Theo Foster và cộng sự, nhân đuôi, nhân bèo và
đồi thị hiếm khi tương quan với vỏ não nhưng cũng
giảm chuyển hóa khi so sánh với hình ảnh ở người có
nhận thức bình thường ở cùng độ tuổi [2]. Trong nghiên
cứu của chứng tôi, hấp thu 18F-FDG tại nhân bèo hai
bên ở nhóm bệnh nhân Alzheimer so với người lão hóa
sinh lý bình thường không có sự khác biệt có ý nghĩa
thống kê.
Tóm lại, nghiên cứu của chúng tôi cho thấy các
bệnh nhân có giảm chuyển hóa vỏ não biểu hiện rõ rệt
ở hải mã - thái dương trong hai bên, các hồi khuy sau,
thái dương sau và vùng thái dương đỉnh hai bên, kết quả
này hoàn toàn phù hợp với kết quả các nghiên cứu trong
y văn, theo Minoshima S và cộng sự, giảm chuyển hóa
đầu tiên được thấy ở cuộn não bó khuy sau, tiếp đó, lan
tới và ảnh hưởng đến phần liên kết vỏ não ở thùy đỉnh và
các hồi thái dương sau và cuối cùng, giảm chuyển hóa
lan tới phần vỏ trán và hầu hết não [7].
Về tần suất, 24/26 trường hợp bệnh nhân (92,3%)
có giảm chuyển hóa ở vùng hải mã – thái dương trong bên
phải và 25/26 trường hợp (96,2%) ở bên trái, 24/26 trường
hợp (92,3%) có giảm chuyển hóa ở vùng hồi khuy sau
hai bên, 20/26 trường hợp (76,9%) có giảm chuyển hóa ở
vùng thái dương đỉnh phải và 23/26 trường hợp (88,5%) ở
bên trái (P > 0,05).
Trong nghiên cứu của chúng tôi, có tới 22/26 bệnh
nhân (84,6%) có sơ đồ giảm chuyển hóa đặc trưng của
bệnh Alzheimer biểu hiện ở cả hai bán cầu, và chỉ có 2
trường hợp có vùng giảm chuyển hóa dạng Alzheimer
xuất hiện ở một bên bán cầu (hồi khuy sau bên trái). Có
2/26 trường hợp có sơ đồ chuyển hóa không điển hình
của Alzheimer, chiếm 7,7%, (P = 0,730, Chi-Square Tests).
Về mặt kỹ thuật, tất cả 46 trường hợp chụp
18F-FDG PET/CT não với liều thông thường khi chụp
PET/CT nói chung (0,15 mCi/kg) đã cho kết quả hình
ảnh chất lượng và rõ nét, có giá trị chẩn đoán cao. Kỹ
thuật an toàn và không có trường hợp nào có biểu hiện
bị biến chứng hay tác dụng phụ. Điều này cũng phù
hợp với kết luận về độ an toàn của chụp PET/CT trong
các nghiên cứu trên thế giới [4].
7 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Lượt xem: 4 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đặc điểm hình ảnh ¹⁸F-FDG PET/CT não ở bệnh nhân Alzheimer và ở người lão hóa bình thường, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ÑIEÄN QUANG VIEÄT NAM Số 28 - 7/2017 29
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
SCIENTIFIC RESEARCH
SUMMARY
ĐẶC ĐIỂM HÌNH ẢNH 18F-FDG PET/CT NÃO
Ở BỆNH NHÂN ALZHEIMER VÀ Ở NGƯỜI
LÃO HÓA BÌNH THƯỜNG
Imaging characteristics of brain 18f-fdg pet/ct in alzheimer’s
disease patients and in normal elderly persons
Dư Đức Chiến*, Phạm Thắng*, Mai Trọng Khoa** và cs
* Bệnh viện Lão khoa Trung
ương, ** Trung tâm YHHN
và Ung Bướu - Bệnh viện
Bạch Mai
Purpose: Define 18F-FDG PET/CT cerebral imaging
characteristics in Alzheimer’s Disease patients and in the normal
elderly persons (Nls).
