Một số đặc điểm khác
Dịch màng tinh hoàn, gặp ở 24/32 trường hợp
trong đó có 17 trường hợp dịch không trong. Đặc điểm
dày da bìu gặp ở 24/32 trường hợp và tăng sinh mạch
ngoại vi vùng bìu 20/32 ca bệnh. Hai dấu hiệu này gặp
nhiều hơn ở giai đoạn muộn (sau 24 giờ). Da bìu dày
lên do hiện tượng phù nề sung huyết. Các mạch máu
tăng sinh có nguồn gốc từ động mạch cơ bìu và động
mạch ống dẫn tinh. Khi có các dấu hiệu này báo hiệu
tình trạng xoắn tinh hoàn đã ở pha muộn.
Sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về khả năng bảo
tồn tinh hoàn giữa nhóm bệnh nhân đến trước 6 giờ và hai
nhóm còn lại với p =0,0001. Như vậy khả năng bảo tồn tinh
hoàn cao hơn ở nhóm bệnh nhân đến sớm trước 6 giờ.
Tỷ lệ bảo tồn được tinh hoàn trong nghiên cứu của
chúng tôi còn thấp 18,8%. Việc bảo tồn hay cắt bỏ tinh
hoàn được quyết định trong khi mổ. Tuy nhiên theo kết
quả nghiên cứu của chúng tôi, đặc điểm về đậm độ nhu
mô tinh hoàn trên siêu âm có thể dự đoán về khả năng
bảo tồn hay cắt bỏ tinh hoàn. Khả năng bảo tồn tinh
hoàn cao ở những bệnh nhân có nhu mô tinh hoàn còn
bình thường hay giảm âm đồng nhất và thấp ở những
bệnh nhân có nhu mô tinh hoàn không đồng nhất, sự
khác biệt này có ý nghĩa thống kê với p= 0,0001. Trên
siêu âm nhu mô tinh hoàn có các ổ trống âm hay tăng
âm do hoại tử hoặc chảy máu thì không còn khả năng
bảo tồn, tỷ lệ cắt bỏ là 100% ở nghiên cứu chúng tôi.
Nhu mô không đồng nhất có các ổ giảm âm do nhồi
máu thì tùy trường hợp có thể bảo tồn được hoặc phải
cắt bỏ, tuy nhiên trong nghiên cứu của chúng tôi phần
lớn là không thể bảo tồn được.
5 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Lượt xem: 25 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đặc điểm hình ảnh siêu âm Triplex trong chẩn đoán xoắn tinh hoàn tại bệnh viện Việt Đức, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ÑIEÄN QUANG VIEÄT NAM Số 22 - 12/2015 37
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
SCIENTIFIC RESEARCH
SUMMARY
ĐẶC ĐIỂM HÌNH ẢNH SIÊU ÂM TRIPLEX
TRONG CHẨN ĐOÁN XOẮN TINH HOÀN
TẠI BỆNH VIỆN VIỆT ĐỨC
Describe the characteristics of the Triplex ultrasound
images of testicular torsion at Viet Duc hospital
Đỗ Việt Anh*, Nguyễn Duy Huề*
Purpsose: Describe the Triplex ultrasound imaging
characteristics of testicular torsion
Object and methods: Patients who have acute scrotum
going to Viet Duc Hospital Emergency Sonography Department
between March 2014 and September 2005, were diagnosed
testicular torsion and operated.
Results: 32 cases were diagnosed as testicular torsion,
diagnosis after surgery is correct 100% of the cases. The mean
age 19,2 ± 5,1. Sign “whirlpool” is found in 75% of cases, the
common position is above the testicles 91.7%. Sign of losing
the pulse signal at testicular torsion 31/32 (96.9%). Increased
testicular size 27/32 (84.4%). 28/32 heterogeneous parenchyma,
normal 3/32, 1/32 hypoechoic. Epididymis morphology change
25/32 cases (78.1%), of which the most common are sphere 76%.
Conclusions: Triplex Ultrasonography has value in the
different diagnosis of testicular torsion with other diseases
causing scrotal pain.
