Nghề nghiệp cha, mẹ
Hiện nay, bệnh nghề nghiệp, nhất là những
bệnh do nhiễm độc các ion kim loại nặng là vấn
đề quan tâm của mọi ngành trong xã hội. Ở
những người bị nhiễm độc chì mạn tính có hiện
tượng giảm G6PD hồng cầu cùng với sự giảm
hàm lượng cholesterol toàn phần(2). Chúng tôi
nhận thấy tỷ lệ thiếu men G6PD ở nhóm sơ sinh
có cha là công nhân 14,3%, cha không là công
nhân 3,1%, tuy nhiên không có sự khác biệt (p >
0,05). Nhưng đối với nghề nghiệp của mẹ, tỷ lệ
thiếu men G6PD ở nhóm sơ sinh có mẹ là thợ
uốn tóc chiếm 40%, mẹ không là thợ uốn tóc
3,1%, sự khác biệt có ý nghĩa thống kê (p < 0,05).
Như vậy, có khả năng thiếu G6PD liên quan
đến nghề nghiệp của mẹ, con của các bà mẹ làm
nghề uốn tóc có tỷ lệ thiếu G6PD cao hơn các
nghề khác. Những người làm nghề uốn tóc
thường xuyên tiếp xúc với thuốc nhuộm tóc,
trong thành phần thuốc nhuộm có chứa acetat
chì. Theo Lương Thị Thúy(7), hoạt tính men
G6PD hồng cầu của những người tiếp xúc với
chì giảm hơn so với nhóm chứng. Có thể một số
bà mẹ làm nghề uốn tóc bị nhiễm độc chì mạn
tính từ thuốc nhuộm tóc, kim loại chì trong máu
mẹ qua thai nhi làm giảm hoạt tính G6PD ở con.
KẾT LUẬN
Kết quả khảo sát 423 sơ sinh được sinh ra tại
các bệnh viện trên địa bàn tỉnh Ninh Thuận
trong thời gian từ 01/2008 đến 6/2008 ghi nhận:
1- Hoạt tính men G6PD trung bình ở trẻ sơ
sinh của lô nghiên cứu là 87,73% so với bình
thường (hàm lượng men trung bình 7,02 UI/g Hb).
Đa số có hoạt tính men thuộc lớp IV theo phân
loại của WHO chiếm 79,9%, lớp III chiếm 3,5%,
không có lớp Ihoặc lớp II.
2- Tỷ lệ thiếu men G6PD của lô nghiên cứu
là 3,5% trong đó tỷ lệ thiếu G6PD ở trẻ nam
5,3%, trẻ nữ 1,5%, dân tộc Kinh 2,2%, Chăm 7%
và Raglay là 8,3%.
3- Có 15 sơ sinh bị thiếu men G6PD, những
trẻ này đa số có tuổi thai ≥ 37 tuần (14/15), cân
nặng lúc sinh ≥ 2500 gam (13/15) và là trẻ nam
(12/15). Dân tộc Kinh 46,7% (7/15); tất cả cư ngụ
ở miền núi hoặc đồng bằng; 2/3 số trẻ sống trong
vùng sốt rét lưu hành. Hầu hết trẻ được sinh
thườnghoặc mổ lấy thai ; 53,3% là con đầu. Phần
lớn cha trẻ làm nông (60%) và thuộc dân tộc
Kinh (46,7%) ; mẹ trẻ làm nông (60%) và thuộc
dân tộc Kinh (46,7%).
4- Những trẻ sơ sinh bị thiếu men G6PD có
tuổi thai trung bình 38,20 tuần; cân nặng trung
bình lúc sinh 3100 gam; tuổi cha trung bình 31
tuổi; tuổi mẹ trung bình 28 tuổi.
5- Có mối liên quan giữa thiếu G6PD với:
giới tính, dân tộc, vùng sinh thái, nghề nghiệp
mẹ (thợ uốn tóc). Nghiên cứu chưa tìm thấy mối
liên quan giữa thiếu G6PD với: tuổi thai, phân
vùng sốt rét, tuổi cha, tuổi mẹ, nghề nghiệp cha
(p > 0,05).
10 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 25/01/2022 | Lượt xem: 313 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đặc điểm dịch tễ học thiếu men Glucose - 6 - Phosphate dehydrogenaseở trẻ sơ sinh được sinh ra tại tỉnh Ninh Thuận, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Chuyên Đề Nhi Khoa 1
ĐẶC ĐIỂM DỊCH TỄ HỌC THIẾU MEN GLUCOSE - 6 - PHOSPHATE
DEHYDROGENASE Ở TRẺ SƠ SINH ĐƯỢC SINH RA
TẠI TỈNH NINH THUẬN
Lê Vũ Chương*, Lê Thị Ngọc Dung**
TÓM TẮT
Đặt vấn đề: Bệnh thiếu men Glucose - 6 - Phosphate Dehydrogenase (G6PD) có tỷ lệ cao hơn ở những dân
tộc sống trong vùng sốt rét lưu hành. Ninh Thuận là tỉnh có nhiều dân tộc sinh sống và có 61,8% dân số sống
trong vùng dịch tễ sốt rét. Tuy nhiên, chưa có nghiên cứu về tình hình thiếu men G6PD. Chúng tôi tiến hành
khảo sát tỷ lệ và đặc điểm dịch tễ học thiếu men G6PD ở sơ sinh để góp phần đề xuất biện pháp dự phòng biến
chứng nguy hiểm của bệnh này.
Mục tiêu: Xác định tỷ lệ và đặc điểm dịch tễ thiếu men G6PD ở trẻ sơ sinh được sinh ra tại các bệnh viện
trên địa bàn của tỉnh Ninh Thuận từ 01/2008 đến 6/2008.