Objects and Methods: From 2014 to 2015, 26 Alzheimer’s
disease patients and 20 normal elderly persons undergone brain
18F-FDG PET/CT scans.
Results: Mean age of Alzheimer’s disease patients is
66,3±8,2 years old and 64,2±8,1 in Nls. Homogenous 18F-FDG
cerebral uptake in Nls. Most of cerebral regions in Alzheimer’s
disease patients suffering from a reduction of mean SUV. Rate of
18F-FDG hypometabolism in medial temporo-hippocampal area in
96.2% of cases on left side, meanwhile 92.3% of cases having a
hypometabolism in right medial temporo-hippocampal area as well
as in bilateral posterior cingulate gyrus, 76.9% in temporo-parietal
area on right side and 86.5% on left side. Cerebral metabolism
in occipital lobes principally reserved. Hypometabolism affecting
bilateral frontal lobe in a half of cases. Brain glucose metabolism
partially reserved at primary moto-sensory cortices, cerebellum,
as well as in anterior cingulate gyrus, especially reservation
of glucose metabolism at basal ganglias in Alzheimer disease
(96,2%). Rate of glucose hypometabolic Alzheimer like patterns in
92,3% of cases with 84,6% on both sides.
Conclusion: No focal cerebral cortical hypometabolism
in Nls. Evident reduction in 18F-FDG uptake of cerebral cortices
in Alzheimer’s disease patients in compared with Nls. Imaging
characteristics of hypometabolism in 18F-FDG PET/CT brain
scan in Alzheimer’s disease patients are regional anatomically
and specifically with high rate in medial temporo-hippocampal,
posterior temporal, temporo-parietal and posterior cingulate areas,
well correspondent to wellknown glucose metabolic patterns in
Alzheimer’s disease.
Key words: Alzheimer’s Disease (AD), Brain 18F-FDG PET/
CT, imaging characteristics.
ÑIEÄN QUANG VIEÄT NAM Số 28 - 7/201730
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Bệnh Alzheimer là nguyên nhân thường gặp nhất
trong hội chứng SSTT, chiếm từ 50% đến 70%, tiếp đến
là SSTT mạch máu, SSTT thùy trán thái dương, SSTT
thể Lewy,... [1].
Gánh nặng kinh tế cho việc chăm sóc bệnh nhân
Alzheimer tại Hoa Kỳ được đánh giá là hơn 100 tỷ USD
mỗi năm, cao hơn chi phí của các bệnh thường gặp
khác như đái tháo đường và thoái khớp. Tỷ lệ mắc
Alzheimer ở người trên 65 tuổi trong cộng đồng ước
tính khoảng 3%-11% [11].
Ở Việt Nam, tốc độ già hoá dân số tăng nhanh
những năm trở lại đây đã làm thay đổi mô hình bệnh tật
với sự bùng phát của các bệnh thoái hoá trong đó có
bệnh Alzheimer [12].
Theo một số nghiên cứu, nếu làm chậm khởi phát
được năm năm thì có thể làm giảm tới 50% tỷ lệ hiện
mắc của bệnh [8].
Chụp PET/CT ngày càng được ứng dụng nhiều
trong chẩn đoán và theo dõi SSTT, một số tác giả trên
thế giới bắt đầu nghiên cứu đưa xét nghiệm này vào tiêu
chuẩn chẩn đoán xác định SSTT [3]. Ở Việt Nam, chưa
có công trình nào nghiên cứu và ứng dụng 18F FDG-
PET/CT trong SSTT và bệnh Alzheimer. Vì vậy, chúng
tôi tiến hành nghiên cứu này với mục tiêu: “Xác định
đặc điểm hình ảnh PET/CT sử dụng thuốc phóng xạ
18F-FDG trong sa sút trí tuệ do bệnh Alzheimer và so
sánh với người lão hóa bình thường”.
II. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Đối tượng: Nhóm bệnh gồm 26 bệnh nhân
Alzheimer được lâm sàng chẩn đoán “rất có thể là
Alzheimer” (Probable AD) theo tiêu chuẩn chẩn đoán
DSM-IV. Nhóm chứng gồm 20 bệnh nhân cùng độ tuổi
nhưng không bị SSTT (test Mini-Cog).
2.2. Phương pháp nghiên cứu: Tiến cứu, mô tả
bệnh - chứng.
2.3. Quy trình nghiên cứu: Các bệnh nhân
Alzheimer được sàng lọc chẩn đoán qua khai thác hồ
sơ bệnh án lâm sàng nội khoa trên các lĩnh vực gồm
hỏi bệnh, khám bệnh, làm MMSE và các trắc nghiệm
(test) thần kinh tâm lý, xét nghiệm máu, chụp MRI sọ
não. Nhóm chứng gồm các trường hợp có cùng độ
tuổi, không có biểu hiện SSTT (được sàng lọc bằng
Test Mini-Cog). Nhóm bệnh và nhóm chứng đều được
chụp 18F-FDG PET/CT não theo cùng một qui trình kỹ
thuật như nhau.
2.4. Phương tiện nghiên cứu: Hệ thống máy
PET/CT TRUE POINT Siemens Biograph 6 Syngo CT
2006A của Siemens.
2.5. Xử lý số liệu: bằng phần mềm SPSS 16.0
2.6. Đạo đức nghiên cứu: Đề tài được thông qua
Hội đồng Y đức của Bệnh viện Lão khoa Trung ương.
Thông tin của bệnh nhân được bảo mật. Bệnh nhân
cam đoan đồng ý tự nguyện tham gia nghiên cứu.
III. KẾT QUẢ
3.1. Một số đặc điểm lâm sàng
3.1.1. Lý do vào viện: 100% bệnh nhân Alzheimer
có giảm trí nhớ từ từ, tăng dần.
3.1.2. Phân bố theo tuổi và giới: Tuổi trung bình
ở nhóm bệnh là 66,3 ± 8,2 tuổi, ở nhóm chứng là 64,2±
8,1, không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê. Tuổi
chủ yếu từ 60 tuổi trở lên (chiếm 76,7% ở nhóm bệnh
và 70% ở nhóm chứng). Tỷ lệ nữ/nam = 1,9 ở nhóm
bệnh và 1,2 ở nhóm chứng.
3.1.3. Trình độ học vấn: 80,8% bệnh nhân có
trình độ học vấn thấp dưới bậc đại học, ở nhóm chứng
tỷ lệ này là 75%.
3.1.4. Chỉ số MMSE và các trắc nghiệm thần
kinh tâm lý
Hầu hết các chỉ số trắc nghiệm thần kinh tâm lý
ở nhóm bệnh đều giảm. Điểm trung bình MMSE là
13,50±6,24.
3.2. Đặc điểm hình ảnh 18F-FDG PET/CT não
ở bệnh nhân Alzheimer và ở người lão hóa bình
thường không sa sút trí tuệ
Vùng não giảm chuyển hóa được thể hiện bằng
giảm hấp thu 18F-FDG hay giảm giá trị hấp thu trung
bình đã chuẩn hóa (SUV trung bình) và được mã hóa
bằng các màu sắc khác nhau theo qui ước.
3.2.1. So sánh giá trị SUV trung bình của những
vùng não liên quan giữa nhóm bệnh Alzheimer và
nhóm chứng (p<0,05)
ÑIEÄN QUANG VIEÄT NAM Số 28 - 7/2017 31
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
Bảng 3.1. So sánh giá trị SUV trung bình một số vùng vỏ não
Vỏ não Nhóm Alzheimer Nhóm chứng p
Hồi khuy trước P 5,02 ± 1,85 6,80±1,61 0,01
Hồi khuy trước T 4,76± 1,57 6,64±1,74 0,00
Hồi khuy sau P 4,81± 2,59 6,98±1,69 0,02
Hồi khuy sau T 4,84 ± 2,70 7,06±1,27 0,02
Thái dương đỉnh P 4,73 ± 2,06 7,71±1,88 0,00
Thái dương đỉnh T 4,61 ± 2,25 7,57±2,11 0,00
Trán P 6,12±2,68 8,38±2,32 0,04
Trán T 5,68±2,36 7,83±2,34 0,04
Cầu não 4,98±1,16 5,76 ±1,25 0,03
Nhận xét: So sánh giá trị SUV trung bình của từng vùng vỏ não ở nhóm bệnh nhân Alzheimer với nhóm chứng
cho thấy tất cả các vùng vỏ não ở nhóm bệnh nhân Alzheimer được liệt kê trong bảng 3.1 đều bị giảm hấp thu
18F-FDG. Sự khác biệt này là có ý nghĩa thống kê (với p<0,05 hoặc p < 0,01).
