển
tiếp rất đột ngột xuống phần đáy biển sâu
hơn bằng một vách khá dốc. Qua việc lấy
mẫu trầm tích đáy tầng mặt bằng cuốc, chỉ
thu được cát lẫn vụn san hô đã chết trong
các hố trũng. Từ những đặc trưng vừa nêu,
chúng tôi tạm xếp nó vào kiểu địa hình mài
mòn-tích tụ hiện đại. Kiểu địa hình này
đang được phát triển bởi quá trình mài mòn
do sóng và tích tụ trong các hố trũng. Trên
các đoạn bờ biển được cấu tạo bởi rạn san
hô là khá ổn định. Hiện nay, tại các đoạn bờ
này hầu hết được san lấp lấn biển làm biến
49
dạng địa hình bờ tại các khu vực bãi Tiên,
hòn Đỏ (Hình 6).
Trước đây, theo Trịnh Phùng và cs.
(1979), hầu hết diện tích kiểu địa hình này
được xếp là đồng bằng tích tụ xác sinh vật.
Bởi vì, lúc bấy giờ quá trình tích tụ sinh vật
chiếm ưu thế, với hàm lượng xác sinh vật
chiếm hơn 50% về thành phần vật liệu.
Hình 5. Bản đồ địa mạo đáy vịnh Nha Trang và lân cận (thu nhỏ từ tỉ lệ 1:50000)
Fig. 5. The map of the bottom geomorphology of Nha Trang bay and adjacent area
50
Hình 6. San lấp lấn biển tại khu vực bãi Tiên (ảnh trái) và tại khu vực hòn Đỏ (ảnh phải)
Fig. 6. Sea reclamation at Tien beach (left) and Do island (right)
b. Bãi biển tích tụ-xói lở do tác động của
sóng chiếm ưu thế:
Đơn vị địa mạo này chiếm một diện tích
nhỏ, chúng được phân bố dọc theo đường
bờ biển cấu tạo bằng cát với chiều dài gần 6
km, tại bãi biển Nha Trang và nằm trong
phạm vi độ sâu từ 0 đến 5 mét nước. Bãi
biển bao gồm cả phần bãi trên triều và bãi
dưới triều. Về mặt hình thái, bãi biển ở phía
bắc hơi nghiêng và không có cấu tạo phân
bậc, mặt bãi khá bằng phẳng (Hình 7, ảnh
trái). Ở phía nam, đoạn bãi có chiều dài gần
400 m (khu vực công viên Thanh Niên), bãi
biển có sự phân bậc rõ ràng, bãi trên triều
khá bằng phẳng; bãi triều cao có bề mặt
nghiêng dốc từ chân bãi trên triều về mép
nước, chỉ chịu tác động mạnh của sóng vào
mùa gió đông bắc, bãi dưới triều có bề mặt
nghiêng thoải là nơi thường xuyên chịu tác
động của sóng vỗ bờ. Ranh giới giữa hai bãi
triều là mặt nghiêng dốc từ 8-10o, có khi
đến 15-20o hoặc dốc hơn (Hình 7, ảnh
phải). Thành phần vật liệu cấu tạo nên bãi
biển chủ yếu là cát, màu xám sáng đến xám
vàng, có kích thước độ hạt từ trung đến nhỏ
mịn, độ chọn lọc từ trung bình đến khá, độ
mài tròn tốt. Quá trình địa mạo hiện nay là
sự xen kẽ giữa các pha bồi - xói theo cả
không gian và thời gian, nghĩa là bãi biển ở
đây không bị xói lở hoặc bồi tụ trong một
thời gian dài, mà luôn diễn ra quá trình xói
lở vào thời kỳ gió mùa đông bắc, và bồi tụ
vào thời kỳ gió mùa tây nam (Trần Văn
Bình và Trịnh Thế Hiếu, 2010).