Keywords: Triplex sonography, testicular torsion.
*Khoa Chẩn đoán hình ảnh,
Bệnh viện Hữu Nghị Việt Đức
ÑIEÄN QUANG VIEÄT NAM Số 22 - 12/201538
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Xoắn tinh hoàn (XTH) là hiện tượng thừng tinh bị
xoắn quanh trục của nó làm cắt đứt nguồn cung cấp
máu cho tinh hoàn dẫn đến hậu quả thiếu máu và hoại
tử tinh hoàn. XTH có thể xảy ra ở mọi lứa tuổi nhưng
hay gặp nhất ở trẻ vị thành niên tuổi từ 12 đến 18 [5].
Đây là một cấp cứu trong ngoại khoa cần được chẩn
đoán và điều trị kịp thời. Khoảng thời gian tốt nhất để
tinh hoàn bị xoắn có thể được bảo tồn là trước 6h [5].
Vấn đề quan trọng trong chẩn đoán là phân biệt giữa
xoắn tinh hoàn với các bệnh lí khác gây đau bìu cấp
bởi liên quan đến việc lựa chọn phẫu thuật cấp cứu hay
không phẫu thuật. Và siêu âm Triplex là phương pháp
có giá trị trong chẩn đoán xoắn tinh hoàn với độ nhạy
cao (78,6 - 89%), độ đặc hiệu cao (77-100%) [2] [3] [4].
Do đó nghiên cứu này thực hiện với mục tiêu: Mô tả
đặc điểm hình ảnh xoắn tinh hoàn trên siêu âm Triplex.
II. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
1. Đối tượng nghiên cứu
Các bệnh nhân đau bìu cấp khám tại Khoa cấp
cứu Bệnh viện Hữu nghị Việt Đức được chẩn đoán
xoắn tinh hoàn và được phẫu thuật từ tháng 3/2014
đến tháng 9/2015.
2. Phương pháp nghiên cứu
A. Phương tiện nghiên cứu: Máy siêu âm Philips
và Medison Accuvix XG được đặt tại phòng cấp cứu
Khoa Chẩn đoán hình ảnh - Bệnh viện Hữu nghị Việt
Đức, sử dụng đầu dò phẳng 3-12MHz.
B. Các bước tiến hành nghiên cứu:
+ Khai thác thông tin chung, bệnh sử, triệu chứng
lâm sàng theo chỉ số nghiên cứu. Khám lâm sàng tìm
các dấu hiệu theo chỉ số nghiên cứu. Tiến hành siêu âm
tinh hoàn hai bên: đánh giá thừng tinh, kích thước, nhu
mô tinh hoàn, hình dáng - kích thước - nhu mô mào tinh
hoàn, tưới máu nhu mô tinh hoàn - mào tinh hoàn. Đưa
ra chẩn đoán và theo dõi bệnh nhân.
III. KẾT QUẢ - BÀN LUẬN
Trong suốt quá trình nghiên cứu chúng tôi có 32
trường hợp chẩn đoán xoắn tinh hoàn và được điều trị
phẫu thuật.
1. Đặc điểm chung của bệnh nhân xoắn tinh hoàn
Tuổi trung bình trong nhóm nghiên cứu của chúng
tôi là 19,2±5,1 tuổi. Tuổi cao nhất là 33 tuổi. Tuổi thấp
nhất là 10 tuổi. Độ tuổi mắc bệnh tập chung vào nhóm
16-25 chiếm 68,8% và nhóm <16 tuổi chiếm 25%, kết
quả phù hợp với các báo cáo gần đây cho thấy xoắn
tinh hoàn là bệnh lý của thanh thiếu niên và nam trẻ
tuổi.
