Phân tích hồi qui đa biến cho kết quả khác biệt
hơn khi hình ảnh khuếch tán cũng cho thấy ảnh hưởng
không rõ rệt trong chẩn đoán USVS hay phân biệt u
lành và ung thư buồng trứng. Trong chẩn đoán USVS,
giá trị OR từ 7,8 trong đơn biến xuống thấp còn 1,9
trong đa biến với trị số p = 0,342. Trong chẩn đoán phân
biệt u lành và ung thư buồng trứng, giá trị OR từ 22,2
trong đơn biến xuống thấp còn 5,7 trong đa biến với trị
số p = 0,055. Tín hiệu trên hình T2W cũng không có ý
nghĩa chẩn đoán USVS trong hồi qui đa biến với OR
= 1,7 và p = 0,152. Nói cách khác, hồi qui đa biến cho
thấy chỉ có chuỗi xung ADC có giá trị thật sự trong chẩn
đoán USVS, T2W và ADC có ý nghĩa trong chẩn đoán
phân biệt u lành và ung thư buồng trứng.
Những chuỗi xung được lựa chọn trong quy trình
chụp cộng hưởng từ để chẩn đoán USVS đã được
chứng minh là có giá trị trong những phân tích ở trên.
Áp dụng kết quả phân tíchtrên vào trong chẩn đoán
USVS so với kết quả giải phẫu bệnh lý, kết quả cho
thấy sự tương hợp trong chẩn đoán giữa cộng hưởng
từ và giải phẫu bệnh được xem là tốt với hệ số Kappa
= 0,65. Như vậy, cộng hưởng từ với qui trình chụp như
trên cho thấy có giá trị trong chẩn đoán phân biệt u lành
với ung thư buồng trứng, cũng như có giá trị để chẩn
đoán USVS.
10 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Lượt xem: 7 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đặc điểm hình ảnh cộng hưởng từ của u sợi và u vỏ-Sợi buồng trứng, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ÑIEÄN QUANG VIEÄT NAM Số 34 - 05/2019 19
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
SCIENTIFIC RESEARCH
SUMMARY
* Khoa Chẩn đoán Hình ảnh
Bệnh viện Đại Học Y Dược
TP.HCM
** Bộ môn Chẩn đoán
Hình ảnh BV Đại Học Y Dược
TP.HCM
*** Hội Chẩn đoán hình ảnh
TP.HCM
**** Bộ môn Chẩn đoán
Hình ảnh BV Đại Học Y Dược
TP.HCM
ĐẶC ĐIỂM HÌNH ẢNH CỘNG HƯỞNG TỪ
CỦA U SỢI VÀ U VỎ-SỢI BUỒNG TRỨNG
Value of magnetic resonance imaging in the
diagnosis of ovarian thecomas/fibrothecomas
Đoàn Thái Duy*, Võ Tấn Đức**, Phạm Ngọc Hoa***,
Huỳnh Phượng Hải****
Purpose: Our study aims to study the value of conventional magnetic
resonance imaging (MRI) combined with DWI and Dynamic technique in
the diagnosis of thecomas/fibrothecomas and differential diagnosis benign
with malignant ovarian tumors.
Material and method: In total, 68 thecomas/fibrothecomas,
63 malignant ovarian tumors were included in our study. All patients
underwent conventional MRI, DWI in 79 cases and Dynamic enhancement
(DCE) in 14 cases. The clinical features and characteristics of conventional
MRI, DWI and DCE of these two groups were analyzed. Apparent diffusion
coefficient (ADC) values, Tmax, MRE were measured and compared
between groups. Univariate analysis, multivariate logistic regression
analysis were analyzed. Sensitivity (Se), Specificity (Sp), Positive
Predictive Value (PPV), Negative Predictive Value (NPV) were included.
Results: All the fibromas/fibrothecomas showed hypo-isointensity
on T1 weighted imaging (T1WI) and 77.9 % lesions showed hypo- to
isointensity on T2 weighted imaging (T2WI). After administration of
contrast medium, 82,3% tumors appeared as minor to mild enhancement,
71,4% benign tumor had type 1 curve, Tmax cutoff were 230s with Se
and Sp 71,4%. MRE were not already measured because of few cases. On
DWI, 68,4% fibromas/fibrothecomas manifested no signal intensity or low
signal intensity. The ADC cutoff were 1.07 x 10-3 mm2/s to differentiate
benign from malignant ovarian tumors. Multivariate logistic regression
analysis showed that only T2WI and ADC were the important indicators in
discriminating fibromas/fibrothecomas or benign tumors from malignant
ovarian tumors.
Conclusion: The combination of DWI, DCE with conventional
MRI is of great value in the diagnosis of fibromas/fibrothecomas and
differentiation benign ovarian tumors from malignant ovarian tumors
Keywords: Fibromas/fibrothecomas, Conventional magnetic
resonance imaging, Diffusion-weighted imaging, Apparent diffusion
coefficient value, Dynamic contrast enhancement.
ÑIEÄN QUANG VIEÄT NAM Số 34 - 05/201920
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
U sợi,u vỏ bào và u vỏ sợi (USVS) là các u đặc
lành tính không thường gặp, thường được xếp nhầm vào
nhóm u ác tính của buồng trứng do bản chất mô đặc[9].
U có thể gặp mọi lứa tuổi và thường không có triệu chứng
lâm sàng.Về mặt mô học, u buồng trứng thuộc nhóm u vỏ
và u sợi được phân chia thành u vỏ, u sợi, u vỏ-sợi, u sợi
giàu tế bào có độ ác tính thấp, ung thư tế bào sợi, u mô
đệm xơ cứng và u mô đệm vòng nhẫn [10]. U sợi ác tính
hiếm gặp, cho thấy có hoạt động estrogen, có sự tăng
hoạt động phân bào 10-15 trong một quang trường cao
và hiện diện các tế bào lutein hóa khu trú. Hình ảnh học
có vai trò quan trọng trong nhận diện u sợi, u vỏ-sợi và
chẩn đoán phân biệt với u đặc ác tính của buồng trứng,
đặc biệt khi những tổn thương này đi kèm với tràn dịch
bụng và tràn dịch màng phổi. Cho đến nay, các nhà chẩn
đoán hình ảnh vẫn còn khó khăn để chẩn đoán chính xác
USVS, đặc biệt khi cần phân biệt với u xơ tử cung và một
số u đặc ác tính buồng trứng có tính chất hình ảnh tương
tự [11].Do đó, chúng tôi thực hiện nghiên cứu này, nhằm
khảo sát và tìm ra những đặc điểm hình ảnh có giá trị cho
chẩn đoán USVS trên cộng hưởng từ, áp dụng kết quả
vào trong chẩn đoán lâm sàng.
II. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Đối tượng: Tất cả bệnh nhân trong mẫu nghiên
cứu được chẩn đoán u đặc buồng trứng từ tháng 01
năm 2016 đến hết tháng 5 nằm 2018 tại phòng cộng
hưởng từ bệnh viện Từ Dũ.
Phương pháp nghiên cứu: Tất cả bệnh nhân
đều dược chụp bằng máy cộng hưởng từ 1.5T tại bệnh
viện Từ Dũ, sử dụng cuộn thu tín hiệu hai tầng bụng
và chậu. Qui trình chụp gồm chuỗi xung T2 haste qua
hai tầng bụng và chậu (TR/TE = 1100/95) bề dày lát
cắt 5mm, T2WI mặt cắt đứng dọc (TR/TE = 1690/101)
bề dày 5mm, mặt cắt chếch trán T2WI xóa mỡ (TR/TE
= 4000/100) bề dày 4mm, T2WI mặt cắt chếch ngang
trục và vuông góc với buồng nội mạc tử cung (TR/TE
= 4310/91) bề dày 4mm, T1WI mặt cắt chếch ngang
trục và vuông góc với buồng nội mạc tử cung (TR/TE
= 581/10) bề dày 4mm, DWI mặt cắt chếch ngang trục
và vuông góc với buồng nội mạc tử cung (TR/TE =
4000/91) bề dày 5mm với giá trị b = 0 và 1000s/mm2,
động học bắt thuốc mặt cắt đứng dọc hình ảnh T1 vibe
(TR/TE = 5/2,4). Các hình ảnh trên được khảo sát với
FOV 22cm, matrix 384 và khoảng trống 10% giữa hai
lát cắt, ngoại trừ hình ảnh T2 haste qua hai tầng bụng
và chậu có FOV = 40 cm.
Phân tích hình ảnh: Dữ liệu hình ảnh được
phân tích tại máy trạm của hệ thống chụp cộng hưởng
từ Siemens và phần mềm Radiant Viewer 4.2.1, bởi
hai bác sĩ chẩn đoán hình ảnh có 10 – 13 năm kinh
nghiệm đọc phim cộng hưởng phụ khoa độc lập với
nhau. Cả hai nhóm USVS và u khác của buồng trứng
đều được phân tích các đặc điểm về hình thái (tròn/
bầu dục, đa thùy), đường bờ (đều/không đều), kích
thước (đo ba chiều, ghi nhận chiều lớn nhất), vỏ bao
(có/không có), nang (có/không có), tín hiệu trên hình
ảnh T1W và T2W (thấp, đồng tín hiệu, cao, hỗn hợp
thấp và cao so với cơ tử cung) bắt thuốc (đồng nhất/
không đồng nhất, tăng quang loại 1/2/3), mức độ bắt
thuốc(kém/bằng/mạnh hơn so với cơ tử cung, thời gian
đạt đỉnh bắt thuốc Tmax, phần trăm tăng quang tối đa
MRE), tín hiệu trên hình ảnh khuếch tán (không giới
hạn khuếch tán [GHKT], GHKT thấp/trung bình/cao so
với nội mạc tử cung), đo giá trị ADC tại vị trí tín hiệu tối
nhất tương ứng với vùng tín hiệu sáng nhất trên hình
ảnh khuếch tán, dịch bụng (có/không, lượng ít-chỉ trong
vùng chậu/lượng nhiều-vùng chậu và bụng), dịch màng
phổi (có/không, lượng ít/nhiều), tình trạng xâm lấn và di
căn hạch chậu (có/không), buồng trứng cùng bên (mô
buồng trứng có nang ở người chưa mãn kinh và dạng
tròn/bầu dục ở người mãn kinh liên tục với vòi trứng/bó
mạch buồng trứng). So sánh tín hiệu giữa USVS kích
thước nhỏ hơn và lớn hơn 6cm, so sánh USVS với u
Brenner. Đánh giá buồng trứng cùng bên còn lại.
Phân tích thống kê: Sử dụng phần mềm SPSS
20, Stata 14, phân tích có giá trị p < 0,05 được xem là có
ý nghĩa thống kê. Biến định tính trình bày dưới dạng tần
suất và tỉ lệ phần trăm, phép kiểm c2 và Fisher, phép kiểm
One-Sample. Biến định lượng trình bày dưới dạng trung
bình và độ lệch chuẩn nếu có phân phối bình thường,
trình bày dưới dạng trung vị và khoảng tứ phân vị nếu
có phân phối lệch, phép kiểm T-test đối với phân phối
chuẩn và Mann Whitney đối với phân phối lệch. Sử dụng
đường cong ROC để tính toán giá trị chẩn đoán của các
ÑIEÄN QUANG VIEÄT NAM Số 34 - 05/2019 21
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
biến số ADC, Tmax và MRE trong phân biệt u lành và ung
thư buồng trứng, tìm vào chỉ số Youden lớn nhất để xác
định điểm cắtcho chẩn đoán phân biệt. Kết quả trình bày
dưới dạng các bảng và biểu đồ. Hồi qui đa biến được sử
dụng để tìm tương quan của các biến số trong chẩn đoán
USVS và chẩn đoán phân biệt u lành với ung thư buồng
trứng. Tính chỉ số Kappa để so sánh sự tương hợp chẩn
đoán của cộng hưởng từ và chẩn đoán giải phẫu bệnh.