Hình 7. Bãi biển Nha Trang ở phía bắc khá bằng phẳng, không có sự phân bậc (trái)
và có sự phân bậc rõ ràng ở phía nam (khu vực công viên Thanh Niên) (phải)
Fig. 7. Nha Trang beach in the north is rather flat, there is no grading (left) and it has clear grading
in the south (Thanh Nien park) (right)
51
3.2. Địa hình trong đới sóng biến dạng và
phá hủy (5-25 m nước)
a. Bề mặt mài mòn-tích tụ nghiêng dốc do
tác động của sóng và dòng chảy:
Đơn vị địa mạo này phân bố ở các đoạn bờ
đá gốc, dưới chân các mũi đá nhô ra phía
biển và sườn bờ ngầm của các đảo trong
vịnh Nha Trang. Bề mặt này có độ nghiêng
khá lớn, độ dốc thay đổi từ 5-7o có chỗ lớn
hơn 15o và nằm trong khoảng độ sâu từ 4 m
đến 10-20 m, thậm chí còn sâu hơn nữa,
như tại Hòn Câu, Hòn Dung và phía đông
Hòn Tre. Vật liệu tích tụ ở đây thường có
kích thước giảm dần từ trong ra phía ngoài
khơi. Phần trên của bề mặt này có quá trình
mài mòn chiếm ưu thế, đặc biệt khi thời tiết
xấu (bão hoặc gió mùa đông bắc). Hoạt
động tích tụ xảy ra giữa các khối mài mòn,
hoặc thậm chí không có tích tụ do nguồn
cung cấp vật liệu rất ít (chủ yếu do mài mòn
tại chỗ). Hiện nay, quá trình này vẫn đang
tiếp tục diễn ra dưới tác động của sóng biển
và dòng chảy gần đáy, nhưng tốc độ rất
chậm và không đáng kể.
b. Bề mặt mài mòn-tích tụ sinh vật do tác
động của sóng và dòng chảy gần đáy:
Đơn vị địa mạo này phân bố ngay dưới
chân các đảo Hòn Miễu, Hòn Tằm, Hòn
Một, Hòn Mun, phía bắc và đông nam Hòn
Tre. Về mặt hình thái, bề mặt này nghiêng
thoải để dần tiếp giáp với bề mặt đáy ở độ
sâu 10-15 m nước. Do đó, các quá trình
động lực sóng cũng như dòng chảy gần đáy
yếu hơn, dẫn đến hoạt động tích tụ chiếm
ưu thế do quá trình mài mòn ở sườn bờ
ngầm. Vật liệu tích tụ chủ yếu là vỏ vụn
sinh vật (Hình 8). Hiện hay, quá trình địa
mạo vẫn đang diễn ra, nhưng tốc độ không
đáng kể.
Hình 8. Bề mặt tích tụ vỏ vụn sinh vật ở phía bắc mũi Bàng Thang (trái) và ở phía nam (phải)
(ảnh: Nguyễn Đình Đàn, 2014)
Fig. 8. The accumulation of debris shells of creatures at the surface in the north (left)
and south (right) of Bang Thang cape (Photo: Nguyen Dinh Dan, 2014)
c. Bề mặt tích tụ-xói lở nghiêng thoải do tác
động của sóng chiếm ưu thế:
Đơn vị địa mạo này được phân bố thành
một dải liên tục nằm tiếp giáp với đới bãi-
phía ngoài của các đoạn bờ cát, trên dải đáy
biển gần bờ từ mũi Kê Gà kéo dài và thu
hẹp ở mũi Chụt, ở độ sâu từ 5-15 m. Về mặt
hình thái, bề mặt này tương đối bằng phẳng
và có độ nghiêng thoải dần về phía biển
khơi, ở phía nam có phần dốc hơn. Chiều
rộng của bề mặt đạt 1-1,5 km là kiểu địa
hình tích tụ - xói lở nghiêng thoải dưới tác
động của sóng và dòng chảy do sóng sinh ra
chiếm ưu thế. Trầm tích cấu tạo nên bề mặt
này chủ yếu là cát hạt trung đến nhỏ mịn,
có độ mài tròn và chọn lọc tốt. Trong giai
đoạn hiện nay, bề mặt này đang bị biến
động mạnh mẽ (cả tích tụ lẫn xói lở) theo
52
mùa dưới tác động của sóng. Nhưng quá
trình tích tụ ở đây chiếm ưu thế hơn xói lở.