Phương pháp: Cắt ngang mô tả trên 423 sơ sinh được sinh ra tại các bệnh viện của tỉnh Ninh Thuận trong
6 tháng đầu năm 2008. Phương pháp chọn mẫu ngẫu nhiên có hệ thống, phân tầng theo các bệnh viện. Định
lượng men G6PD bằng phương pháp WST-8/ 1-methoxy PMS (Tantular I.S. 2003).
Kết quả: Hàm lượng men trung bình là 7,02 UI/g Hb, hầu hết hoạt tính men thuộc lớp IV theo phân loại
của WHO (79,9%). Tỷ lệ thiếu men G6PD ở sơ sinh là 3,5%, trong đó tỷ lệ thiếu men ở sơ sinh dân tộc Kinh là
2,2%, Chăm 7%, Raglay 8,3%. Những trẻ sơ sinh thiếu G6PD đa số có tuổi thai ≥ 37 tuần (14/15), cân nặng lúc
sinh ≥ 2500 gam (13/15), trẻ trai (12/15), dân tộc Kinh (7/15), sống trong vùng sốt rét lưu hành (10/15) và có
tuổi thai trung bình là 38,2 tuần, cân nặng trung bình lúc sinh là 3100 gam. Nghiên cứu cho thấy có sự khác biệt
có ý nghĩa thống kê về tỷ lệ thiếu men G6PD giữa trẻ trai (5,3%) và trẻ gái (1,5%), dân tộc ít người (7,2%) và
dân tộc Kinh (2,2%), miền núi (6,9%) và vùng biển (0%), mẹ là thợ uốn tóc (40%) và mẹ làm nghề khác (3,1%)
(p < 0,05). Mặc dù tỷ lệ thiếu men G6PD của sơ sinh sống trong vùng sốt rét lưu hành cao hơn ngoài vùng sốt
rét lưu hành (4,0% so với 2,9%) và tỷ lệ thiếu G6PD của sơ sinh có cha là công nhân cũng cao hơn nghề khác
(14,3% so với 3,1%) nhưng không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê (p > 0,05). Chúng tôi cũng nhận thấy
không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về giá trị trung bình của tuổi thai, tuổi cha, tuổi mẹ giữa 2 nhóm sơ
sinh thiếu men và đủ men G6PD (p > 0,05).
Kết luận: Tỷ lệ thiếu men G6PD ở sơ sinh được sinh ra tại các bệnh viện của tỉnh Ninh Thuận là 3,5%. Có
mối liên quan giữa thiếu G6PD với: giới tính, dân tộc, vùng sinh thái, nghề nghiệp mẹ (thợ uốn tóc). Tuy nhiên,
không có sự liên quan giữa thiếu G6PD với: tuổi thai, phân vùng sốt rét, tuổi cha, tuổi mẹ, nghề nghiệp cha.
ABSTRACT
EPIDEMIC CHATRACTERISTICS OF GLUCOSE -6-PHOSPHATE DEHYDROGENASE DEFICIENCY
AMONG NEONATES IN NINH THUAN PROVINCE
Le Vu Chuong, Le Thi Ngoc Dung
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 13 – Supplement of No 1 - 2009: 27 – 34
Background: The prevalence of Glucose-6-Phosphate Dehydrogenase deficiency among people living in
malaria endemic areas is more higher than others. In Ninh Thuan, there are many ethnic groups and 61.8% of
inhabitants living in malaria endemic areas. However, there is not any study on situation of Glucose-6-Phosphate
* Sở Y tế tỉnh Ninh Thuận, ** Bộ môn Nhi -Đại học Y dược TP. Hồ Chí Minh
Chuyên Đề Nhi Khoa 2
Dehydrogenase deficiency in this area. We carried out the study on Glucose-6-Phosphate Dehydrogenase
deficiency among newborns to propose intervention to prevent complications of this disease.
Objective: To identify the prevalence and epidemic characteristics of Glucose-6-Phosphate Dehydrogenase
deficiency among neonates born in all hospitals of Ninh Thuan province from January 2008 to June 2008.
Method: A cross sectional study was carried out on 423 neonates born in all hospitals of Ninh Thuan
province in the first six months of 2008 with systematic and stratified sampling method. Quantity of Glucose-6-
Phosphate Dehydrogenase was measuered by WST-8/1- methoxy PMS method (Tantular I.S. 2003).
Results: The mean of G-6-PD was 7.02 UI/g Hb, almost enzyme activities (79.9%) were type IV (According
to WHO’s classification). The prevalence of G-6-PD deficiency in neonates was 3.5%, the rate of G-6-PD
deficiency in the Kinh was 2.2%, in the Cham was 7%, and in the Raglay group was 8.3%. Most of the G-6-PD
deficient neonates had 37 weeks and more of gestational age (14/15), were 2,500 grammes and more in weight
(13/15). Among fifteen G-6-PD deficient neonates twelve of them were boys, seven childs were Kinh group and
ten of them lived in malaria endemic areas. The average gestational age was 38.2 weeks and the mean of weight
was 3.100 grammes. The result of study showed that there was a significant difference of the rate of G-6-PD
deficiency between boy (5.3%) and girl (1.5%); ethnic minority (7.2%) and Kinh (2.2%); living in mountianous
region (6.9%) and coastal region (0.0%); their mothers were hairdressers (40%) and others (3.1%) (p < 0.05).
Although the rate of G-6-PD deficiency of neonates living in malaria endemic areas was more higher than other
areas (4.0% vs 2.9%) and the rate of G-6-PD deficiency of neonates whose fathers were workers was also more
higher than others (14.3% vs 3.1%) but those differences were not significant. There was also no significant
association between G-6-PD deficiency and among the average gestational age, mother’s age, and father’s age.
Conclusion: The prevalence of G-6-PD deficiency in neonates born in all hospitals of Ninh Thuan province
was 3.5%. There was a significant association between G-6-PD deficiency and among sex, ethnic, ecologic region,
and occupation of mothers (hairdressers). However, there was no significant association between G-6-PD
deficiency and among gestational age, age of parent, malaria region, and occupation of father.