III. KẾT QUẢ
Mô tả chung về nhóm bệnh
Nghiên cứu của chúng tôi có 68 ca USVS, 9 ca u
lành khác của buồng trứng, 8 ca ung thư biểu mô tuyến
độ ác I, 3 ca ung thư biểu mô tuyến độ ác II, 7 ca ung
thư biểu mô tuyến độ ác III, 41 ca ung thư không phân
độ ác của buồng trứng, 1 ca di căn buồng trứng từ ung
thư vú. Tuổi trung bình của bệnh nhân USVS là 48 ± 15,
thấp nhất 19 tuổi và cao nhất là 79 tuổi.
Đặc điểm hình ảnh
USVS ở bên phải chiếm 54,4% trường hợp
(37/68) so với bên trái. Kích thước trung bình là 7,3cm,
với khoảng tứ phân vị dưới và trên là 5,3cm và 9,9cm.
Có 85,3% trường hợp (58/68) không có nang và chỉ có
14,7% trường hợp (10/68) có nang trong u. Vỏ bao gặp
trong tất cả các trường hợp. Nhận diện được buồng
trứng cùng bên trong 97,1% trường hợp (66/68), trong
đó mô buồng trứng còn lại có dạng viền trong 80,9%
trường hợp (55/68) và dạng bầu dục 16,2% trường
hợp(16/68).
So với tín hiệu của cơ tử cung, 97,1% trường hợp
(66/68) USVS có tín hiệu thấp hơn hoặc đồng tín hiệu
trên hình T1W, độ nhạy 97,1% và độ đặc hiệu 33,8%,
độ đặc hiệu thấp nên không có ý nghĩa chẩn đoán.
USVS có 77,9% trường hợp (53/68) tín hiệu thấp hơn
hoặc đồng tín hiệu trên hình T2W với độ nhạy và độ đặc
hiệu là 77,9% và 69,6%, 82,3% trường hợp (56/68) bắt
thuốc kém hơn cơ tử cung trên hình chụp thường qui
với độ nhạy và độ đặc hiệu là 82,3% và 42,9%. Trong
nhóm USVS có chụp động học bắt thuốc, 71,4% trường
hợp (5/7) tăng quang loại 1, 28,6% trường hợp (2/7)
tăng quang loại 3 và không có trường hợp nào tăng
quang loại 2, thời gian đạt đỉnh bắt thuốc trung bình
Tmax 230 ± 57,5 giây và cường độ tăng quang tối đa ở
điểm trung vị là 68% (khoảng tứ phân vị 1 và 3 là 29%
và 267%).
Hình ảnh khuếch tán (DWI): u nhóm USVS có
36,8% trường hợp (14/38) không GHKT, 31,6% trường
hợp (12/38) GHKT thấp, 26,3% trường hợp (10/38)
GHKT trung bình và 5,3% trường hợp (2/38) GHKT
cao. Ngược lại, trong nhóm u ác tính, không có trường
hợp không GHKT, chỉ có 9,7% trường hợp (3/31) GHKT
thấp, 35,5% trường hợp (11/31) GHKT trung bình và
54,8% trường hợp (17/31) GHKT cao. Sự khác biệt này
có ý nghĩa thống kê (p < 0,001).
Hình 1. Một ca u sợi lành tính. A. Axial T2W, B,C. DW và ADC, D. Sagittal T2W, E. Sagittal T1W xóa mỡ
sau tiêm thuốc tương phản, F. Đường cong động học bắt thuốc. US. U sợi. TC. Tử cung
ÑIEÄN QUANG VIEÄT NAM Số 34 - 05/201922
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
Biểu đồ 1. Giá trị ADC của u lành
và ung thư buồng trứng
Giá trị ADC: Ở nhóm u lành, giá trị trung vị là
1,243 x 10-3mm2/s, khoảng tứ phân vị dưới là 1,07 x
10-3mm2/s, khoảng tứ phân vị trên là 1,603 x 10-3mm2/s.
Ở nhóm ung thư, giá trị trung vị là 0,753 x 10-3mm2/s,
khoảng tứ phân vị dưới là 0,648x 10-3mm2/s, khoảng tứ
phân vị trên là 0,948 x 10-3mm2/s. Giá trị trung bình ADC
giữa hai nhóm u lành và ung thư buồng trứng có sự
khác nhau rõ rệt, sự chồng lấp là không đáng kể, khác
biệt này có ý nghĩa thống kê ( p < 0,001).
Khi hiển thị giá trị ADC bằng đường cong ROC,
diện tích dưới đường cong là 86,8%, cho thấy có giá
trị trong chẩn đoán phân biệt u lành và các ung thư của
buồng trứng. Dựa trên đường cong ROC và tính toán chỉ
số Youden lớn nhất, điểm cắt chọn được ở giá trị ADC
= 1,07 x 10-3mm2/s với độ nhạy 76% và đặc hiệu 87,1%
cho chẩn đoán phân biệt u lành và ung thư buồng trứng.
USVS thuộc nhóm u lành tính của buồng trứng,
do đó khi chẩn đoán phân biệt USVS với ung thư của
buồng trứng chúng tôi sử dụng điểm cắt như trên.
Biểu đồ 2. Giá trị ADC và điểm cắt chẩn đoán
phân biệt u lành và ung thư
Những đặc điểm khác của USVS
Dịch bụng tự do: phần lớn bệnh nhân USVS có
dịch bụng tự do, 85,3% (58/68) có dịch bụng tự do và
chỉ có 14,7% (10/68) không có dịch bụng tự do, 96,5%
(56/58) có dịch bụng tự do lượng ít và chỉ có 3,5%
(2/58) có dịch bụng tự do lượng nhiều. Các tổn thương
ung thư của buồng trứng cũng cho tỉ lệ dịch bụng tự
do tương tự với 85% (51/60) có dịch bụng tự do và
15% (9/60) không có dịch bụng tự do. Khác biệt này
không có ý nghĩa thống kê giữa nhóm USVS với ung
thư buồng trứng.
