KẾT LUẬN
Đặc điểm hình ảnh cộng hưởng từ của u tế
bào Schwann
Đa số u nằm ở mặt bên (37%), ở cột sống
ngực gặp nhiều nhất (47,8%), 100% u ở cột sống
thắt lưng là u tế bào Schwann.
Giới hạn rõ, bờ đều, tiếp xúc màng cứng
rộng.
Đồng tín hiệu trên T1W (67,4%), tăng tín
hiệu rõ trên T2W (73,9%), bắt thuốc cản từ mạnh
sau tiêm (95,7%) và không đồng nhất (60,9%),
bắt quang viền (19,6%).
100% không có dấu đuôi màng cứng.
Đặc điểm hình ảnh cộng hưởng từ của u
màng não tủy
Đa số u nằm ở mặt sau hay sau – bên
(39,3%), ở cột sống ngực gặp nhiều nhất (82,1%),
nhất là ở ngực giữa.
Giới hạn rõ, bờ đều, tiếp xúc màng cứng
rộng.
Đồng tín hiệu trên T1W (96,4%) và T2W
(64,3%), bắt thuốc cản từ mạnh sau tiêm (75%)
và đồng nhất (92,9%).
75% có dấu đuôi màng cứng.
Chúng tôi thống kê sáu đặc điểm cộng
hưởng từ có ý nghĩa: vị trí trên mặt cắt dọc, tăng
tín hiệu và tính không đồng nhất trên T2W,
cường độ bắt thuốc và tính không đồng nhất sau
tiêm và dấu đuôi màng cứng. Nếu u trong màng
cứng ngoài tủy có tăng tín hiệu trên T2W, bắt
thuốc cản từ mạnh, không đồng nhất và không
có dấu hiệu đuôi màng cứng thì có thể nghĩ
nhiều đến u tế bào Schwann.
8 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 28/01/2022 | Lượt xem: 219 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đặc điểm hình ảnh cộng hưởng từ u tế bào Schwann và u màng não trong màng cứng ngoài tủy, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Chuyên Đề Ngoại Khoa 1
ĐẶC ĐIỂM HÌNH ẢNH CỘNG HƯỞNG TỪ U TẾ BÀO SCHWANN
VÀ U MÀNG NÃO TRONG MÀNG CỨNG NGOÀI TỦY
Phạm Ngọc Hoa*, Mai Thanh Thảo*
TÓM TẮT
Mục tiêu: Khảo sát các đặc điểm hình ảnh cộng hưởng từ của u tế bào Schwann và u màng não tủy trong
màng cứng ngoài tủy.
Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu hồi cứu mô tả cắt ngang 74 trường hợp u tế bào Schwann và u
màng não tủy trong màng cứng ngoài tủy đã phẫu thuật tại bệnh viện Chợ Rẫy từ tháng 01 năm 2004 đến hết
tháng 6 năm 2007.
Kết quả: Có 46 trường hợp u tế bào Schwann và 28 trường hợp u màng não tủy. Về vị trí u trên mặt cắt
dọc, hơn phân nửa tổn thương ở cột sống ngực là u màng não tủy và tất cả tổn thương ở cột sống thắt lưng là u
tế bào Schwann. Có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về vị trí trên mặt cắt dọc ở vùng ngực giữa với u màng não
tủy và ở vùng thắt lưng với u tế bào Schwann. Trên hình T1W, không có sự khác biệt về tính đồng nhất giữa u tế
bào Schwann và u màng não tủy. Trên hình T2W, có sự khác biệt có ý nghĩa về tăng tín hiệu và tính không đồng
nhất đối với u tế bào Schwann. Hình sau tiêm thuốc tương phản từ, u tế bào Schwann bắt thuốc mạnh và không
đồng nhất còn u màng não tủy bắt thuốc đồng nhất. Sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê. Dấu hiệu đuôi màng
cứng gặp ở u màng não tủy cũng có ý nghĩa thống kê.
Kết luận: Nếu u trong màng cứng ngoài tủy có tăng tín hiệu trên T2W, bắt thuốc cản từ mạnh, không đồng
nhất và không có dấu hiệu đuôi màng cứng thì có thể nghĩ nhiều đến u tế bào Schwann.
ABSTRACT
MR IMAGING FEATURES OF INTRA-DURAL EXTRAMEDULLARY SCHWANNOMAS AND
MENINGIOMAS
Pham Ngoc Hoa, Mai Thanh Thao
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 13 – Supplement of No 1 - 2009: 259 - 264
Objectives: To study the MR imaging characteristics of intra-dural extramedullary schwannomas and
meningiomas.