ĐẶT VẤN ĐỀ
Thiếu men G6PD là bệnh di truyền liên kết
nhiễm sắc thể X. Sơ sinh thiếu G6PD có thể bị
vàng da từ ngày thứ 2-3 sau sinh, trường hợp
nặng gây vàng da nhân. Trẻ có thể bình thường
cho tới khi bệnh bộc phát do các tác nhân có tính
oxy hóa (thuốc, thức ăn, bệnh nhiễm trùng) gây tán
huyết. Bệnh liên quan với dân tộc và có tỷ lệ mắc
cao hơn ở những dân tộc sống trong vùng sốt rét
lưu hành. Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) khuyến
cáo sàng lọc G6PD sơ sinh ở những dân số có tỷ
lệ thiếu men của nam giới ≥ 3 - 5%.
Ninh Thuận là tỉnh có 61,8% dân số trong
vùng sốt rét và có nhiều dân tộc sinh sống. Hàng
năm, tại các bệnh viện của tỉnh có 7000-8000 trẻ
được sinh ra, chiếm 70% sơ sinh toàn tỉnh,
nhưng các bệnh viện chưa triển khai xét nghiệm
G6PD. Trước tình hình đó, với mục tiêu tổng
quát của nghiên cứu nhằm xác định tỷ lệ và đặc
điểm dịch tễ thiếu men G6PD ở trẻ sơ sinh được
sinh ra tại các bệnh viện của tỉnh Ninh Thuận từ
01- 06/2008, những mục tiêu chuyên biệt sau đây
sẽ lần lượt được khảo sát:
1- Xác định hoạt tính men G6PD trung bình
và phân bố các mức hoạt tính men của lô nghiên
cứu.
2- Xác định tỷ lệ thiếu men G6PD ở sơ sinh
được sinh ra tại các bệnh viện của tỉnh Ninh
Thuận từ 01- 6/2008.
3- Xác định tỷ lệ các đặc điểm về tuổi thai,
cân nặng lúc sinh, giới, dân tộc, nơi cư ngụ,
phương pháp sinh, con đầu hay con thứ, nghề
nghiệp và dân tộc cha, mẹ của các sơ sinh bị
thiếu G6PD.
4- Xác định các giá trị trung bình: tuổi thai,
cân nặng lúc sinh, tuổi cha, tuổi mẹ của các sơ
sinh bị thiếu G6PD.
Chuyên Đề Nhi Khoa 3
5- Xác định mối liên quan giữa thiếu G6PD ở
sơ sinh và các yếu tố: tuổi thai, giới tính, dân tộc,
nơi cư ngụ, tuổi cha - mẹ, nghề nghiệp cha- mẹ.
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Nghiên cứu cắt ngang mô tả thực hiện từ
tháng 1đến tháng 6 năm 2008. Dân số mục tiêu là
trẻ sơ sinh được sinh ra tại các bệnh viện của
tỉnh Ninh Thuận. Cỡ mẫu gồm 423 sơ sinh được
chọn ngẫu nhiên có hệ thống, phân tầng theo các
bệnh viện.Tiêu chuẩn loại trừ: trẻ đã được truyền
máu hoặc thay máu.
Trẻ sơ sinh được lấy mẫu máu trong vòng 24
giờ sau sinh gởi về khoa Huyết học - Truyền
máu của Bệnh viện Đa khoa tỉnh Ninh Thuận.
Hàm lượng men G6PD hồng cầu được xác định
bằng phương pháp WST-8/1-methoxy PMS
(Tantular I.S. 2003)(9,12,19), sử dụng G6PD Assay
Kit của DOJINDO Laboratories (Nhật Bản). Mẫu
máu được lấy bằng giấy thấm Whatman 31 ET
Chr, đọc kết quả bằng máy sinh hóa RA - 50.
Dữ kiện được thu thập qua phỏng vấn người
nhà và từ hồ sơ bệnh án, sau đó mã hóa và xử lý
bằng phần mềm SPSS 11.05. Sự khác nhau của
mỗi nhóm được đánh giá bằng test χ2 hoặc test
Fisher’s Exact đối với các biến số định tính; test
Student hoặc test Mann-Whitney đối với các
biến số định lượng; ngưỡng ý nghĩa thống kê p <
0,05.