Bảng 3.2. So sánh giá trị SUV trung bình một số vùng vỏ não
Vỏ não Nhóm Alzheimer Nhóm chứng p
VĐCG nguyên thủy P 6,98 ± 1,82 7,96 ±1,69 0,07
VĐCG nguyên thủy T 6,55 ± 1,63 7,48 ±1,88 0,08
Hải mã - TDT P 4,02 ± 0,99 5,81±1,34 0,00
Hải mã –TDT T 3,98 ± 0,99 5,85±1,27 0,00
Cầu não 4,98±1,16 5,76 ±1,25 0,03
Chẩm P 7,72 ± 2,11 8,08 ±2,79 0,61
Chẩm T 7,62 ± 1,98 8,50 ±3,06 0,24
Thái dương sau P 4,68±2,00 7,01±1,65 0,00
Thái dương sau T 4,60±1,87 7,14±1,92 0,00
Tiểu não P 5,79±1,56 7,35 ±1,63 0,02
Tiểu não T 6,08±1,58 7,21 ±1,69 0,02
Nhận xét: So sánh giá trị SUV trung bình của từng vùng vỏ não ở nhóm bệnh nhân Alzheimer với nhóm chứng
cho thấy tất cả các vùng vỏ não ở nhóm bệnh nhân Alzheimer được liệt kê trong bảng 3.2 đều bị giảm hấp thu
18F-FDG ngoại trừ đối với vùng vỏ não vận động cảm giác nguyên thủy và vùng chẩm phải (p>0,05). Sự khác biệt
này là có ý nghĩa thống kê (với p<0,05 hoặc p < 0,01).
Bảng 3.3. So sánh giá trị SUV trung bình ở các nhân xám trung ương
Vùng não Nhóm Alzheimer Nhóm chứng p
Nhân đuôi P 7,25±2,31 9,39±2,31 0,03
Nhân đuôi T 6,92±2,19 9,42±2,40 0,01
Nhân bèo P 8,59±2,90 9,60±2,52 0,22
Nhân bèo T 8,02±2,39 8,86±1,93 0,20
Đồi thị P 7,65±2,50 9,14±2,19 0,03
Đồi thị T 7,51±1,96 8,92±1,98 0,02
Cầu não 4,98±1,16 5,76 ±1,25 0,03
Nhận xét: Tất cả các nhân xám trung ương ở nhóm bệnh nhân Alzheimer đều bị giảm hấp thu 18F-FDG so với
ở nhóm chứng. Sự khác biệt này là có ý nghĩa thống kê (với p<0,05) ngoại trừ đối với nhân bèo hai bên.
ÑIEÄN QUANG VIEÄT NAM Số 28 - 7/201732
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
Hình 3.1: Bn Hà Kỳ Tr., nam, 68t, không sa sút trí tuệ (test Mini-Cog): Vỏ não hấp thụ FDG mạnh và đồng
đều, không thấy vùng não giảm chuyển hóa khu trú.
Hình 3.2. Nữ, 67 tuổi MMSE = 14, Alzheimer giai đoạn trung bình. Giảm chuyển hóa (vùng màu đỏ) điển
hình vùng thái dương đỉnh và hồi khuy sau hai bên, chưa lan ra trán.