Tràn dịch màng phổi: Trong nhóm USVS chỉ có
5,9% (4/68) có dịch màng phổi, tương tự trong nhóm
ung thư buồng trứng cũng chỉ có 10% (6/54) có dịch
màng phổi, khác biệt này không có ý nghĩa thống kê
giữa nhóm USVS với nhóm ung thư buồng trứng.
Đường bờ: nhóm USVS có94,1% (64/68) đường
bờ đều và chỉ có 5,9% (4/68) các trường hợp có đường
bờ không đều. Ung thư có 45% (27/60) đường bờ đều và
55% (33/60) đường bờ không đều, sự khác biệt không có
ý nghĩa thống kê (p > 0,05). Do đó, đường bờ đều không
có ý nghĩa trong xác định u lành tính hay loại trừ ung thư.
Xâm lấn xung quanh: Không có trường hợp USVS
xâm lấn xung quanh. Trong khi đó, trong nhóm ung thư
có 45% (27/60) có xâm lấn xung quanh và 55% (33/60)
không có xâm lấn, sự khác biệt này không có ý nghĩa
thống kê (p > 0,05).
Di căn phúc mạc: Không có di căn phúc mạc ở
nhóm USVS. Nhóm ung thư có 8,3% (5/60)trường hợp
di căn phúc mạc, trong khi có đến 91,7% (55/60) trường
hợp không có di căn phúc mạc. Sự khác biệt này không
có ý nghĩa thống kê (p > 0,05).
Hạch lớn vùng chậu: Không có hạch phì đại trong
vùng chậu ở nhóm USVS. Nhóm ung thư có 15% (9/60)
trường hợp có hạch phì đại, phần lớn trường hợp ung
thư không có hạch phì đại và chiếm 85% (51/60). Sự
khác biệt này có ý nghĩa thống kê với p < 0,05.
Khác biệt giữa u sợi và u vỏ bào, u sợi vỏ bào:
USVSchủ yếu có tín hiệu thấp và đồng tín hiệu trên
T2W so với cơ tử cung. Khác biệt tỉ lệ giữa hai nhóm u
ÑIEÄN QUANG VIEÄT NAM Số 34 - 05/2019 23
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
sợi với u vỏ bào và vỏ-sợi không có ý nghĩa thống kê (p
> 0,05). Hình ảnh tín hiệu cao trên T2W so với cơ thắt
lưng gặp ở nhóm u vỏ bào, u vỏ-sợi nhiều hơn nhóm
u sợi, tuy nhiên khác biệt không có ý nghĩa thống kê (p
> 0,05). U sợi thường không GHKT và GHKT mức độ
thấp, chiếm tỉ lệ 73,1% (19/26). Số GHKT mức độ cao
chỉ chiếm tỉ lệ chỉ có 7,7% (2/26). Nhóm u vỏ bào và u
vỏ-sợi thường gặp hình ảnh GHKT ở mức thấp và trung
bình hơn nhóm u sợi. Sự khác biệt về GHKT giữa hai
nhóm không có ý nghĩa thống kê (p > 0,05). U sợi và u
vỏ bào, u vỏ-sợi đều cho thấy tỉ lệ cao, 81,1% (43/53)
và 86,7% (13/15), hình ảnh bắt thuốc kém so với cơ tử
cung. Sự khác biệt về cách bắt thuốc giữa hai nhóm
cũng không có ý nghĩa thống kê (p > 0,05).
Khác biệt USVS và u Brenner:
Hình 2. U Brenner lành tính. A. Axial T2W, B,C. DW và ADC, D. Sagittal T2W, E. Sagittal T1W xóa mỡ sau
tiêm thuốc tương phản, F. Axial T1W xóa mỡ sau tiêm thuốc tương phản. U. U Brenner. TC. Tử cung
USVS và u Brenner có 77,9% (53/68) USVS và
85,7% (6/7) u Brenner tín hiệu thấp-đồng tín hiệu trên
T2W. Sự khác biệt tỉ lệ giữa hai nhóm u không có ý
nghĩa thống kê (p > 0,05).
Ở biến số bắt thuốc tương phản, USVS và
u Brenner đều có tỉ lệ cao bắt thuốc kém hơn cơ tử
cung, chiếm 82,3% (56/68) các USVS và 100% (7/7) u
Brenner. Sự khác biệt này không có ý nghĩa thống kê
(p > 0,05).
Phần lớn USVS và u Brenner không giới hạn
khuếch tán, chiếm 36,8% (14/68) USVS và 83,3% (5/7)
u Brenner. Khác biệt không có ý nghĩa thống kê (p >
0,05), có thể do cỡ mẫu của u Brenner quá nhỏ, cần có
nghiên cứu khác với cỡ mẫu lớn hơn để xác định.
Giá trị của hình ảnh T2W và kết hợp hình ảnh
T2W với các hình ảnh khác trong chẩn đoán USVS
Sử dụng tiêu chuẩn chẩn đoán gồm tín hiệu thấp
hoặc đồng tín hiệu với cơ tử cung trên hình ảnh T2W,
không GHKT hoặc GHKT thấp hơn nội mạc tử cung,
giá trị ADC ≥ 1,07 x 10-3 mm2/s, bắt thuốc kém hơn cơ
tử cung để tính độ nhạy, độ đặc hiệu, giá trị tiên đoán
dương và giá trị tiên đoán âm, độ chính xác của cộng
hưởng từ trong cs USVS. Tín hiệu trên hình ảnh T2W so
với cơ thắt lưng có độ nhạy rất thấp nên không sử dụng
trong kết hợp. Tương tự, tín hiệu trên hình ảnh T1W
không sử dụng để tính giá trị do độ đặc hiệu rất thấp.
Sau khi kết hợp hình ảnh T2W và các chuỗi xung
khác trong chẩn đoán USVS,các chuỗi xung T2W, DW,
ÑIEÄN QUANG VIEÄT NAM Số 34 - 05/201924
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
ADC đều cho thấy có giá trị trong chẩn đoán USVS. Khi
kết hợp hình ảnh T2W với DW, độ đặc hiệu tăng lên
rõ rệt đến 83,8%, tuy nhiên độ nhạy giảm xuống còn
55,3%. Tương tự, khi kết hợp hình ảnh T2W với ADC,
độ đặc hiệu tăng lên 86,5% nhưng độ nhạy giảm xuống
còn 63,2%, gần bằng với giá trị khi kết hợp hình ảnh
khuếch tán và giá trị ADC. Kết hợp cả T2W với DW và
ADC không làm tăng thêm độ đặc hiệu, chỉ dừng ở mức
89,2% nhưng ngược lại độ nhạy giảm chỉ còn 52,6%.