Thời gian đến khám bệnh là khoảng thời gian
được tính từ lúc xuất hiện triệu chứng đau cho tới khi
bệnh nhân đến khám tại Bệnh viện Việt Đức. Thời gian
đến khám sớm nhất là 2 giờ. Thời gian đến khám muộn
nhất là 720 giờ, ở một bệnh nhân đau tinh hoàn cấp và
được điều trị nội khoa, đến lúc được chẩn đoán là xoắn
tinh hoàn và phải cắt bỏ tinh hoàn là 30 ngày. Thời gian
đến khám trung bình là 205,5±229,8 giờ. Theo nghiên
cứu của Hoàng Long thời gian đến khám trung bình là
145.27 giờ [1]. Đa số bệnh nhân đều đến khám muộn,
số ca đến khám bệnh sau 24 giờ 26/32 trường hợp
chiếm 81,2%, do đó tỷ lệ phải cắt bỏ tinh hoàn cao.
Lý do khiến bệnh nhân đến khám muộn là tâm lí ngại
ngùng, thiếu hiểu biết về bệnh lí xoắn tinh hoàn hoặc bị
chẩn đoán nhầm là viêm tinh hoàn.
Thời gian khởi phát bệnh phần lớn về đêm chiếm
77,3%, sự khác biệt giữa ngày – đêm có ý nghĩa thống
kê với p = 0,011. Phần lớn các ca xoắn tinh hoàn xảy
ra vào mùa đông và mùa xuân, sự khác biệt giữa các
mùa trong năm có ý nghĩa thống kê p<0,05. Cũng chưa
có nghiên cứu nào nêu lên mối quan hệ này. Tuy nhiên,
có thể giải thích các yếu tố môi trường như thời tiết
lạnh, độ ẩm cao và áp xuất khí quyển thấp về đêm làm
cho cơ bìu phản ứng co bóp mạnh hơn, gây ra phản xạ
co cơ bìu đột ngột cũng được cho là một trong những
nguyên nhân gây xoắn tinh hoàn [6].
Lâm sàng triệu chứng hay gặp là đau tinh hoàn,
tinh hoàn sưng to, mật độ cứng chắc và mất phản xạ
cơ bìu (100% các trường hợp). Ngoài ra có thể gặp các
triệu chứng sốt (9,4%), buồn nôn, nôn (9,4%), dấu hiệu
Prehn âm tính có ở 43,8% các trường hợp.
2. Đặc điểm hình ảnh xoắn tinh hoàn trên siêu âm
Triplex
2.1. Dấu hiệu “xoáy nước” ở thừng tinh
ÑIEÄN QUANG VIEÄT NAM Số 22 - 12/2015 39
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
Bảng 1. Dấu hiệu “xoáy nước” trên siêu âm (N =32)
Đặc điểm
Số bệnh
nhân
%
Có dấu hiệu xoáy nước 24 75,0
Vị trí
Trên tinh hoàn 22 91,7
Trong ống bẹn 2 8,3
Tổng 24 100
Kích thước trung bình của “xoáy nước” 8,21±2,85
Dấu hiệu trực tiếp của xoắn thừng tinh là dấu hiệu
“xoáy nước”, đây là dấu hiệu rất có ý nghĩa trong chẩn
đoán. Hình ảnh “xoáy nước” được mô tả như hình bia,
hình vỏ ốc hay một cơn bão trên bản đồ thời tiết. Vị trí
của “xoáy nước” đa dạng, hay gặp nhất là vị trí trên
tinh hoàn, ngoài ra có thể gặp dấu hiệu này ở sau tinh
hoàn, lỗ bẹn nông hoặc trong ống bẹn. Trong nghiên
cứu của chúng tôi dấu hiệu xoáy nước tìm thấy ở 75%
các trường hợp (24/32) và tất cả các trường hợp tìm
thấy dấu hiệu “xoáy nước” đều được chẩn đoán sau
phẫu thuật là xoắn tinh hoàn. Vị trí hay gặp nhất theo
nghiên cứu của chúng tôi là vị trí trên tinh hoàn 91,7%,
vị trí trong ống bẹn 8,3% gặp ở bệnh nhân tinh hoàn lạc
chỗ trong ống bẹn. Trên thực tế khi tiến hành nghiên
cứu tôi nhận thấy việc tìm dấu hiệu “xoáy nước” ở bệnh
nhân đến khám sớm dễ dàng hơn so với ở những bệnh
nhân đến muộn. Bệnh nhân đến khám muộn, tinh hoàn,