KẾT QUẢ
Chúng tôi đã khảo sát được 423 mẫu máu
của sơ sinh được sinh tại 4 bệnh viện của tỉnh
Ninh Thuận và thu thập thông tin về trẻ. Kết quả
như sau:
Hoạt tính men G6PD của lô nghiên cứu
Bảng1: Hàm lượng và hoạt tính G6PD phân bố theo
nhóm tuổi thai, giới tính và dân tộc
Đặc tính Hàm lượng
( IU/ g
Hb)
Hoạt tính (% bình
thường)
Giới tính
Nam 6,96 ± 1,06 87,31 ± 13,23
Nữ 7,05 ± 0,93 88,21 ± 11,63
Dân tộc
Kinh 7,04 ± 0,98 88,05 ± 12,21
Chăm 6,98 ± 1,10 87,21 ± 13,75
Raglay 6,87 ± 1,03 85,91 ± 12,92
Lô nghiên cứu
(n=423) 7,02
±
1,00 87,73 ± 12,51
Bảng 2: Phân lớp hoạt tính men G6PD theo phân loại
của WHO
Lớp men G6PD Tần số %
Lớp I, II (hoạt tính < 10% bình
thường) 0 0
Lớp III (hoạt tính 10 - 60% bình
thường) 15 3,5
Lớp IV (hoạt tính 60 - 100%
bình thường) 338 79,9
Lớp V (hoạt tính > 100% bình
thường) 70 16,5
Tổng cộng 423 100
Bảng 3. Tỷ lệ thiếu G6PD phân bố theo nơi sinh
Thiếu men ( hoạt tính < 60%) Nơi sinh Tổng
số Số ca %
BV Ninh Sơn 30 3 10
BV Ninh Phước 27 2 7,4
BV Ninh Hải 19 1 5,3
BV ĐK Tỉnh 347 9 2,6
Lô nghiên cứu 423 15 3,5
Đặc điểm dịch tễ của sơ sinh bị thiếu
G6PD
Bảng 4: Tỷ lệ các đặc điểm dịch tễ của sơ sinh bị thiếu
men G6PD
Đặc điểm ( N = 15) Số ca %
Nam 12 80 Giới tính
Nữ 3 20
Kinh 7 46,7
Chăm 5 33,3
Dân tộc
Raglay 3 20
< 37 tuần 1 6,7 Nhóm tuổi thai
≥ 37 tuần 14 93,3
< 2500 g 2 13,3 Cân nặng lúc sinh
≥ 2500 g 13 86,7
Sinh thường 8 53,3
Mổ 6 40
Phương pháp sinh
Can thiệp 1 6,7
Con đầu 8 53,3 Con đầu, con thứ
Con thứ 7 46,7
Miền núi 8 53,3 Vùng sinh thái
Đồng bằng 7 46,7
Chuyên Đề Nhi Khoa 4
Đặc điểm ( N = 15) Số ca %
Ven biển 0 0
Trong vùng SR
lưu hành 10 67
Vùng sốt rét(SR)
Ngoài vùng SR
lưu hành 5 33
Nông 9 60
Công nhân 2 13,3
CBCC 2 13,3
Nghề nghiệp cha
Buôn bán 2 13,3
Nông 9 60
Công nhân 1 6,7
CBCC 2 13,3
Thợ uốn tóc 2 13,3
Nghề nghiệp mẹ
Thợ may 1 6,7
Kinh 7 46,7
Chăm 5 33,3
Raglay 3 20,0
Dân tộc cha
Khác 0 0
Kinh 7 46,7
Chăm 5 33,3
Raglay 3 20
Dân tộc mẹ
Khác 0 0
Bảng 5: Giá trị trung bình của một số đặc điểm dịch
tễ của sơ sinh bị thiếu men G6PD
Đặc điểm (N = 15) X
±
SD
Tuổi thai (tuần) 38,20 ± 2,40
Cân nặng lúc sinh (gam) 3100,00 ± 576,94
Tuổi cha (tuổi) 31,00 ± 6,75
Tuổi mẹ (tuổi) 28,00 ± 5,33
Các yếu tố liên quan với thiếu men G6PD
Bảng 6: Liên quan giữa thiếu G6PD với giới tính,
dân tộc, nơi cư ngụ, nghề nghiệp cha, mẹ
Thiếu G6PD Không thiếu
Đặc điểm Số ca % Số ca %
p -
value
Giới tính
Nam 12 5,3 215 94,7
0,037
Nữ 3 1,5 193 98,5
Dân tộc
Kinh 7 2,2 305 97,8
Thiểu số 8 7,2 103 92,8
0,031
Vùng sinh thái
Miền núi 8 6,9 108 91,3
Không là miền núi 7 2,3 300 97,7
0,035
Ven biển 0 0 97 100
Không là ven biển 15 4,6 311 95,4 0,038
Vùng sốt rét
Ngoài vùng SR lưu 5 2,9 168 97,1
0,544
hành
Trong vùng SR lưu
hành 10 4,0 240 96,0
Nghề nghiệp cha
Công nhân 2 14,3 12 85,7
Khác 13 3,1 396 96,9
0,089
Nghề nghiệp mẹ
0,011
Uốn tóc 2 40 3 60
Khác 13 3,1 405 96,9
Bảng 7: Liên quan giữa thiếu G6PD với tuổi thai,
tuổi cha, tuổi mẹ
Men G6PD N X
±
SD p-value
Tuổi thai (tuần)
Thiếu 15 38,20 ± 2,40
0,166
Không thiếu 408 38,96 ± 1,20
Tuổi cha (tuổi)
Thiếu 15 31,00 ± 6,75 0,608
Không thiếu 408 30,27 ± 6,30
Tuổi mẹ (tuổi)
Thiếu 15 28,00 ± 5,33
0,719
Không thiếu 408 27,66 ± 6,09
Bảng 8: So sánh hàm lượng G6PD ở sơ sinh < 37
tuần và ≥ 37 tuần
Tuổi thai N G6PD (IU/ g Hb) p –value
< 37 tuần 7 6,67 ± 1,14
≥ 37 tuần 416 7,03 ± 1,00
0,352
BÀN LUẬN
Hoạt tính men G6PD của lô nghiên cứu:
Hoạt tính men G6PD trung bình và phân bố
các mức hoạt tính men
Hoạt tính men G6PD trung bình của 423 sơ
sinh là 87,73% so với bình thường. Hàm lượng
G6PD trung bình là 7,02 IU/gHb, ở trẻ nam 6,98
IU/gHb thấp hơn một ít so với trẻ nữ (7,05
IU/gHb) và thay đổi theo dân tộc: Kinh 7,04
IU/gHb, Chăm 6,98 IU/gHb, Raglay 6,87 IU/gHb,
điều này phù hợp với y văn là men G6PD hồng
cầu thay đổi theo từng bộ tộc, từng vùng địa lý
khác nhau(10,13,18). Các trường hợp thiếu men đều
thuộc lớp III có hoạt tính men trong khoảng 10 -
60% trùng với hoạt tính men G6PD Mahidol,
Đông Nam Á(3,11).
Tỷ lệ thiếu men G6PD ở sơ sinh
Chuyên Đề Nhi Khoa 5
Tỷ lệ thiếu men G6PD ở sơ sinh của lô
nghiên cứu là 3,5% ở mức bình quân khi so với
các nghiên cứu tại miền Nam Việt Nam(4). Do
đặc điểm dân số khác nhau nên tỷ lệ thiếu men
G6PD của sơ sinh tại mỗi bệnh viện cũng khác
nhau. Bệnh viện Đa khoa tỉnh có cỡ mẫu 347 sơ
sinh là đủ lớn, do đó tỷ lệ thiếu men G6PD 2,6%
đại diện cho trẻ sơ sinh được sinh ra tại Bệnh
viện Đa khoa tỉnh (Thật vậy, nếu tỷ lệ thiếu men
G6PD mong đợi p = 2,6%, mức ý nghĩa thống kê α =
0,05, độ chính xác d = 0,05, thì cỡ mẫu tối thiếu là: n =
39).