Biểu đồ 3. Độ nhạy, độ đặc hiệu chẩn đoán USVS
Bắt thuốc tương phản thường qui có thể dùng để
phân biệt USVS bắt thuốc kém với u khác của buồng
trứng bắt thuốc bằng hoặc cao hơn cơ tử cung, tuy
nhiên dấu hiệu này cũng thường gặp trong nhóm ung
thư, do đó không đặc hiệu trong chẩn đoán u lành hay
ung thư của buồng trứng, điều đó phản ánh qua trị số
p > 0,05. Kết hợp hình ảnh T2W với bắt thuốc thường
qui, do đó, sẽ làm giảm độ nhạy và tăng độ đặc hiệu
trong chẩn đoán USVS. Độ nhạy và độ đặc hiệu chẩn
đoán USVS sau kết hợp chuỗi xung T2W và bắt thuốc
là 69,1% và 76,8%.
Tương tự, kết hợp T2W với DW và bắt tương
phản thường qui làm giảm độ nhạy còn 44,7%, độ đặc
hiệu 83,8% trong chẩn đoán USVS. Kết hợp T2W với
ADC và bắt tương phản thường qui cho độ nhạy giảm
còn 55,3%, độ đặc hiệu tăng lên 86,5%. Kết hợp T2W,
DW, ADC và bắt tương phản thường qui làm giảm độ
nhạy còn 44,7%, độ đặc hiệu vẫn chỉ dừng lại ở 89,2%.
Bảng 1. Phân tích đơn biến và hồi quy đa biến
trong chẩn đoán USVS
Đặc điểm
hình ảnh
OR
đơn biến
p
đơn biến
OR
đa
biến
p
đa biến
T2W 6,6 < 0,001 2,7 0,152
DW 7,8 < 0,001 1,9 0,342
ADC 20,5 < 0,001 12,2 < 0,001
Bắt thuốc 1,9 0,19 0,7 0,67
Khi phân tích riêng cho từng biến số, tín hiệu thấp-
trung bình trên T2W, không GHKT hoặc GHKT thấp,
giá trị ADC ≥ 1,07 rất có ý nghĩa trong chẩn đoán USVS
buồng trứng với trị số p < 0,001. Trong phân tích hồi
quy đa biến, chỉ có biến số ADC có giá trị trong chẩn
đoán USVS buồng trứng với OR = 15,5 và p < 0,001.
Biến số bắt thuốc kém hơn cơ tử cung có giá trị chẩn
đoán USVS trong phân tích đơn biến nhưng không có
giá trị trong phân tích đa biến.
Tương hợp giữa kết quả cộng hưởng từ và
giải phẫu bệnh
Kết luận USVS trên cộng hưởng từ được thực
hiện dựa trên hai bước: 1. Xác định u thuộc nhóm lành
tính; 2. Chẩn đoán USVS dựa trên tiêu chuẩn u tín hiệu
thấp hơn cơ tử cung trên T2W, GHKT thấp hoặc không
GHKT, bắt thuốc kém. Khi so sánh với kết quả giải phẫu
bệnh,chúng tôi thu được kết quả:
Bảng 2. Tương hợp giữa kết quả cộng hưởng từ
và giải phẫu bệnh
Giải phẫu bệnh
Tổng
USVS
Không
USVS
Cộng
hưởng từ
USVS 55 11 66
Không USVS 13 58 71
Tổng 68 69 137
Kappa = 0,65
ÑIEÄN QUANG VIEÄT NAM Số 34 - 05/2019 25
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
Sự tương hợp tốt giữa kết luận của cộng hưởng
từ và kết quả giải phẫu bệnh trong chẩn đoán USVS,
với chỉ số Kappa = 0,65.
IV. BÀN LUẬN
Tổng số ca bệnh được đưa vào trong mẫu gồm có
137 ca, trong đó có 77 ca u đặc lành tính và 60 ca ung
thư. Nhóm u đặc lành tính chiếm tỉ lệ 56,5%, cao hơn
nhóm ung thư trong mẫu nghiên cứu, khác với báo cáo
năm 1993 của Tyagi SP [15], có thể do số lượng lớn
bệnh nhân ung thư buồng trứng di chuyển đến bệnh
viện chuyên về ung bướu. Trong số các u đặc lành tính,
nhóm USVS có 68 ca, chiếm tỉ lệ cao đến 88,3%, phù
hợp với nhận định USVS là loại u thường gặp nhất của
nhóm u mô đệm dây giới bào của các tác giả trước
đây như Troiano RN [14] và Shinagare AB [20].Trong
nghiên cứu của chúng tôi, trong 137 ca có 68 ca USVS,
chiếm tỉ lệ 49,6%, cao hơn nhiều so với báo cáo của
Forstner R. và Kinkel K. [19], nguyên nhân có thể do số
lượng lớn bệnh nhân ung thư buồng trứng di chuyển
đến bệnh viện chuyên về ung bướu như đã đề cập.
Tuổi trung bình của bệnh nhân USVS là 48 tuổi
(22-79), không có sự khác biệt với phân bố tuổi của
bệnh nhân trong các nghiên cứu trước của Chung B.M.
và Shinagare AB. và Troiano RN. [4], [11], [14].
Tổn thương USVS trong nghiên cứu của chúng
tôi có khuynh hướng nằm bên phải hơn bên trái, phù
hợp với báo cáo trước đây của tác giả Chung B.M.,
Shinagare A.B., Zhang Z. [4], [11], [18], nhưng khác biệt
rõ so với tác giả Chen J. với tỉ lệ bên trái gặp nhiều ở
bên trái hơn bên phải [3]. Trong nghiên cứu của chúng
tôi, sự khác biệt phân bố giữa bên phải và trái không có
ý nghĩa thống kê.