Nguồn vật liệu cung cấp cho quá trình tích
tụ chủ yếu là sản phẩm phá hủy bờ bãi ở
phía trên và một phần từ trong sông Cái đưa
ra.
d. Bề mặt tích tụ-xói lở lượn sóng do tác
động của dòng chảy gần đáy chiếm ưu thế:
Đơn vị địa mạo này được hình thành và
phát triển trong đới sóng phá hủy và biến
dạng, được phân bố trong phạm vi độ sâu từ
10-25 m ở giữa vịnh Nha Trang cũng như
khu vực lân cận, là dải đồng bằng ngập
nước nằm song song với đường bờ hiện
nay, đồng thời bị chia cắt bởi hệ thống đảo
ở phía nam của vịnh. Kiểu địa hình này có
bề mặt không bằng phẳng, mà có nhiều dải
nhô cao khỏi đáy từ 1-2 m, đôi khi còn thấy
trên bản đồ độ sâu, những đường đẳng sâu
phân bố không đồng đều và có dạng lượn
sóng. Ở phía bắc Hòn Tre bề mặt này bị
chia cắt bởi một số rãnh ngầm và đảo ngầm,
thuộc kiểu nguồn gốc địa hình đồng bằng
biển tiến có dạng địa hình kế thừa (Trịnh
Phùng và cs., 1979). Trầm tích cấu tạo nên
bề mặt này không đồng nhất. Ngoài ra, do
quá trình lắng đọng trầm tích ở phía bắc và
giữa vịnh lúc thời tiết yên tĩnh, chủ yếu là
các thành phần hạt mịn, có nguồn gốc từ
sông đưa ra (Hoàng Trung Du và cs., 2013).
Từ những đặc điểm địa hình và trầm tích
nêu trên cho thấy rằng, đáy biển thuộc kiểu
địa hình này ít chịu biến động của sóng kết
hợp với dòng chảy gần đáy. Hiện nay, quá
trình địa mạo xảy ra ở đây rất chậm, gồm cả
tích tụ (vào lúc thời tiết yên tĩnh) và xói lở
(khi có thời tiết xấu) dưới tác động của
sóng chiếm ưu thế kết hợp với dòng chảy
gần đáy.
e. Bề mặt tích tụ hiện đại đáy vũng vịnh cổ
Đơn vị địa mạo này được phân bố ở phía
tây nam đảo Hòn Tre. Đáy biển ở đây bị
chia cắt mạnh với rãnh sâu từ 15-20 m và
các lạch sâu xen giữa các đảo, ở phần sâu
hơn khá bằng phẳng, đôi khi có dạng lòng
chảo là những máng trũng xen giữa các
đảo. Do đặc điểm địa hình như vậy, nên lớp
trầm tích đáy tầng mặt ở đây cũng tương
đối đồng nhất, chủ yếu là trầm tích bùn sét.
Đây là khu vực có lắng đọng trầm tích, với
tốc độ lắng đọng nhỏ và ít thay đổi theo
mùa (Hoàng Trung Du và cs., 2013). Điều
này, có thể giải thích rằng, tốc độ tích tụ
trầm tích trong vịnh không cao cũng như ít
thay đổi theo mùa, do nguồn vật liệu trầm
tích cung cấp cho chúng không đáng kể.
Thậm chí, ở một số eo giữa các đảo trong
vịnh có thể còn bị xâm thực do tác động của
dòng triều lên-xuống. Vì vậy, đáy biển ở
đây được xếp vào bề mặt tích tụ hiện đại do
tác động của dòng chảy gần đáy chiếm ưu
thế. Bởi vì, khu vực này hầu như không bị
tác động của sóng tới từ các hướng đông
bắc, đông và đông nam.