Method: We retrospectively reviewed the Magnetic Resonance Imaging (MRI) examinations of 74 spinal
schwannomas and meningiomas operated at Cho Ray hospital from 01/2004 to 6/2007.
Results: The series included 46 schwannomas and 28 meningiomas. Concerning the cranio-caudal
distribution, half of the thoracic lesions were meningiomas and all lumbar tumours were schwannomas.
Meningiomas were significantly located at the mid thoracic level and schwannomas in the lumbar area. On T1-
weigthed images, MRI heterogeneity were not statistically different. On T2-weigthed images, the signal intensity
appeared significantly hyperintense and heterogeneous for schwannomas. After Gd-DTPA, we observed a
significant difference between meningiomas and schwannomas, the enhancement being intense and heterogeneous
in cases of schwannomas, and homogeneous in cases of meningiomas. The last significant qualitative item was the
“dural tail sign” for meningiomas. A simple diagnostic test was built for schwannomas with the 6 significant
items: cranio-caudal location, T2 signal intensity, T2 signal heterogeneity, Gd-DTPA enhancement intensity and
heterogeneity, and the “dural tail sign”.
* Bộ môn Chẩn đoán Hình ảnh - Đại học Y Dược TP.HCM
Chuyên Đề Ngoại Khoa 2
Conclusion: We consider that a diagnosis of schwannoma should be made when a spinal intradural
extramedullary tumour shows hyperintensity on T2W images or intense enhancement without dural tail sign;
otherwise meningioma is more probable.
Key words: spinal schwannomas, spinal meningiomas, magnetic resonance imaging.
ĐẶT VẤN ĐỀ
Theo các nghiên cứu về dịch tễ học cho biết
gần 20% các u của hệ thần kinh trung ương là
nằm trong ống sống với tỷ lệ phân bố như sau:
25% ngoài màng cứng, 50% trong màng cứng
ngoài tủy và 25% nội tủy. Trong số các u nằm
trong màng cứng ngoài tủy thì u tế bào Schwann
và u màng não tủy chiếm khoảng 90% và có số
lượng ngang nhau(2,9). Đây là hai loại u hầu như
lành tính, phát triển rất chậm và tái phát rất thấp
nếu phẫu thuật lấy hết u.
Hiện nay, cộng hưởng từ là kỹ thuật hình
ảnh được chọn lựa đầu tiên để chẩn đoán các u
ống sống(2).
Đã có vài tác giả so sánh đặc điểm cộng
hưởng từ giữa u tế bào Schwann và u màng
não tủy nhưng với cỡ mẫu nhỏ hoặc không có
tiêm thuốc tương phản từ thường quy. Vì
những lý do trên nên trong nghiên cứu này,
chúng tôi tập trung chủ yếu vào việc phân tích
những đặc điểm hình ảnh của u tế bào
Schwann và u màng não trong màng cứng
ngoài tủy trên cộng hưởng từ.
ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Đối tượng
74 bệnh nhân được chẩn đoán u trong màng
cứng ngoài tủy có kết quả giải phẫu bệnh là u tế
bào Schwann hay u màng não tủy nhập bệnh
viện Chợ Rẫy trong giai đoạn từ tháng 01 năm
2004 đến hết tháng 6 năm 2007.
Phương pháp nghiên cứu
Lập danh sách các bệnh nhân với chẩn đoán
u tủy được phẫu thuật.
Truy xuất bệnh án từ kho lưu trữ bệnh án
của bệnh viện.
Chọn những bệnh nhân có kết quả giải phẫu
bệnh là u tế bào Schwann hay u màng não tủy.
Truy xuất các phim cộng hưởng từ.
Chọn ra những bệnh nhân u trong màng
cứng ngoài tủy.
Hoàn tất phiếu thu thập số liệu đã soạn sẵn.
Xử lý số liệu bằng phần mềm thống kê
SPSS 15.0.
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
Giới
Tỷ số nam:nữ của u tế bào Schwann là 1:1,4
và của u màng não tủy là 1:8,3.
Tuổi
U tế bào Schwann: tuổi thường gặp 21 – 60
(80%), trung bình: 39,1 ± 15,7 (9 – 74 tuổi)
U màng não tủy: tuổi thường gặp 41 – 60
(46%), trung bình: 45,7 ± 17,6 (7 – 72 tuổi)
Vị trí trên mặt cắt ngang
23,9% u tế bào Schwann nằm ở mặt trước
hay trước bên; 32,6% ở mặt sau hay sau bên, 37%
ở mặt bên và 6,5% không xác định được vị trí.