mào tinh và các cấu trúc xung quanh hoại tử, biến đổi
hình thái, máu tụ tất cả làm cho việc tìm dấu hiệu “xoáy
nước” khó khăn hơn. Do đó nếu ở những bệnh nhân có
dấu hiệu hoại tử, đến muộn mà không tìm thấy rõ ràng
dấu hiệu “xoáy nước” trên siêu âm thì cũng không loại
trừ được xoắn tinh hoàn. Kết quả này cũng phù hợp với
nghiên cứu của S. Boopathy Vijayaraghavan [7]. Trong
nghiên cứu của S. Boopathy Vijayaraghavan trong số
65 ca xoắn tinh hoàn bao gồm cả bệnh nhân xoắn hoàn
toàn và không hoàn toàn, dấu hiệu “xoáy nước” có độ
nhạy và độ đặc hiệu là 100%. Kết quả của chúng tôi
thấp hơn so với của S. Boopathy Vijayaraghavan có
thể do bệnh nhân của chúng tôi đến muộn, do đó việc
tìm dấu hiệu này khó khăn hơn. Tuy nhiên ở cả 6 bệnh
nhân bảo tồn được tinh hoàn đều tìm thấy dấu hiệu
“xoáy nước” trong đó có 1 bệnh nhân còn thấy tín hiệu
mạch trên siêu âm do đó đây là một dấu hiệu có ý nghĩa
trong việc chẩn đoán sớm xoắn tinh hoàn làm tăng khả
năng bảo tồn tinh hoàn.
2.2. Đặc điểm hình ảnh tinh hoàn
Về kích thước tinh hoàn thì phần lớn tinh hoàn bị
xoắn tăng kích thước so với bên đối diện 27/32 (84,4%)
trường hợp. Có 5/32 trường hợp có kích thước tinh
hoàn bình thường và không có trường hợp nào giảm
kích thước tinh hoàn. Đậm độ âm của nhu mô phần lớn
là không còn đồng nhất 28/32 trường hợp (87,5%). Có
4 trường hợp nhu mô tinh hoàn còn đồng nhất trong
đó có 3 ca nhu mô bình thường và 1 ca giảm âm đồng
nhất. Kích thước và đặc điểm của nhu mô tinh hoàn
biến đổi do thiếu máu: tăng kích thước, nhu mô không
đồng nhất có các ổ giảm âm do nhồi màu, tăng âm do
chảy máu và trống âm do hoại tử.
Hình 1. Hình ảnh bệnh nhân xoắn tinh hoàn
A. Dấu hiệu “xoáy nước” ở thừng tinh bên trái.
B. Tinh hoàn trái vẫn còn tín hiệu mạch máu ở nhu mô.
(Bệnh nhân Nguyễn Ngọc Đ; 17 tuổi; Mã bệnh án
15473/N44).
Về tưới máu trong nhu mô tinh hoàn, dấu hiệu mất
tín hiệu mạch nhu mô tinh hoàn trong chẩn đoán xoắn
tinh hoàn có giá trị trong chẩn đoán xoắn tinh hoàn do
độ nhạy và độ đặc hiệu cao (độ nhạy 96,9%). Có 1/32
trường hợp còn tín hiệu mạch ở nhu mô tinh hoàn bên
xoắn trên siêu âm Doppler màu, tuy nhiên giảm rõ rệt
ở toàn bộ nhu mô so với bên đối diện, bệnh nhân đến
khám sau 5 giờ, kết quả phẫu thuật thấy thừng tinh
b
ÑIEÄN QUANG VIEÄT NAM Số 22 - 12/201540
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
xoắn 1 vòng. Như vậy không phải tất cả các trường
hợp xoắn tinh hoàn trên siêu âm đều mất tín hiệu mạch
trong nhu mô trên siêu âm Doppler màu. Tín hiệu mạch
có thể còn nhưng hầu hết là yếu rõ rệt so với bên đối
diện, điều đó phụ thuộc vào thời gian đến khám, mức
độ xoắn của thừng tinh và khả năng tự tháo xoắn. Do
đó khi làm siêu âm ở bệnh nhân đau bìu cấp dù còn tín
hiệu mạch trong nhu mô tinh hoàn cũng chưa loại trừ
được hoàn toàn xoắn tinh hoàn. Cần so sánh tín hiệu
mạch máu nhu mô tinh hoàn hai bên và đánh giá kĩ phổ
Doppler tìm các bất thường mất dòng chảy tâm trương
hay dòng tâm trương đảo chiều.