3.3. Địa hình trong đới sóng lan truyền
nước sâu (độ sâu trên 25 m nước)
a. Bề mặt tích tụ-xâm thực lượn sóng do tác
động của dòng chảy chiếm ưu thế:
Đơn vị địa mạo này được phân bố thành
một dải kéo dài liên tục, chạy theo hướng
gần như song song với đường bờ hiện nay
và nằm trong phạm vi độ sâu từ 30 đến 40-
45 m. Tuy nhiên, trên bản đồ độ sâu, các
đường đẳng sâu phân bố không đồng đều.
Điều đó cho thấy, về mặt hình thái, đáy
biển ở đây không bằng phẳng, mà có sự
chia cắt lồi lõm với mức độ khác nhau, ở
phía đông nam Hòn Mun còn có một vài gò
cao nhô lên khỏi mặt đáy từ 2-4 m. Qua đặc
điểm phân bố cũng như hình thái của
chúng, cấu tạo dạng địa hình lượn sóng có
thể là dấu vết của các val bờ cổ. Theo Trịnh
Phùng và cs. (1979), ở độ sâu 33-37 m cũng
có dấu vết của một đường bờ cổ do mực
biển dừng lại ở đấy một thời gian trong quá
trình biển lùi. Trên sơ đồ phân bố trầm tích
đáy tầng mặt thấy có nhiều cấp hạt khác
nhau trong phạm vi này, bao gồm cát sạn
(gS), cát (S), cát bùn (mS) và bùn cát (sM).
Điều đó cho thấy động lực ở đây tương đối
mạnh, lại nằm ở độ sâu lớn. Do đó, dòng
chảy gần đáy được xem là động lực chính
trong sự hình thành và biến đổi địa hình ở
đây. Vì vậy, đáy biển ở đây có thể được xếp
là bề mặt tích tụ-xâm thực lượn sóng do tác
động của dòng chảy gần đáy.
53
b. Bề mặt tích tụ hiện đại nghiêng thoải do
tác động của dòng chảy gần đáy:
Trong phạm vi nghiên cứu, bề mặt này
được phân bố ở độ sâu lớn hơn 50-60 m
nước, thuộc đới sóng lan truyền. Do đó, đáy
biển ở đây hầu như không chịu tác động của
sóng. Về mặt hình thái, đây là loại đồng
bằng khá bằng phẳng và có độ nghiêng
không lớn về phía biển khơi. Trầm tích cấu
tạo nên bề mặt địa hình này chủ yếu là bùn-
sét. Cả địa hình và trầm tích đều có tính
đồng nhất cao trên phạm vi rộng. Điều đó
phản ánh điều kiện thành tạo nên bề mặt
khá giống nhau. Đó chính là quá trình động
lực do dòng chảy gần đáy.
4. Các kiểu địa hình bờ biển
Bờ biển mài mòn đang hoạt động trên đá
bền vững. Đây là kiểu bờ phát triển trên các
thành tạo đá gốc. Trong phạm vi nghiên
cứu, kiểu bờ này phân bố ở phía bắc vịnh
Nha Trang, từ mũi Kê Gà đến đường Đệ,
khu vực mũi Hòn Chồng, mũi Chụt, từ cửa
Bé đến mũi Cầu Hin và bờ các đảo trong
vịnh Nha Trang. Chúng phát triển chủ yếu
trên các đá granit thuộc phức hệ Đèo Cả và
các đá ryolit, trachyryolit dacit, anđesit
thuộc hệ tầng Nha Trang. Hiện nay, các quá
trình địa mạo bờ vẫn đang diễn ra, do quá
trình mài mòn của sóng biển, nhưng tốc độ
rất chậm, hoặc thay vào đó tại một số nơi
còn được san lấp lấn biển để làm khu resort
như khu vực bãi Tiên, ở phía bắc vịnh Nha
Trang.