35,7% u màng não tủy nằm ở mặt trước hay
trước bên; 39,3% ở mặt sau hay sau bên và 25% ở
mặt bên. Không có sự khác biệt có ý nghĩa thống
kê về vị trí trên mặt cắt ngang giữa hai nhóm u
(p > 0,05).
Vị trí trên mặt cắt dọc
66,7% u ở vùng cổ là u tế bào Schwann. 100%
u ở vùng thắt lưng là u tế bào Schwann. 82,1%
trường hợp u màng não tủy ở cột sống ngực. Có
sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về vị trí trên
mặt cắt dọc ở vùng ngực giữa với u màng não
tủy (p = 0,02) và vị trí trên mặt cắt dọc ở vùng
thắt lưng với u tế bào Schwann (p = 0,004).
Giới hạn u
100% trường hợp hai loại u trong nghiên cứu
đều có giới hạn rõ.
Chuyên Đề Ngoại Khoa 3
Đường bờ
73,9% u tế bào Schwann có đường bờ đều,
còn với u màng não tủy là 89,3%. Không có sự
khác biệt có ý nghĩa thống kê về đặc điểm
đường bờ giữa u tế bào Schwann và u màng
não tủy (p = 0,9).
Dấu hiệu tiếp xúc màng cứng
95,7% u tế bào Schwann và 100% u màng
não tủy tiếp xúc màng cứng rộng.
Lan ra lỗ liên hợp
21,7% (10/46) trường hợp u tế bào Schwann
lan rộng ra lỗ liên hợp, hầu hết đều có đi kèm
bào mòn thân sống. Không có trường hợp u
màng não tủy nào lan ra lỗ liên hợp và gây bất
thường tín hiệu xương.
Tín hiệu trên T1W
67,4% u tế bào Schwann & 96,4% với u màng
não tủy đồng tín hiệu với tủy sống trên T1W.
Không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về
tính đồng nhất giữa u tế bào Schwann và u
màng não tủy trên T1W.
Tín hiệu trên T2W:
U tế bào Schwann: tăng tín hiệu rõ (73,9%)
và không đồng nhất (60,9%).
U màng não tủy: đồng tín hiệu với nhu mô
tủy (64,3%) và đồng nhất (85,7%).
Có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về tăng
tín hiệu trên T2W và tính không đồng nhất giữa
u tế bào Schwann và u màng não tủy (p = 0,01).
Tín hiệu trên T1W sau tiêm thuốc
95,7% u tế bào Schwann & 75% u màng não
tủy bắt thuốc mạnh. 60,9% u tế bào Schwann bắt
thuốc không đồng nhất (dạng viền) & 92,9% u
màng não tủy bắt thuốc đồng nhất. Tăng quang
mạnh, không đồng nhất trên T1W sau tiêm
thuốc kết hợp với u tế bào Schwann có ý nghĩa
thống kê (p<0,05).
Dấu đuôi màng cứng
75% u màng não tủy có dấu đuôi màng cứng
sau tiêm thuốc. 100% các u tế bào Schwann
không có dấu đuôi màng cứng. Sự khác biệt này
có ý nghĩa thống kê trong chẩn đoán u màng não
tủy (p < 0,05).
Bắt quang viền
19,6% u tế bào Schwann và không có trường
hợp u màng não tủy nào bắt quang viền. Sự
khác biệt này không có ý nghĩa thống kê.
BÀN LUẬN
Các đặc điểm về giới và tuổi trong nghiên
cứu chúng tôi cũng tương tự với ghi nhận trong
y văn.
Vị trí của u tế bào Schwann trên mặt cắt dọc
phù hợp với ghi nhận trong y văn và những báo
cáo trước đây như nghiên cứu Levy, u bao dây
thần kinh gặp nhiều nhất ở cột sống ngực (40%),
ở cột sống cổ và cột sống thắt lưng thì tỷ lệ bằng
nhau (30%)(4). Trong nghiên cứu chúng tôi, u
màng não tủy gặp nhiều nhất ở cột sống ngực
(82,1%). Kết quả phù hợp với tỷ lệ ghi nhận
trong y văn: 64 – 84% ở cột sống ngực, 14 – 27%
ở cột sống cổ và 2 – 14% ở cột sống thắt lưng. Tác
giả Setzer cũng cho kết quả tương tự như vậy
với 60% u màng não tủy ở cột sống ngực, 13,6%
ở cột sống cổ, 3,8% ở cột sống thắt lưng với các u
ở chỗ nối sọ cổ, cổ ngực và ngực thắt lưng(6).