Đặc điểm dịch tễ của sơ sinh bị thiếu
G6PD
Tỷ lệ các đặc điểm dịch tễ của các sơ sinh bị
thiếu men G6PD
Số trẻ sơ sinh thiếu G6PD đủ tháng, đủ cân
chiếm đa số vì trong lô nghiên cứu hầu hết là trẻ
đủ tháng và đủ cân. Số trẻ nam thiếu G6PD cao
gấp 4 lần sơ sinh nữ (12 nam/03 nữ) là phù hợp
với lý thuyết vì bệnh di truyền liên kết nhiễm sắc
thể giới tính X. Kết quả của chúng tôi tương tự
với các nghiên cứu của Phạm Phương Phi(5), Trần
Thị Hoa Phượng(6). Trong lô nghiên cứu có đến
73,8% trẻ dân tộc Kinh nên số trẻ thiếu men là
dân tộc Kinh được tìm thấy nhiều hơn các dân
tộc khác.
Trong số 15 trẻ thiếu men, trẻ sinh thường
chiếm 53,3%, sinh mổ 40%, can thiệp 6,7% gần tỷ
lệ thuận với phân bố số lượng trẻ theo phương
pháp sinh (lô nghiên cứu: sinh thường 62,9%, mổ
lấy thai chiếm 30,3%, can thiệp giác hút, forceps
6,8%). Có 08/15 trẻ thiếu G6PD là con đầu và
07/15 trẻ thiếu G6PD là con thứ là tương đương
nhau. Thiếu G6PD có thể gặp ở con đầu cũng
như con thứ vì nhiễm sắc thể X bị đột biến gen
gây thiếu G6PD đã tồn tại ở cha mẹ sơ sinh từ
trước.
Chúng tôi cũng đã định lượng G6PD cho 97
trẻ ở vùng biển nhưng không ghi nhận trường
hợp nào thiếu men. Có khả năng cư dân ở vùng
biển chủ yếu là người Kinh với tỷ lệ thiếu G6PD
thấp hơn các dân tộc khác(4,8,20) ; hoặc vùng biển
của Ninh Thuận là vùng gần như không có sốt
rét lưu hành.
Ở vùng sốt rét lưu hành, số trẻ thiếu G6PD
cao gấp đôi vùng không có sốt rét lưu hành
trong khi ở lô nghiên cứu số trẻ sống trong vùng
sốt rét chỉ gấp 1,4 lần số trẻ sống ngoài vùng sốt
rét lưu hành. Điều này phù hợp với lý thuyết và
nhiều công trình nghiên cứu trên thế giới(1,3,11,20).
Ninh Thuận là tỉnh thuần nông, đa số cha
mẹ trẻ làm nghề nông nên tần số thiếu men
G6PD ở trẻ sơ sinh có cha mẹ làm nông cao hơn
những nghề nghiệp khác. Trong số 15 trẻ thiếu
men G6PD thì 07 trẻ có cha và mẹ cùng là người
Kinh, 05 trẻ có cha mẹ cùng là người Chăm, 03
trẻ có cha mẹ cùng là người Raglay. Điều này
chứng tỏ theo phong tục, tập quán của các các
dân tộc ở Việt Nam, đặc biệt là dân tộc ít người,
sự kết hôn trong cùng nhóm dân tộc là phổ biến,
ít có sự pha trộn nên đột biến gen G6PD có tính
chất khu trú theo nhóm dân tộc(8). Tại Ninh
Thuận, người Chăm và Raglay theo chế độ mẫu
hệ, có tập quán kết hôn gần huyết thống, kết hôn
giữa những người cùng đạo và cùng làng, điều
này dẫn đến nguy cơ xuất hiện các bệnh lý di
truyền trong đó có bệnh thiếu men G6PD.
Giá trị trung bình một số đặc điểm dịch tễ của
các sơ sinh bị thiếu men G6PD
Tuổi thai và cân nặng trung bình của các trẻ
thiếu men G6PD nằm trong giới hạn sơ sinh đủ
tháng và đủ cân, tương đương với độ tuổi và cân
nặng trung bình của 423 sơ sinh trong lô nghiên
cứu. Tất cả độ tuổi và cân nặng đều có trẻ thiếu
G6PD, điều này chứng tỏ thiếu G6PD là bệnh di
truyền, hoạt tính men được qui định bởi gen,
không phụ thuộc tuổi thai và cân nặng. Tuổi cha
mẹ các trẻ thiếu men G6PD nằm trong giới hạn
độ tuổi sinh đẻ bình thường. Bất kỳ độ tuổi nào
của cha, mẹ cũng đều có khả năng sinh con bị
thiếu G6PD bởi vì đây là một bệnh di truyền,
gen đột biến đã sẵn có trên nhiễm sắc thể X do di
truyền từ các thế hệ trước.
Các yếu tố liên quan với thiếu men G6PD
Tuổi thai
Chuyên Đề Nhi Khoa 6
Theo O Mesner và cộng sự thì hoạt tính men
G6PD ở nhóm trẻ có tuổi thai dưới 37 tuần cao
hơn ở nhóm trẻ từ 37 tuần trở lên(17). Tuy nhiên, ở
nghiên cứu của chúng tôi không có sự khác nhau
có ý nghĩa thống kê về hàm lượng men G6PD
giữa 2 nhóm sơ sinh này (p > 0,05). Ngoài ra,
chúng tôi cũng nhận thấy không có sự khác biệt
có ý nghĩa thống kê giữa tuổi thai trung bình của
nhóm thiếu G6PD và nhóm không thiếu G6PD
(p > 0,05). Vì vậy chúng ta có thể tiến hành xét
nghiệm sàng lọc men G6PD ngay sau sinh cho
trẻ non tháng cũng như trẻ đủ tháng.