Bờ biển tích tụ-xói lở đang hoạt động
trên trầm tích bở rời. Kiểu bờ này được
phát triển trên các thành tạo vật liệu bở rời,
chủ yếu là cát. Chúng được phân bố ở phía
nam bãi tắm Đồng Đế và bãi tắm Nha
Trang kéo dài từ Ủy ban Nhân dân tỉnh đến
mũi Chụt. Hiện nay, các quá trính địa mạo
đã và đang diễn ra mạnh mẽ, sự biến đổi bãi
biển theo mùa diễn ra khá rõ nét. Vào thời
kỳ gió mùa đông bắc, bờ ở phía bắc thường
xảy ra hiện tượng xói lở, vật liệu xói lở
được dòng chảy dọc bờ đưa xuống tích tụ ở
khu vực phía nam (đoạn phía bắc cảng
Vinpearl), vào thời kỳ gió mùa tây nam có
xu thế ngược lại.
Bờ biển kè bê tông kiên cố. Hiện nay, do
nhu cầu làm đẹp cho cảnh quan đô thị nên
hầu hết các đoạn bờ còn lại đều được kè bê
tông kiên cố như: đoạn bờ biển khu vực
đường Đệ kéo dài đến mũi Hòn Chồng.
Ngoài ra, trong kiểu bờ tích tụ-xói lở dọc
bãi biển Nha Trang từ phía nam cửa sông
Cái đến Quảng Trường, phía trong bãi cũng
được xây kè bảo vệ.
IV. KẾT LUẬN
Địa hình đáy biển ven bờ vịnh Nha Trang,
bị phân cắt bởi hệ thống gồm nhiều đảo lớn
nhỏ, đã tạo nên nhiều kiểu dạng địa hình có
bề mặt từ nghiêng thoải đến dốc, đồng thời
xen kẽ là các dạng địa hình lượn sóng và gò
cao là kiểu địa hình dương. Xen giữa các
đảo là các lạch sâu, máng trũng, đôi khi có
dạng lòng chảo.
Trầm tích tầng mặt chủ yếu là các thành
phần cát hạt trung đến nhỏ mịn, được phân
chia thành 8 kiểu trầm tích. Sự phân bố
trầm tích có sự phân dị rõ ràng từ bắc
xuống nam, từ trong bờ ra ngoài khơi. Phía
nam vịnh Nha Trang chủ yếu là trầm tích
hạt mịn do điều kiện lắng đọng ít chịu ảnh
hưởng của các yếu tố động lực biển, cũng
như phía ngoài khơi vịnh Nha Trang do xa
nguồn cung cấp.
Trên cơ sở các nguyên tắc nguồn gốc-
hình thái-động lực, địa hình đáy biển vịnh
Nha Trang và khu vực lân cận được phân
chia thành 9 đơn vị địa mạo, trong đó: a-
địa hình trong đới sóng vỗ bờ có 2 đơn vị
địa mạo; b- địa hình trong đới sóng biến
dạng và phá hủy có 5 đơn vị địa mạo; c- địa
hình trong đới sóng lan truyền có 2 đơn vị
địa mạo, thuộc các kiểu hình thái và động
lực khác nhau.
Nghiên cứu đặc điểm địa mạo vịnh Nha
Trang và lân cận cho thấy, các quá trình địa
mạo ven bờ đang diễn ra mạnh, đặc biệt là
khu vực ven bờ bãi biển Nha Trang, trên
các đoạn bờ cát luôn xảy ra quá trình tích tụ
và xói lở đan xen theo mùa. Ngoài ra, tại
các đoạn bờ đá, rạn san hô chết, có các hoạt
động san lấp và lấn biển ngày càng gia
tăng.