Một vài tác giả như Matsumoto, MC
Cormick đã mô tả đặc điểm phân biệt giữa u tế
bào Schwann và u màng não tủy dựa vào đường
bờ(5,7). U màng não tủy có đường bờ đều và
nhẵn, trong khi u tế bào Schwann có đường bờ
và hình dạng không đều(10). Cũng vậy, bề rộng
tiếp xúc giữa u và màng cứng cũng được
Matsumoto miêu tả như dấu hiệu phân biệt, gợi
ý u màng não tủy khi tiếp xúc rộng với màng
cứng.
Theo y văn, khoảng 50% các u thần kinh và
10% u màng não tủy có ảnh hưởng đến xương,
gồm ăn mòn cuống, cung và thân sống. Rộng lỗ
liên hợp và ống sống cũng có ích giúp xác định
những u thần kinh(2). Setzer tìm thấy u màng não
tủy lan rộng ra ngoài màng cứng trong 6,3%
trường hợp(6), cũng gần với tỷ lệ trong y văn là
5%. Không có trường hợp u màng não tủy nào
lan rộng ra lỗ liên hợp và gây bất thường tín
Chuyên Đề Ngoại Khoa 4
hiệu xương trong nghiên cứu chúng tôi.
Tín hiệu của u tế bào Schwann và u màng
não tủy trên T1W phù hợp với các nghiên cứu
của Boisserie-Lacroix(1), Hu(3), Verdelhan(10) đồng
hay giảm tín hiệu đối với u tế bào Schwann;
đồng hay tăng tín hiệu đối với u màng não tủy
và không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê.
Tín hiệu của u tế bào Schwann và u màng
não tủy trên T2W rất khác biệt nhau. Thật vậy,
hầu hết u tế bào Schwann tăng nhẹ hay tăng
mạnh trên hình T2W và không đồng nhất so
với u màng não tủy. Những ổ khu trú tăng tín
hiệu rất mạnh trên hình T2W thường liên quan
đến những vùng hóa nang, trong khi vùng
giảm tín hiệu biểu hiện của xuất huyết, tế bào
dày đặc hay lắng đọng collagen. Tính không
đồng nhất là do sự hiện diện của nang trong u.
Mặt khác, Hu(10) và cộng sự đề nghị rằng cấu
trúc Antoni B trong u, liên quan với cấu trúc
lỏng lẻo giàu thành phần nước tự do, có thể
tăng tín hiệu trên T2W.
Theo y văn, hình sau tiêm u tế bào Schwann
bắt thuốc rất mạnh, không đồng nhất, thường
bắt thuốc dạng viền. U màng não tủy điển hình
bắt thuốc trung bình, đồng nhất sau khi tiêm
thuốc tương phản từ đường tĩnh mạch. Điều này
được giải thích do khe kết nối giữa các tế bào nội
mô mạch máu trong u tế bào Schwann mở ra,
làm tăng tính thẩm thấu với phân tử Gd-DTPA
hơn các tế bào nội mô mạch máu trong u màng
não tủy, do đó thúc đẩy chuyển động của Gd-
DTPA từ mạch máu ra khoang ngoại bào ở u tế
bào Schwann(10).
Mặc dù màng cứng bắt thuốc hay dày quanh
u không đặc hiệu cho u màng não tủy, dấu đuôi
màng cứng liên quan có ý nghĩa với u màng não
tủy phù hợp ghi nhận trong y văn. Thường thì
dấu đuôi màng cứng khó thấy và chỉ thấy được
ở một hay hai lát cắt. Việc phát hiện dấu hiệu
này đòi hỏi thực hiện chuỗi xung ở mặt cắt thấy
được sự tiếp xúc của u và màng cứng theo chiều
dài lớn nhất.
Dấu hiệu bắt quang viền ít thấy trong nghiên
cứu của Verdelhan(10) và Matsumoto(5). Dấu hiệu
này trước đây rất gợi ý cho u tế bào Schwann
nhưng lại không nhạy trong nghiên cứu của
chúng tôi. Bắt thuốc dạng viền không luôn luôn
tương ứng với vùng hóa nang. Đó có thể tương
ứng với trung tâm nghèo mạch máu và/hay tăng
tính rắn chắc của u. Sze và cộng sự chỉ ra rằng tất
cả u trong tủy sống có khuynh hướng tăng bắt
thuốc ở những hình chụp trễ hơn. Những tổn
thương bắt thuốc cản từ dạng viền có thể sẽ bắt
thuốc cản từ đồng nhất hơn nếu chụp thì trễ
hơn(8). Tuy nhiên, theo đề nghị của nhà lâm sàng
thì hình ảnh bắt thuốc ngay lập tức cũng rất có
ích cho chẩn đoán.