3.3.2. Tần suất các phân vùng não có giảm chuyển hóa (biểu đồ 1)
3.3.3. Tần suất các sơ đồ giảm chuyển hóa dạng Alzheimer (biểu đồ 2)
ÑIEÄN QUANG VIEÄT NAM Số 28 - 7/2017 33
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
IV. BÀN LUẬN
Một số đặc điểm chung: 100% bệnh nhân vào
viện do giảm trí nhớ từ từ và tăng dần, Tuổi cao là yếu
tố nguy cơ quan trọng nhất trong Alzheimer và không
thể đảo ngược được. Tuổi trung bình mắc bệnh là
66,3±8,2; chủ yếu từ 60 tuổi trở lên (chiếm 76,7%). Tỷ
lệ hiện mắc bệnh Alzheimer tăng lên theo tuổi và đã
được tất cả các tác giả đề cập đến khi nghiên cứu [9].
Về giới, tỷ lệ nữ mắc Alzheimer nhiều hơn nam
trong nghiên cứu (tỷ lệ nữ/nam là 1:1,9), phù hợp với
kết quả các nghiên cứu khác ở trong và ngoài nước.
Đa số bệnh nhân Alzheimer đến khám ở giai đoạn
vừa hoặc nặng (84,6%) và điểm MMSE trung bình là
13,50±6,24, tương tự như kết quả các nghiên cứu về
bệnh nhân SSTT nói chung ở Việt Nam [10].
Đặc điểm hình ảnh 18F-FDG PET/CT não ở bệnh
nhân Alzheimer
Bình thường, glucose là nguồn năng lượng cơ bản
của não, và sự hấp thụ glucose phản ánh hoạt động
dẫn truyền thần kinh [5]. Hình ảnh chụp PET sử dụng
18F-FDG sau 20 đến 30 phút tiêm đồng vị phóng xạ
phản ánh hoạt động của não. Ở những người có nhận
thức bình thường, chuyển hóa của não diễn ra mạnh
nhất tại hạch đáy, đồi thị, tiểu não và vỏ đại não; thấp
hơn ở thân não; và thấp nhất ở chất trắng.
Kết quả ở nhóm chứng cho thấy, giá trị SUV
trung bình ở tất cả các vùng vỏ não đều cao hơn giá trị
SUV trung bình ở cầu não, như vậy không thấy có vùng
vỏ não nào giảm chuyển hóa so với cầu não.
Ngược lại, ở nhóm bệnh nhân Alzheimer, giá
trị SUV trung bình giảm rõ rệt ở vỏ não hải mã - thái
dương trong hai bên, ở vùng thái dương sau, vùng thái
dương đỉnh và các hồi khuy sau. Chuyển hóa được bảo
tồn ở các vùng vỏ não vận động cảm giác nguyên thủy,
vùng chẩm, tiểu não, trán và hồi khuy trước bên phải.
Trong nghiên cứu của chúng tôi, giá trị SUV
trung bình tại cầu não ở nhóm Alzheimer là 4,98±1,16.
Như vậy, khi so sánh với giá trị SUV trung bình ở cầu
não, chuyển hóa ở hồi khuy trước bên phải được bảo
tồn với giá trị SUV trung bình chung ở hồi khuy trước
bên phải là 5,02 ± 1,85, tuy nhiên có giảm nhẹ chuyển
hóa ở hồi khuy trước bên trái (4,76± 1,57). Giá trị SUV
giảm ở hồi khuy sau hai bên (SUV bên phải = 4,81±
2,59 và SUV bên trái = 4,84 ± 2,70), cũng như ở hồi
thái dương đỉnh hai bên (SUV bên phải = 4,73 ± 2,06
và SUV bên trái = 4,61 ± 2,25). Vùng trán hai bên được
bảo tồn tốt hơn với giá trị SUV bên phải là 6,12±2,68 và
bên trái là 5,68±2,36. Chuyển hóa ở vỏ não vận động
cảm giác nguyên thủy được bảo tồn tốt hơn so với ở
vỏ não trán với giá trị SUV trung bình đạt 6,98 ± 1,82
ở bên phải và 6,55 ± 1,63 ở bên trái. Chuyển hóa giảm
mạnh nhất là ở vùng hải mã - thái dương trong hai bên
với giá trị SUV chỉ còn 4,02 ± 0,99 ở bên phải và 3,98
± 0,99 ở bên trái. Vỏ não thái dương sau hai bên cũng
bị giảm chuyển hóa với giá trị SUV trung bình bên phải
là 4,68±2,00 và bên trái là 4,60±1,87. Chuyển hóa ở
vỏ tiểu não cơ bản được bảo tồn cả hai bên với giá trị
SUV trung bình đạt 5,79±1,56 ở bên phải và 6,08±1,58
ở bên trái. Vùng chẩm một số bệnh nhân cũng bị giảm
chuyển hóa lan tới nhưng không có bệnh nhân nào có
giảm chuyển hóa toàn bộ vùng chẩm. Chính vì vậy, có
thể coi đây là một dấu hiệu quan trọng trong chẩn đoán
phân biệt Alzheimer với sa sút trí tuệ thể Lewy.