54
Lời cảm ơn: Tập thể tác giả xin trân trọng
cảm ơn đề tài “Nghiên cứu diễn biến cân
bằng vật chất của chu trình sinh địa hóa
trong môi trường trầm tích tại các vùng
nuôi lồng bè và mức độ ảnh hưởng của
chúng đến một số hệ sinh thái vùng
ven biển Nam Trung Bộ” (mã số
VAST03.05/15-16) và đề tài “Nghiên cứu
thiết lập rạn nhân tạo kết hợp phục hồi san
hô ở khu vực mũi Bàng Thang (Tây bắc
Hòn Tre, vịnh Nha Trang)” đã cung cấp số
liệu.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Bùi Minh Đức, 1965. Nhận xét về thềm đá
cuội tại Hòn Tằm (Nha Trang). Đặc san
khảo cứu và hoạt động khoa học, Đại
học Khoa học Sài Gòn, tr. 51-58.
Hoàng Trung Du, Tim jennerjahn, Andreas
Hunzmann, 2013. Tác động nguồn vật
chất sông lên lắng đọng trầm tích và yếu
tố sinh địa hóa vùng ven bờ vịnh Nha
Trang-Khánh Hòa. Tuyển tập báo cáo
khoa học, Hội nghị khoa học địa chất
biển toàn quốc lần thứ 2, tr. 327-339.
Hoang Van Long, Dam Quang Minh, 2005.
Sediment distribution pattern and the
role of material sources on the inner
shelf off Nha Trang. Journal of Geology,
B/26, Hà Nội, tr. 37-46.
Nguyen Ngoc Thach, 1968. Grain-size of
the Nhatrang and Dongde beach sands.
47e Note I. O. N. Nhatrang, tr. 33-39.
Nguyễn Thanh Sơn, Nguyễn Tiết, 1981.
Địa mạo bờ biển Phú Khánh. Tuyển tập
Nghiên cứu Biển, tập 2, phần 2, tr. 155-
164.
Nguyễn Văn Tạc, Trịnh Phùng, 1992. Một
vài kết quả nghiên cứu địa mạo phần
phía nam thềm lục địa Việt Nam. Tuyển
tập Nghiên cứu Biển, IV: 100-113.
Phạm Văn Thơm, 1981. Trầm tích tầng mặt
vùng biển ven bờ Phú Khánh. Tuyển tập
Nghiên cứu Biển, tập 2, phần 2, tr. 179-
188.
Shepard F. P., K. O. Emery and H. R.
Gould, 1949. Distribution of sediments
on East Asiatic continental shelf.
Allan Hancock Foundation Publication,
Occasional Paper N0 9, California, p. 23,
chart II.
Trần Văn Bình, Trịnh Thế Hiếu, 2010. Sự
biến đổi hình thái địa hình bãi và đường
bờ tại một số khu vực bờ biển Nam
Trung Bộ theo thời gian (2007-2008).
Tạp chí Khoa học và Công nghệ Biển.
10(2): 15-29.
Trịnh Phùng, Phạm Văn Thơm, Nguyễn
Thanh Sơn, Trịnh Thế Hiếu, Trần Hưng,
Trần Đình Tín, Nguyễn Hữu Sữu, 1979.
Đặc điểm địa mạo và trầm tích vịnh
Bình Cang-Nha Trang. Tuyển tập
Nghiên cứu Biển, tập 1, phần 2, tr. 77-
92.
Trịnh Thế Hiếu, 1981. Đặc điểm trầm tích
các bãi cát hiện đại ven bờ biển Phú
Khánh. Tuyển tập Nghiên cứu Biển, tập
2, phần 2, tr. 165-178.
Võ Thịnh, Phan Đông Pha, Nguyễn Xuân
Huyên, Vũ Văn Phái, Tống Phúc Tuấn,
Lê Đình Nam, Trần Xuân Lợi, Trần
Hoàng Yến, Vũ Lê Phương, Dương
Tuấn Ngọc, 2013. Các kiểu bờ biển khu
vực Phú Yên-Khánh Hòa và vấn đề dự
báo xu thế biến động bờ biển trong bối
cảnh mực nước biển dâng. Tuyển tập
báo cáo khoa học, Hội nghị Khoa học
Địa chất biển Toàn quốc lần thứ 2, tr.
251-259.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 06_tranvanbinh_42_54_0068_2070858.pdf