Kích thước USVS trong nghiên cứu của chúng tôi
là 7,3cm, nhỏ hơn có ý nghĩa thống kê so với ung thư
buồng trứng (9cm), tương tự như trong báo cáo của tác
giả Thomassin-Naggara [13]. Kích thước trung bình trong
nghiên cứu của chúng tôi lớn hơn so với tác giả Shinagare
AB. và Chung B.M., nhưng nhỏ hơn trong nghiên cứu của
các tác giả Chen J. [3] (9,8cm), Troiano RN. [14] (9,4cm),
Zhang Z. [18] (10cm), Kato H. [8] (10,9cm). Nhìn chung
kích thước trong nghiên cứu của chúng tôi nằm trong
khoảng tham chiếu của các nghiên cứu trước và không
khác biệt nhiều so với dân số nghiên cứu chung trên thế
giới. Có sự khác biệt rất lớn về kích thước giữa USVS lớn
nhất và nhỏ nhất với kích thước của u lần lượt là 274mm
và 25mm. Sự khác biệt này khiến cho tiêu chuẩn đánh
giá lành / ác về kích thước của nhóm USVS không còn
nằm trong tiêu chuẩn ước lượng lành /ung thư của y văn
[16]. Chẩn đoán u thuộc nhóm USVS phải dựa vào các
tiêu chuẩn khác ngoài kích thước.
Nang trong USVS trong nghiên cứu của chúng tôi
chiếm tỉ lệ thấp, chỉ có 14,7%, thấp hơn trong nghiên
cứu của các tác giả Chen J.[3] (76%), Shinagare
AB.[11] (29%), Chung B.M.[4] (21,4%), Zhang Z.[18]
(26,9%), Kato H. [8] (70%).
Buồng trứng cùng bên là biến số quan trọng cần
phải nhận ra để xác định khối u thuộc phần phụ hay
thuộc buồng trứng. Tỉ lệ phát hiện buồng trứng cùng
bên trong nghiên cứu của chúng tôi là 97,1%, tương tự
với tỉ lệ trong nghiên cứu của tác giả Shinagare A.B.[11]
(29%) và Chung B.M.[4] (21,4%).
Hình ảnh T1W mặc dù có độ nhạy cao đến 97,1%
nhưng độ đặc hiệu rất thấp, do cũng có thể gặp ở những
u khác, nên không có giá trị chẩn đoán USVS. Hình ảnh
T2W, DW, ADC đã được chứng minh có giá trị trong
chẩn đoán USVS với độ nhạy, độ đặc hiệu và độ chính
xác cao và có giá trị trong chẩn đoán phân biệt USVS
với ung thư buồng trứng [17]. Khác với hình ảnh T1W,
USVS trên hình ảnh T2W có khuynh hướng tín hiệu
không đồng nhất, chiếm đến 86 %. So với cơ tử cung,
nhóm USVS chủ yếu tín hiệu thấp hoặc có thành phần
mô đặc tín hiệu thấp hơn cơ tử cung và chiếm đến 77,9
% các u sợi. Nhóm u kích thước ≥ 6cm sẽ xuất hiện
vùng tín hiệu cao bên trong với tần suất cao. Kết quả
này cũng gặp tương tự trong báo cáo của Troiano R.N.
và Shinagare A.B. [11], [14]. Phần tín hiệu cao trong u
được cho là vùng phù và thoái hóa nang [14].
Chuỗi xung DW được xem là có giá trị trong gợi ý
lành và ung thư của khối u phần phụ, đã được báo cáo
trong nghiên cứu của của Dhanda S. và Chung B.M.
[4],[5]. Trong nghiên cứu của chúng tôi, nhóm USVS
chủ yếu không GHKT hoặc GHKT thấp và chiếm đến
68,4%, có thể gặp GHKT trung bình và rất ít u có GHKT
cao, chỉ có 5,3%. Ngược lại, nhóm ung thư thường gặp
ÑIEÄN QUANG VIEÄT NAM Số 34 - 05/201926
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
GHKT cao, chiếm đến 57,6%, kế tiếp là GHKT trung
bình và hầu như không có trường hợp không GHKT.
Kết quả này cũng phù hợp với những báo cáo nghiên
cứu trước của tác giả Dhanda S. và Chung B.M.
Một số báo cáo trước đây cho thấy trị số ADC
rất có giá trị trong phân biệt u lành tính và ung thư
của buồng trứng, trong khi một số lại không cho thấy
được sự khác biệt có ý nghĩa thống kê giữa trị số ADC
nhóm u lành và trị số ADC nhóm ung thư buồng trứng
[2],[7],[22],[12]. Trong nghiên cứu của chúng tôi, cũng
có sự chồng lấp trị số ADC giữa nhóm u lành và ung
thư của buồng trứng, tuy nhiên sự khác biệt này vẫn có
ý nghĩa thống kê. Trên biểu đồ đường cong ROC, trị số
thu được dưới đường cong là 86,8% cho thấy rất có giá
trị trong chẩn đoán. Điểm cắt tối ưu để phân biệt USVS
hay u lành buồng trứng là 1,07 x 10-3 mm2/s, với độ
nhạy chẩn đoán là 76% và độ đặc hiệu là 87,9%. Điểm
cắt này cũng phù hợp với điểm cắt trong báo cáo của
tác giả Takeuchi M. [12], Yin B. [17].
Đường cong bắt thuốc loại 1 chiếm ưu thể ở nhóm
u lành tính với tỉ lệ 71,4%, loại 2 gặp chủ yếu ở nhóm
ung thư với tỉ lệ 57,1%, phù hợp với kết quả nghiên cứu
của Chung B.M.[4]và ElzayatW.A[6]. Tương tự, đường
cong bắt thuốc loại 1 và 3 gặp ở cả nhóm u lành tính và
ung thư nhưng với tỉ lệ ít hơn (Hình 3).