Hình 4.1: Ảnh chụp 18F-FDG PET/CT sọ não ở
một bệnh nhân nam 87 tuổi, không bị sa sút trí tuệ:
chuyển hóa mạnh và đồng đều ở tất cả các vùng vỏ đại
não, không thấy vùng giảm chuyển hóa khu trú
Hình 4.2: Nữ, 55 tuổi, MMSE =5, giảm chuyển
hóa điển hình vùng thái dương đỉnh và hồi khuy sau hai
bên, chưa lan ra trán, vùng chẩm được bảo toàn. Giảm
chuyển hóa lan tỏa hải mã - thái dương trong 2 bên
So sánh với cầu não ở cả hai nhóm, giá trị SUV
trung bình ở tất cả các nhân xám trung ương đều cao
hơn rõ rệt. Chuyển hóa glucose được bảo tồn rất cao
ÑIEÄN QUANG VIEÄT NAM Số 28 - 7/201734
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
tại các nhân xám trung ương cũng phù hợp với các kết
quả nghiên cứu trong y văn. Tiểu não và thân não bị
ảnh hưởng nhẹ trong số ít Alzheimer [6].
Theo Foster và cộng sự, nhân đuôi, nhân bèo và
đồi thị hiếm khi tương quan với vỏ não nhưng cũng
giảm chuyển hóa khi so sánh với hình ảnh ở người có
nhận thức bình thường ở cùng độ tuổi [2]. Trong nghiên
cứu của chứng tôi, hấp thu 18F-FDG tại nhân bèo hai
bên ở nhóm bệnh nhân Alzheimer so với người lão hóa
sinh lý bình thường không có sự khác biệt có ý nghĩa
thống kê.
Tóm lại, nghiên cứu của chúng tôi cho thấy các
bệnh nhân có giảm chuyển hóa vỏ não biểu hiện rõ rệt
ở hải mã - thái dương trong hai bên, các hồi khuy sau,
thái dương sau và vùng thái dương đỉnh hai bên, kết quả
này hoàn toàn phù hợp với kết quả các nghiên cứu trong
y văn, theo Minoshima S và cộng sự, giảm chuyển hóa
đầu tiên được thấy ở cuộn não bó khuy sau, tiếp đó, lan
tới và ảnh hưởng đến phần liên kết vỏ não ở thùy đỉnh và
các hồi thái dương sau và cuối cùng, giảm chuyển hóa
lan tới phần vỏ trán và hầu hết não [7].
Về tần suất, 24/26 trường hợp bệnh nhân (92,3%)
có giảm chuyển hóa ở vùng hải mã – thái dương trong bên
phải và 25/26 trường hợp (96,2%) ở bên trái, 24/26 trường
hợp (92,3%) có giảm chuyển hóa ở vùng hồi khuy sau
hai bên, 20/26 trường hợp (76,9%) có giảm chuyển hóa ở
vùng thái dương đỉnh phải và 23/26 trường hợp (88,5%) ở
bên trái (P > 0,05).