Giới tính
Gen quy định cấu trúc G6PD nằm trên
nhiễm sắc thể giới tính X, thiếu hụt G6PD là
bệnh di truyền lặn do mẹ truyền cho con
trai(3,11,15), tỷ lệ thiếu G6PD ở nam cao hơn nữ(5,6,8).
Ở nghiên cứu của chúng tôi, tỷ lệ thiếu men
G6PD ở nam là 5,3%, ở nữ là 1,5%, sự khác biệt
có ý nghĩa thống kê (p < 0,05). Với cỡ mẫu 217 sơ
sinh nam và 196 sơ sinh nữ là đủ lớn, do đó tỷ lệ
thiếu men G6PD ở trẻ nam 5,3%, và trẻ nữ 1,5%
cũng đại diện cho sơ sinh các bệnh viện của tỉnh
Ninh Thuận. Như vậy, theo khuyến cáo của
WHO(15) cần phải xét nghiệm sàng lọc men
G6PD cho tất cả các sơ sinh được sinh ra tại các
bệnh viện của tỉnh Ninh Thuận.
Dân tộc
Cỡ mẫu 312 sơ sinh dân tộc Kinh là đủ lớn
nên tỷ lệ thiếu men G6PD ở sơ sinh dân tộc Kinh
của lô nghiên cứu 2,2% cũng đại diện cho sơ sinh
dân tộc Kinh. Tỷ lệ thiếu men ở dân tộc Kinh của
chúng tôi gần với tỷ lệ thiếu men ở dân tộc Kinh
tại Bảo Lộc, Lâm Đồng là 1,9%(16) và thành phố
Hồ Chí Minh là 2,06%(4). Đối với dân tộc Chăm,
Raglay và dân tộc khác, do cỡ mẫu của mỗi dân
tộc quá nhỏ nên tỷ lệ thiếu men của lô nghiên
cứu chưa đại diện cho các dân tộc này. Tuy
nhiên, nếu tính chung cho các dân tộc ít người
thì cỡ mẫu 111 là đủ lớn, do đó tỷ thiếu men
7,2% là đại diện cho nhóm sơ sinh các dân tộc ít
người. Chúng tôi nhận thấy có sự khác biệt có ý
nghĩa thống kê về tỷ lệ thiếu G6PD giữa 2 nhóm
sơ sinh dân tộc Kinh và dân tộc ít người (p <
0,05). Như vậy, thiếu G6PD liên quan với dân
tộc, điều này phù hợp với các nghiên cứu trong
và ngoài nước(4,8,11,14,16,20).
Vùng sinh thái
Ở nghiên cứu của chúng tôi, tỷ lệ thiếu men
G6PD tính chung cho vùng đồng bằng và ven
biển là 2,3%, so sánh với miền núi 6,9%, thì có sự
khác biệt có ý nghĩa thống kê (p <0,05). Miền núi
Ninh Thuận có địa hình là vùng đồi thấp, 100%
số xã nằm trong vùng sốt rét lưu hành nặng, cư
dân chủ yếu là dân tộc ít người sống ổn định qua
nhiều thế hệ nên có tỷ lệ thiếu G6PD cao hơn các
vùng khác, điều này phù hợp với nhiên cứu của
P.Verle và cộng sự(20) tại các tỉnh Thanh Hóa, Sơn
La, Hà Giang và Hòa Bình.
Tỷ lệ thiếu G6PD ở vùng biển là 0%, những
vùng còn lại là 4,6%, sự khác biệt có ý nghĩa
thống kê (p < 0,05). Cư dân ở vùng biển tỉnh
Ninh Thuận chủ yếu là dân tộc Kinh, trong lô
nghiên cứu của chúng tôi: vùng biển có 99% dân
tộc Kinh, 1% là dân tộc ít người. Nhiều nghiên cứu
ở Việt Nam cho thấy tỷ lệ thiếu men G6PD ở dân
tộc Kinh thấp hơn các dân tộc khác(4,8,16). Hơn
nữa, vùng biển tỉnh Ninh Thuận là vùng gần
như không có sốt rét lưu hành. Có thể đó là
những nguyên nhân dẫn đến sơ sinh ở vùng
biển có tỷ lệ thiếu G6PD thấp.
Vùng sốt rét
Tỷ lệ thiếu men G6PD tính chung cho vùng
sốt rét lưu hành là 4,0% cao hơn vùng không có
sốt rét lưu hành 2,9%. Tuy nhiên không có sự
khác biệt có ý nghĩa thống kê giữa hai tỷ lệ này
(p > 0,05). Một số tác giả cho rằng vùng sốt rét
lưu hành có liên quan đến thiếu G6PD(11,14).
Nghiên cứu của chúng tôi khác với quan điểm
này. Tác giả Tạ Thị Tĩnh cho rằng tỷ lệ thiếu
G6PD phụ thuộc theo nhóm dân tộc, không phụ
thuộc theo vùng địa lý(8). Quan điểm này lý giải
được kết quả của chúng tôi. Chúng tôi không
phủ nhận mối liên quan giữa bệnh sốt rét và
bệnh thiếu men G6PD. Nhưng vấn đề đặt ra ở
đây là cư dân sống trong vùng sốt rét lưu hành ở
tỉnh Ninh Thuận ngày nay là không đại diện cho
Chuyên Đề Nhi Khoa 7
nhóm người, nhóm dân tộc có tổ tiên đã từng
sinh sống tại nơi đây qua nhiều thế hệ. Có hiện
tượng dân di cư từ vùng không có sốt rét lưu
hành đến vùng sốt rét lưu hành và ngược lại.