Coronal T2W Coronal T1W sau tiêm Gd Axial T1W sau tiêm Gd
Hình 1: U tế bào Schwann
Chuyên Đề Ngoại Khoa 5
Coronal T2W Coronal T1W sau tiêm Gd Axial T1W sau tiêm Gd
Hình 2: U màng não tủy
KẾT LUẬN
Đặc điểm hình ảnh cộng hưởng từ của u tế
bào Schwann
Đa số u nằm ở mặt bên (37%), ở cột sống
ngực gặp nhiều nhất (47,8%), 100% u ở cột sống
thắt lưng là u tế bào Schwann.
Giới hạn rõ, bờ đều, tiếp xúc màng cứng
rộng.
Đồng tín hiệu trên T1W (67,4%), tăng tín
hiệu rõ trên T2W (73,9%), bắt thuốc cản từ mạnh
sau tiêm (95,7%) và không đồng nhất (60,9%),
bắt quang viền (19,6%).
100% không có dấu đuôi màng cứng.
Đặc điểm hình ảnh cộng hưởng từ của u
màng não tủy
Đa số u nằm ở mặt sau hay sau – bên
(39,3%), ở cột sống ngực gặp nhiều nhất (82,1%),
nhất là ở ngực giữa.
Giới hạn rõ, bờ đều, tiếp xúc màng cứng
rộng.
Đồng tín hiệu trên T1W (96,4%) và T2W
(64,3%), bắt thuốc cản từ mạnh sau tiêm (75%)
và đồng nhất (92,9%).
75% có dấu đuôi màng cứng.
Chúng tôi thống kê sáu đặc điểm cộng
hưởng từ có ý nghĩa: vị trí trên mặt cắt dọc, tăng
tín hiệu và tính không đồng nhất trên T2W,
cường độ bắt thuốc và tính không đồng nhất sau
tiêm và dấu đuôi màng cứng. Nếu u trong màng
cứng ngoài tủy có tăng tín hiệu trên T2W, bắt
thuốc cản từ mạnh, không đồng nhất và không
có dấu hiệu đuôi màng cứng thì có thể nghĩ
nhiều đến u tế bào Schwann.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Boisserie-Lacroix M, Kien P, Caille JM (1987). Imaging of
intradural extramedullary tumors: neurinomas and
meningiomas. J.Neuroradiol, (14): 66 – 81
2. Chad D Abernathey (1994). Spinal Intradural Extramedullary
Tumors. Principles of Neurosurgery, 38.1- 38.8. Mosby-Year
Book Europe.
3. Hu HP, Huang OL (1992). Signal intensity correlation of MRI
with pathological findings in spinal neurinomas. Neuroradiol,
(34): 8 – 102
4. Levy WJ, Latchaw J, Hahn JF (1986). Spinal neurofibromas: a
report of 66 cases and a comparison with meningiomas.
Neurosurgery, (18): 331 – 334
5. Matsumoto S, Hasuo K, Uchino A (1993). MRI of intradural
extramedullary spinal neurinomas and meningiomas. Clin
Imaging, (17): 46 – 52
6. Matthias Setzer, Hartmut Vatter, Gerhard Marquardt, Volker
Seifert, Frank D.Vrionis (2007). Management of spinal
meningiomas: surgical results and a review of the literature.
Neurosurg Focus, (23): 1 – 12
7. MC Cormick PC, Post KD, Stein BM (1990). Intradural
extramedullary tumors in adults. Neurosurg Clin N Am, (1):
591 – 608
Chuyên Đề Ngoại Khoa 6
8. Sze G, Bravo S, Baierl P, Shimkin PM (1991). Developing
spinal column: gadolinium-enhanced MR imaging. Radiol,
(180): 497 – 502
9. Theodore H. Schwartz, Paul C.McCormick (2004). Spinal
Cord Tumors in Adults. Youmans Neurological Surgery, 4,
4817 – 4834. Saunders, United States.
10. Verdelhan, Haegelen C, Carsin-Nicol B, Riffaud L, Amlashi
SFA, Brassier G, Carsin M, Morandi X (2003). MR Imaging
features of spinal schwannomas and meningiomas.
J.Neuroradiol, (32): 42 – 49.
Chuyên Đề Ngoại Khoa 7
Chuyên Đề Ngoại Khoa 8
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- dac_diem_hinh_anh_cong_huong_tu_u_te_bao_schwann_va_u_mang_n.pdf