Trong nghiên cứu của chúng tôi, có tới 22/26 bệnh
nhân (84,6%) có sơ đồ giảm chuyển hóa đặc trưng của
bệnh Alzheimer biểu hiện ở cả hai bán cầu, và chỉ có 2
trường hợp có vùng giảm chuyển hóa dạng Alzheimer
xuất hiện ở một bên bán cầu (hồi khuy sau bên trái). Có
2/26 trường hợp có sơ đồ chuyển hóa không điển hình
của Alzheimer, chiếm 7,7%, (P = 0,730, Chi-Square Tests).
Về mặt kỹ thuật, tất cả 46 trường hợp chụp
18F-FDG PET/CT não với liều thông thường khi chụp
PET/CT nói chung (0,15 mCi/kg) đã cho kết quả hình
ảnh chất lượng và rõ nét, có giá trị chẩn đoán cao. Kỹ
thuật an toàn và không có trường hợp nào có biểu hiện
bị biến chứng hay tác dụng phụ. Điều này cũng phù
hợp với kết luận về độ an toàn của chụp PET/CT trong
các nghiên cứu trên thế giới [4].
V. KẾT LUẬN
Không thấy hình ảnh giảm chuyển hóa 18F-FDG (hay
glucose) ở vỏ não với tính chất khu trú trên chụp PET/CT ở
nhóm người lão hóa không bị mắc sa sút trí tuệ.
Giảm chuyển hóa 18F-FDG (hay glucose) rõ rệt
ở vỏ não những người mắc sa sút trí tuệ do bệnh
Alzheimer so với người lão hóa bình thường không bị
sa sút trí tuệ.
Đặc điểm hình ảnh 18F-FDG PET/CT não ở các
bệnh nhân Alzheimer trong nghiên cứu là giảm chuyển
hóa của vỏ não với tính chất phân vùng rõ rệt ở hải
mã – thái dương trong hai bên, các hồi khuy sau, thái
dương sau và vùng thái dương đỉnh hai bên. Bảo tồn
chuyển hóa tốt hơn ở tiểu não, vùng chẩm, vỏ não vận
động cảm giác nguyên thủy. Bảo tồn chuyển hóa cao
nhất tại các nhân xám trung ương. Sơ đồ vùng giảm
chuyển hóa dạng Alzheimer thường đồng thời ở cả hai
bên bán cầu (84,6%). Kỹ thuật 18F-FDG PET/CT não là
phương pháp hình ảnh an toàn, khách quan và có giá
trị trong chẩn đoán và nghiên cứu bệnh Alzheimer.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Nguyễn Duy Bắc (2010). Nghiên cứu đặc điểm hình thái tổn thương não trên bệnh nhân Alzheimer và động vật
thực nghiệm”, Luận án tiến sỹ y học, Hà Nội
2. Foster NL, et al (1988), “Cerebral hypometabolism in progressive supranuclear palsy studied with positron
emission tomography”, Ann Neurol, 24(3), pp. 399-406
3. Foster NL, et al (2007), “FDG-PET improves accuracy in distinguishing frontotemporal dementia and Alzheimer’s
disease”, Brain, 130 (Pt 10), pp. 2616-2635
4. Mai Trong Khoa (2012), Atlas PET/CT một số bệnh ung thư ở người Việt Nam , Nhà xuất bản Y học, Hà Nội
ÑIEÄN QUANG VIEÄT NAM Số 28 - 7/2017 35
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
5. Mata M, et al (1980), “Activity-dependent energy metabolism in rat posterior pituitary primarily reflects sodium
pump activity”, J Neurochem, 34(1), pp. 213-215
6. Minoshima S, Frey KA, Foster NL, et al (1995) “ Preserved pontine glucose metabolism in Alzheimer’s disease:
a reference region for functional brain analysis”, J Comput Assist Tomogr, 19, pp. 541–547