Trong nghiên cứu của chúng tôi, ngưỡng Tmax
để phân biệt u lành và ung thư của buồng trứng là 230
giây với độ nhạy 71,4% và độ đặc hiệu 71,4%, cao hơn
gần hai lần so với giá trị Tmax = 123 giây trong nghiên
cứu của Elzayat W.A. [6], có thể do trong mẫu nghiên
cứu của chúng tôi USVS chiếm đến 88,3%, (68/77)
so với số ca USVS trong mẫu của Elzayat W.A chỉ có
28,6% (2/7), trong khi bản thân USVS chứa nhiều mô
sợi có tính chất bắt thuốc rất kém và tăng dần [1], và
tính chất này ảnh hưởng đến thời gian Tmax của toàn
mẫu. Giá trị Tmax này có thể chấp nhận được do diện
tích dưới đường cong ROC đạt 65%. MRE trong nghiên
cứu của chúng tôi ở giá trị trung vị là 68%, thấp hơn
đáng kể so với giá trị MRE = 122% trong nghiên cứu
của W.A Elzayat, nguyên nhân có thể do USVS trong
mẫu nghiên cứu chiếm ưu thế dẫn đến kết quả MRE
của nhóm u lành có thể xem là MRE của USVS. Trong
nghiên cứu của chúng tôi, diện tích dưới đường cong
ROC đối với MRE chỉ đạt 35,7% nên chưa thể kết luận
được giá trị của kỹ thuật này.
Hình 3. Động học bắt thuốc ung thư buồng trứng
grade 3
Tóm lại, qua những phân tích ở trên cho thấy các
biến số T2W so với cơ tử cung, hình ảnh khuếch tán và
giá trị ADC là những biến số chính và có ý nghĩa trong
chẩn đoán USVS cũng như phân biệt u lành và ung thư
của buồng trứng.
Ngoài nghiên cứu riêng rẽ giá trị của từng kỹ thuật
hình ảnh, chúng tôi kết hợp các kỹ thuật hình ảnh với
nhau và hình ảnh bắt thuốc thường qui để đánh giá
độ nhạy, độ đặc hiệu và độ chính xác trong chẩn đoán
USVS (Biểu đồ 3), phân tích đơn biến và hồi qui đơn
biến nhằm tìm ra được hình ảnh có giá trị thật sự cho
chẩn đoán USVS.
Trong phân tích đơn biến, kết quả cho thấy tín
hiệu T2W so với cơ tử cung, hình ảnh khuếch tán và giá
trị ADC rất có ý nghĩa trong chẩn đoán USVS hay phân
biệt u lành và ung thư buồng trứng, OR từ 6,6 đến 20,5
trong chẩn đoán USVS và 13,8 đến 42,7 trong chẩn
đoán phân biệt u lành và ung thư buồng trứng, với giá
trị p < 0,001. Hình ảnh bắt thuốc thường qui không có
giá trị trong chẩn đoán phân biệt. Thực tế lâm sàng cho
thấy hình ảnh bắt thuốc thường qui chủ yếu để nhận
diện mô đặc hay thành phần có bắt thuốc trong u.
ÑIEÄN QUANG VIEÄT NAM Số 34 - 05/2019 27
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
Phân tích hồi qui đa biến cho kết quả khác biệt
hơn khi hình ảnh khuếch tán cũng cho thấy ảnh hưởng
không rõ rệt trong chẩn đoán USVS hay phân biệt u
lành và ung thư buồng trứng. Trong chẩn đoán USVS,
giá trị OR từ 7,8 trong đơn biến xuống thấp còn 1,9
trong đa biến với trị số p = 0,342. Trong chẩn đoán phân
biệt u lành và ung thư buồng trứng, giá trị OR từ 22,2
trong đơn biến xuống thấp còn 5,7 trong đa biến với trị
số p = 0,055. Tín hiệu trên hình T2W cũng không có ý
nghĩa chẩn đoán USVS trong hồi qui đa biến với OR
= 1,7 và p = 0,152. Nói cách khác, hồi qui đa biến cho
thấy chỉ có chuỗi xung ADC có giá trị thật sự trong chẩn
đoán USVS, T2W và ADC có ý nghĩa trong chẩn đoán
phân biệt u lành và ung thư buồng trứng.
Những chuỗi xung được lựa chọn trong quy trình
chụp cộng hưởng từ để chẩn đoán USVS đã được
chứng minh là có giá trị trong những phân tích ở trên.
Áp dụng kết quả phân tíchtrên vào trong chẩn đoán
USVS so với kết quả giải phẫu bệnh lý, kết quả cho
thấy sự tương hợp trong chẩn đoán giữa cộng hưởng
từ và giải phẫu bệnh được xem là tốt với hệ số Kappa
= 0,65. Như vậy, cộng hưởng từ với qui trình chụp như
trên cho thấy có giá trị trong chẩn đoán phân biệt u lành
với ung thư buồng trứng, cũng như có giá trị để chẩn
đoán USVS.
V. KẾT LUẬN
Cộng hưởng từ là phương pháp có giá trị trong
chẩn đoán USVS buồng trứng, đặc biệt trong chẩn
đoán phân biệt USVS với các ung thư của buồng trứng.
Chuỗi xung khuếch tán, giá trị ADC và động học bắt
thuốc được chứng minh là có giá trị trong chẩn đoán
USVS và chẩn đoán phân biệt với ung thư của buồng
trứng. Điểm cắt giá trị ADC để xếp USVS vào trong
nhóm u lành là ≥ 1,07 x10-3mm2/s. Động học bắt thuốc
tuy chưa khẳng định được giá trị do mẫu phân tích còn
ít, tuy nhiên cũng đã cho thấy được giá trị nhất định
trong chẩn đoán USVS cũng như dùng để phân loại u
vào trong nhóm u lành hay ung thư, với những yếu tố
cần chú ý là loại đường cong bắt thuốc, giá trị Tmax và
MRE.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Allen B. C., Hosseinzadeh K., Qasem S. A., et al. (2014). “Practical approach to MRI of female pelvic masses”.
AJR Am J Roentgenol, 202 (6), trang. 1366-75.