Chính sự pha trộn dân cư này là nguyên nhân
dẫn đến không có sự khác nhau có ý nghĩa
thống kê về tỷ lệ thiếu men G6PD giữa 2 vùng.
Tuổi cha, mẹ
Chúng tôi giả thiết rằng đột biến gen có thể
xảy ra trên bất kỳ một cá thể nào và khả năng
đột biến gen tăng lên theo thời gian sống của cá
thể. Tuổi cha mẹ càng cao thì khả năng xuất hiện
đột biến gen gây thiếu men G6PD nhiều hơn.
Tuy nhiên, nghiên cứu của chúng tôi cho thấy
không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về
tuổi cha trung bình giữa 2 nhóm sơ sinh thiếu và
không thiếu men G6PD (p > 0,05). Tương tự,
cũng không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê
về tuổi mẹ trung bình giữa 2 nhóm sơ sinh này
(p> 0,05).
Nghề nghiệp cha, mẹ
Hiện nay, bệnh nghề nghiệp, nhất là những
bệnh do nhiễm độc các ion kim loại nặng là vấn
đề quan tâm của mọi ngành trong xã hội. Ở
những người bị nhiễm độc chì mạn tính có hiện
tượng giảm G6PD hồng cầu cùng với sự giảm
hàm lượng cholesterol toàn phần(2). Chúng tôi
nhận thấy tỷ lệ thiếu men G6PD ở nhóm sơ sinh
có cha là công nhân 14,3%, cha không là công
nhân 3,1%, tuy nhiên không có sự khác biệt (p >
0,05). Nhưng đối với nghề nghiệp của mẹ, tỷ lệ
thiếu men G6PD ở nhóm sơ sinh có mẹ là thợ
uốn tóc chiếm 40%, mẹ không là thợ uốn tóc
3,1%, sự khác biệt có ý nghĩa thống kê (p < 0,05).
Như vậy, có khả năng thiếu G6PD liên quan
đến nghề nghiệp của mẹ, con của các bà mẹ làm
nghề uốn tóc có tỷ lệ thiếu G6PD cao hơn các
nghề khác. Những người làm nghề uốn tóc
thường xuyên tiếp xúc với thuốc nhuộm tóc,
trong thành phần thuốc nhuộm có chứa acetat
chì. Theo Lương Thị Thúy(7), hoạt tính men
G6PD hồng cầu của những người tiếp xúc với
chì giảm hơn so với nhóm chứng. Có thể một số
bà mẹ làm nghề uốn tóc bị nhiễm độc chì mạn
tính từ thuốc nhuộm tóc, kim loại chì trong máu
mẹ qua thai nhi làm giảm hoạt tính G6PD ở con.
KẾT LUẬN
Kết quả khảo sát 423 sơ sinh được sinh ra tại
các bệnh viện trên địa bàn tỉnh Ninh Thuận
trong thời gian từ 01/2008 đến 6/2008 ghi nhận:
1- Hoạt tính men G6PD trung bình ở trẻ sơ
sinh của lô nghiên cứu là 87,73% so với bình
thường (hàm lượng men trung bình 7,02 UI/g Hb).
Đa số có hoạt tính men thuộc lớp IV theo phân
loại của WHO chiếm 79,9%, lớp III chiếm 3,5%,
không có lớp I hoặc lớp II.
2- Tỷ lệ thiếu men G6PD của lô nghiên cứu
là 3,5% trong đó tỷ lệ thiếu G6PD ở trẻ nam
5,3%, trẻ nữ 1,5%, dân tộc Kinh 2,2%, Chăm 7%
và Raglay là 8,3%.
3- Có 15 sơ sinh bị thiếu men G6PD, những
trẻ này đa số có tuổi thai ≥ 37 tuần (14/15), cân
nặng lúc sinh ≥ 2500 gam (13/15) và là trẻ nam
(12/15). Dân tộc Kinh 46,7% (7/15); tất cả cư ngụ
ở miền núi hoặc đồng bằng; 2/3 số trẻ sống trong
vùng sốt rét lưu hành.. Hầu hết trẻ được sinh
thường hoặc mổ lấy thai ; 53,3% là con đầu. Phần
lớn cha trẻ làm nông (60%) và thuộc dân tộc
Kinh (46,7%) ; mẹ trẻ làm nông (60%) và thuộc
dân tộc Kinh (46,7%).
4- Những trẻ sơ sinh bị thiếu men G6PD có
tuổi thai trung bình 38,20 tuần; cân nặng trung
bình lúc sinh 3100 gam; tuổi cha trung bình 31
tuổi; tuổi mẹ trung bình 28 tuổi.
5- Có mối liên quan giữa thiếu G6PD với:
giới tính, dân tộc, vùng sinh thái, nghề nghiệp
mẹ (thợ uốn tóc). Nghiên cứu chưa tìm thấy mối
liên quan giữa thiếu G6PD với: tuổi thai, phân
vùng sốt rét, tuổi cha, tuổi mẹ, nghề nghiệp cha
(p > 0,05).
ĐỀ XUẤT
- Sàng lọc bệnh thiếu G6PD cho tất cả sơ sinh
được sinh ra tại các bệnh viện của tỉnh Ninh
Thuận.
Chuyên Đề Nhi Khoa 8
- Huấn luyện cán bộ y tế (nơi có phòng sinh)
kỹ thuật lấy mẫu máu, bảo quản và vận chuyển
mẫu.
- Ưu tiên sàng lọc cho trẻ sơ sinh nam, trẻ
dân tộc thiểu số, trẻ ở miền núi.
- Cần kiểm tra men G6PD trước khi điều trị
Primaquin.
- Tư vấn hôn nhân cho gia đình có người
thiếu G6PD đặt biệt người Chăm, Raglay (kết
hôn gần huyết thống).
- Nghiên cứu phân tích trong cộng đồng về
thiếu G6PD.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Tạ Thị Ánh Hoa (1997), "Bệnh thiếu men Glucose-6-
phosphate dehydrogenase”, Nhi khoa sau đại học, Nhà xuất bản
Đà Nẵng, tr. 286-294.