7. Minoshima S GB, Berent S, et al (1997), “Metabolic reduction in the posterior cingulate cortex in very early
Alzheimer’s disease”, Ann Neurol, 42pp. 85–94
8. Perry G. AJ, Kinosita J., et al (2006), “Alzheimer’s disease: A century of scientific and clinical reseach. “ IOS
Press, pp. 29-447
9. Plassman B.L., Langa K.M., et al (2007), “Prevalence of Dementia in the United States: The Aging, Demographics
and Memory Study”, Neuroepidemiology, 29(1-2), pp. 125-132
10. Phạm Thắng và cộng sự (2010). Hợp tác nghiên cứu một số yếu tố nguy cơ của hội chứng sa sút trí tuệ ở người
cao tuổi và đề xuất biện pháp can thiệp dự phòng, Báo cáo nghiệm thu đề tài cấp nhà nước, Hà Nội
11. Phạm Thắng., Tạ Thành Văn., Dư Đức Chiến và cs: Bệnh Alzheimer và các thể sa sút trí tuệ khác. Nhà xuất
bản Y học, Hà nội 2010:3-335
12. UNPD (2011). Già hóa dân số và người cao tuổi Việt Nam: Thực trạng, dự báo và một số khuyến nghị chính
sách, Hà Nội
TÓM TẮT
Mục tiêu: Xác định đặc điểm hình ảnh 18F-FDG PET/CT não ở bệnh nhân sa sút trí tuệ (SSTT) do bệnh
Alzheimer và ở người lão hóa sinh lý bình thường.
Đối tượng và phương pháp: Từ năm 2014 đến năm 2015, 26 bệnh nhân Alzheimer và 20 người lão hóa bình
thường được chụp 18F-FDG PET/CT não.
Kết quả: Tuổi trung bình mắc bệnh ở nhóm bệnh nhân Alzheimer là 66,3±8,2 còn tuổi trung bình ở nhóm chứng
là 64,2±8,1. Hấp thu 18F-FDG vỏ não ở nhóm chứng cơ bản đồng đều. Hầu hết các vùng não ở nhóm bệnh nhân
Alzheimer đều bị giảm giá trị SUV trung bình. Tần suất giảm hấp thu 18F-FDG ở vỏ não hải mã - thái dương trong
bên trái là 96,2%, hồi khuy sau hai bên và hải mã - thái dương trong bên phải là 92,3%, vùng thái dương đỉnh là
76,9% ở bên phải và bên trái là 86,5%. Chuyển hóa vùng chẩm trong bệnh Alzheimer cơ bản được bảo tồn. Một
nửa các trường hợp Alzheimer có giảm hấp thu 18F-FDG ở vùng trán hai bên. Bảo tồn chuyển hóa ở vùng vỏ não
vận động - cảm giác nguyên thủy, tiểu não và hồi khuy trước, đặc biệt ở các nhân xám trung ương (96,2%). Tần
suất giảm chuyển hóa glucose có sơ đồ dạng Alzheimer chiếm 92,3% với 84,6% có giảm chuyển hóa ở cả hai bên.
Kết luận: Ở nhóm lão hóa bình thường, không thấy hình ảnh giảm chuyển hóa vỏ não khu trú. Hấp thu 18F-FDG
ở các vùng vỏ não giảm rõ rệt ở nhóm Alzheimer so với nhóm chứng. Đặc điểm hình ảnh 18F-FDG PET/CT não
ở nhóm Alzheimer là giảm hấp thu ở vỏ não với tính chất giải phẫu định khu rõ rệt, hay gặp ở vùng hải mã - thái
dương trong, thái dương sau, thái dương đỉnh và hồi khuy sau, phù hợp với sơ đồ chuyển hóa glucose não trong
bệnh Alzheimer.
Từ khóa: Bệnh Alzheimer (AD), 18F-FDG PET/CT não, đặc điểm hình ảnh.
Người liên hệ: Dư Đức Chiến, Bệnh viện Lão khoa Trung ương. E-mail: chduduc@gmail.com
Ngày nhận bài: 29.4.2017. Ngày chấp nhận đăng: 20.5.2017
Các file đính kèm theo tài liệu này:
dac_diem_hinh_anh_f_fdg_petct_nao_o_benh_nhan_alzheimer_va_o.pdf