2. Bakir B., Bakan S., Tunaci M., et al. (2011). “Diffusion-weighted imaging of solid or predominantly solid
gynaecological adnexial masses: is it useful in the differential diagnosis?”. Br J Radiol, 84 (1003), trang. 600-11.
3. Chen J., Wang J., Chen X., et al. (2017). “Computed tomography and magnetic resonance imaging features of
ovarian fibrothecoma”. Oncol Lett, 14 (1), trang. 1172-1178.
4. Chung B. M., Park S. B., Lee J. B., et al. (2015). “Magnetic resonance imaging features of ovarian fibroma,
fibrothecoma, and thecoma”. Abdom Imaging, 40 (5), trang. 1263-72.
5. Dhanda S., Thakur M., Kerkar R., et al. (2014). “Diffusion-weighted imaging of gynecologic tumors: diagnostic
pearls and potential pitfalls”. Radiographics, 34 (5), trang. 1393-416.
6. Elzayat W. A., El-Kalioubie M., Abdel-Naby M. M., et al. (2017). “The role of dynamic contrast enhanced MR
imaging in the assessment of inconclusive ovarian masses”. The Egyptian Journal of Radiology and Nuclear
Medicine, 48 (4), trang. 1159-1169.
7. Fujii S., Kakite S., Nishihara K., et al. (2008). “Diagnostic accuracy of diffusion-weighted imaging in differentiating
benign from malignant ovarian lesions”. J Magn Reson Imaging, 28 (5), trang. 1149-56.
8. Kato H., Kanematsu M., Ono H., et al. (2013). “Ovarian fibromas: MR imaging findings with emphasis on
intratumoral cyst formation”. Eur J Radiol, 82 (9), trang. e417-21.
9. Numanoglu C., Kuru O., Sakinci M., et al. (2013). “Ovarian fibroma/fibrothecoma: retrospective cohort study
shows limited value of risk of malignancy index score”. Aust N Z J Obstet Gynaecol, 53 (3), trang. 287-92.
ÑIEÄN QUANG VIEÄT NAM Số 34 - 05/201928
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
10. Roth L. M. (2006). “Recent advances in the pathology and classification of ovarian sex cord-stromal tumors”.
Int J Gynecol Pathol, 25 (3), trang. 199-215.
11. Shinagare A. B., Meylaerts L. J., Laury A. R., et al. (2012). “MRI features of ovarian fibroma and fibrothecoma
with histopathologic correlation”. AJR Am J Roentgenol, 198 (3), trang. W296-303.
12. Takeuchi M., Matsuzaki K., Nishitani H. (2010). “Diffusion-weighted magnetic resonance imaging of ovarian
tumors: differentiation of benign and malignant solid components of ovarian masses”. J Comput Assist Tomogr,
34 (2), trang. 173-6.
13. Thomassin-Naggara I., Toussaint I., Perrot N., et al. (2011). “Characterization of complex adnexal masses:
value of adding perfusion- and diffusion-weighted MR imaging to conventional MR imaging”. Radiology, 258
(3), trang. 793-803.
14. Troiano R. N., Lazzarini K. M., Scoutt L. M., et al. (1997). “Fibroma and fibrothecoma of the ovary: MR imaging
findings”. Radiology, 204 (3), trang. 795-8.
15. Tyagi S. P., Maheswari V., Tyagi N., et al. (1993). “Solid tumours of the ovary”. J Indian Med Assoc, 91 (9),
trang. 227-30.
16. Valentini A. L., Gui B., Micco M., et al. (2012). “Benign and Suspicious Ovarian Masses-MR Imaging Criteria for
Characterization: Pictorial Review”. J Oncol, 2012, trang. 481806.
17. Yin B., Li W., Cui Y., et al. (2016). “Value of diffusion-weighted imaging combined with conventional magnetic
resonance imaging in the diagnosis of thecomas/fibrothecomas and their differential diagnosis with malignant
pelvic solid tumors”. World J Surg Oncol, 14.
18. Zhang Z., Wu Y., Gao J. (2015). “CT diagnosis in the thecoma-fibroma group of the ovarian stromal tumors”.
Cell Biochem Biophys, 71 (2), trang. 937-43.
19. 2009). “MRI and CT of the Female Pelvis”. Radiology, 251 (3), trang. 650-650.
20. Shinagare A. B., Meylaerts L. J., Laury A. R., et al. (2012). “MRI Features of Ovarian Fibroma and Fibrothecoma
With Histopathologic Correlation”. American Journal of Roentgenology, 198 (3), trang. W296-W303.
TÓM TẮT
U sợi và u vỏ-sợi (USVS) là các u đặc lành tính không thường gặp, thường được xếp nhầm vào nhóm ung thư của buồng
trứng do bản chất mô đặc. Hình ảnh học có vai trò quan trọng trong chẩn đoán USVS và chẩn đoán phân biệt các USVS với
các ung thư của buồng trứng, đặc biệt khi những tổn thương này đi kèm với tràn dịch bụng và tràn dịch màng phổi. Chuỗi xung
khuếch tán, giá trị ADC và động học bắt thuốc được chứng minh là có giá trị trong chẩn đoán phân biệt u lành, đặc biệt là USVS
buồng trứng với ung thư của buồng trứng. Điểm cắt để chẩn đoán phân biệt u lành nói chung, hay USVS nói riêng với ung thư
buồng trứng trên hình ảnh ADC là 1,07 x10-3mm2/s. Giá trị ngưỡng Tmax trong động học bắt thuốc là 230 giây để chẩn đoán
USVS buồng trứng. MRE trong động học bắt thuốc chưa tính toán được do mẫu nghiên cứu ít. Đa phần u đặc lành tính bắt thuốc
loại 1 và ung thư bắt thuốc loại 3.
Ngày nhân bài 20. 2.2019. ngày chấp nhận đăng: 20.4.2019
Người liên hệ: Võ Tấn Đức, Bộ môn CĐHA, trường đại học Y Dược TP Hồ Chí Minh. Email: duc.vt@umc.edu.vn
Các file đính kèm theo tài liệu này:
dac_diem_hinh_anh_cong_huong_tu_cua_u_soi_va_u_vo_soi_buong.pdf