2. Phạm Thị Lý (1998), Nghiên cứu so sánh Glucose-6-phosphate
dehydrogenase hồng cầu người, thỏ, chuột, Luận án Tiến sĩ Y học,
Trường Đại học Y khoa Hà Nội.
3. Lâm Thị Mỹ (2008), Bệnh thiếu men Glucose - 6 - Phosphate
Dehydrogenase, Bộ môn Nhi - Đại học Y dược Thành phố Hồ
Chí Minh (Bài giảng chứng chỉ Huyết học Nhi).
4. Nguyễn Thu Nhạn, Nguyễn Công Khanh (2006), ‘‘Xét
nghiệm sàng lọc TSH ở trẻ sơ sinh để phát hiện sớm bệnh suy
giáp bẩm sinh’’, Báo cáo tổng kết đề tài khoa học công nghệ cấp bộ,
Bệnh viện Nhi Trung ương, tr. 8-10.
5. Phạm Phương Phi, Huỳnh Thị Duy Hương, Phạm Diệp Thùy
Dương, Phạm Thanh Hường (2007), “Tầm soát thiếu men
G6PD và suy giáp bẩm sinh trên sơ sinh tại Bệnh viện Đại học
Y dược cơ sở 4, thành phố Hồ Chí Minh, năm 2007-2008”, Tạp
chí Y học TP. Hồ Chí Minh, Nhà xuất bản Y học, tr. 82-85.
6. Trần Thị Hoa Phượng (2004), Đặc điểm thiếu máu tán huyết do
thiếu men Glucose - 6-Phosphate Dehydrogense tại bệnh viện Nhi
đồng II, Luận văn Thạc sĩ Y học, Đai học Y dược TP. Hồ Chí
Minh.
7. Lương Thị Thúy (2002), Xác định mức độ thấm nhiễm chì và một
số chỉ số sinh học trên lực lượng cảnh sát giao thông Thành phố Hải
Phòng, năm 2001-2002, Luận văn Thạc sĩ Y học, Học viện Quân
Y.
8. Tạ Thị Tĩnh (2006), “Thiếu Glucose - 6 - Phosphate
Dehydrogenase hồng cầu ở một số dân tộc Việt Nam”, Công
trình nghiên cứu khoa học chuyên ngành sốt rét - ký sinh trùng -
côn trùng giai đọan 2001-2005, Nhà xuất bản Y học, tr. 265 – 269.
9. Arai M., Kosuge K., Kawamoto F., Matsuoka H. (2006),
“Reactivity of Blood Samples Spotted onto Filter Papers in the
WST-8 Method for Screening of G6PD Deficiency”, Avta
Medica. Okayama, Vol 60(2), pp. 127-134.
10. Beuler Ernest (1992), “The molecular biology of G6PD
variants and other red cell enzyme defects”, Annu, Rer.Med,
Vol. 44, pp. 47-59.
11. Beuler Ernest (1994), “ G6PD deficiency”, Blood, Vol. 84(11),
pp. 3613-3636.
12. DOJINDO, G6PD Assay Kit General Protocol, DOJINDO
Laboratories.
13. Hsia Y.E., Miyakawa F., Baltazar J., Ching N.S.P., Yuen J,
Westwood B, Beutler E. (1993), “Frequency of Glucose-6-
phosphate dehydrogenase (G6PD) mutation in Chinese,
Filipinos, and Laotians from Hawaii”, Human Genetics, Vol
92(5), pp.470-476.
14. Jalloh A., Tantular I.S., Pusarawati S., Kawilarang A.P., Kerong
H., Lin K. et al (2004), “Rapid epidemiologic assessement of
glucose-6-phosphate dehydrogenase deficiency in malaria-
endemic areas in Southeast Asia using a novel diagnostic kit”,
Tropical Medicine and International Health, Vol 9(5), pp. 615-623.
15. Jennifer E. Frannk (2005), “Diagnosis and management of
G6PD deficiency”, American Family Physician, Vol. 72 (7), pp.
1277-1282.
16. Matsuoka H., Thuan D.T.V., Thien H.V., Kanbe T., Jalloh A.,
Hirai M. et al (2007), “Seven different Glucose-6-phosphate
dehydrogenase variant including a new variant distributed in
Lam Dong province in Southern Viet nam”, Avta Medica.
Okayama, Vol 61(4), pp. 213-219.
17. Mesner O., Hammerman C., Golschmidt D., Rudensky B.,
Bader D., Kaplan M. (2004), “Glucose -6-phosphate
dehydrogenase activity in male premature and term
neonates”, Archives of Disease in Childhood - Fetal and Neonatal
Edition 89, pp. F555-F557.
18. Saha S., Saha N., Tay J.S., Jevaseelan K., Basair J.B., Chew S.E.
(1994), “Molecular characterization of redcell Glucose-6-
phosphate dehydrogenase deficiency in Singapore chinese”,
America Journal of Hematology, Vol. 47 (4), pp. 273-277.
19. Tantular I.S., Kawamoto F. (2003), “An improved, simple
screening method for detection of glucose-6-phosphate
dehydrogenase deficiency”, Tropical Medicine and International
Health, Vol 8(6), pp. 569-574.
20. Verle P., Nha D.H., Tinh T.T., Uyen T.T., Thuong N.D., Kongs
A., Stuyft P, Coosemans M (2000), “Glucose -6-phosphate
dehydrogenase dificiency in northern Vietnam”, Trop Med Int
Health, Vol 5(3), pp. 203-206.
21. WHO Working Group (1989), “Glucose-6-phosphate
dehydrogenase deficiency”, Bull WHO, Vol. 67(6), pp. 601-
611.
Chuyên Đề Nhi Khoa 9
Chuyên Đề Nhi Khoa 10
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- dac_diem_dich_te_hoc_thieu_men_glucose_6_phosphate_dehydroge.pdf