2.3. Đặc điểm hình ảnh của mào tinh hoàn
Hình thái của mào tinh hoàn biến đổi ở 25/32
trường hợp (78,1%), trong đó hình cầu hay gặp nhất
19/25 (76%), hình thùy múi 6/25 (24%), còn lại 7 ca có
hình thái mào tinh hoàn bình thường. Kích thước mào
tinh hoàn phần lớn là tăng chiếm 88,4%. Nhu mô mào
tinh hoàn không đồng nhất gặp ở 28/32 trường hợp
trong đó hay gặp nhất là ổ trống âm 14 trường hợp và
các ổ giảm âm 8 trường hợp. Điều này có thể lí giải do
mạch máu đến cung cấp cho mào tinh hoàn là động
mạch tinh hoàn, đến đầu mào tinh hoàn thì chia thành
02 nhánh tinh hoàn và mào tinh hoàn.
2.4. Một số đặc điểm khác
Dịch màng tinh hoàn, gặp ở 24/32 trường hợp
trong đó có 17 trường hợp dịch không trong. Đặc điểm
dày da bìu gặp ở 24/32 trường hợp và tăng sinh mạch
ngoại vi vùng bìu 20/32 ca bệnh. Hai dấu hiệu này gặp
nhiều hơn ở giai đoạn muộn (sau 24 giờ). Da bìu dày
lên do hiện tượng phù nề sung huyết. Các mạch máu
tăng sinh có nguồn gốc từ động mạch cơ bìu và động
mạch ống dẫn tinh. Khi có các dấu hiệu này báo hiệu
tình trạng xoắn tinh hoàn đã ở pha muộn.
Sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về khả năng bảo
tồn tinh hoàn giữa nhóm bệnh nhân đến trước 6 giờ và hai
nhóm còn lại với p =0,0001. Như vậy khả năng bảo tồn tinh
hoàn cao hơn ở nhóm bệnh nhân đến sớm trước 6 giờ.
2.5. Mối liên quan giữa đậm độ nhu mô tinh hoàn trên siêu âm với khả năng bảo tồn tinh hoàn
Bảng 2. Mối liên quan giữa đậm độ nhu mô tinh hoàn trên siêu âm với khả năng bảo tồn tinh hoàn (n =32)
Đậm độ nhu mô
Kết quả phẫu thuật
Cắt bỏ Bảo tồn Tổng
n % n % n %
Bình thường 0 0 3 100 3 100
Giảm âm 0 0 1 100 1 100
Không đồng nhất 26 92,9 2 7,1 28 100
Tổng 26 81,2 6 18,8 32 100
p 0,0001
Tỷ lệ bảo tồn được tinh hoàn trong nghiên cứu của
chúng tôi còn thấp 18,8%. Việc bảo tồn hay cắt bỏ tinh
hoàn được quyết định trong khi mổ. Tuy nhiên theo kết
quả nghiên cứu của chúng tôi, đặc điểm về đậm độ nhu
mô tinh hoàn trên siêu âm có thể dự đoán về khả năng
bảo tồn hay cắt bỏ tinh hoàn. Khả năng bảo tồn tinh
hoàn cao ở những bệnh nhân có nhu mô tinh hoàn còn
bình thường hay giảm âm đồng nhất và thấp ở những
bệnh nhân có nhu mô tinh hoàn không đồng nhất, sự
khác biệt này có ý nghĩa thống kê với p= 0,0001. Trên
siêu âm nhu mô tinh hoàn có các ổ trống âm hay tăng
âm do hoại tử hoặc chảy máu thì không còn khả năng
bảo tồn, tỷ lệ cắt bỏ là 100% ở nghiên cứu chúng tôi.
Nhu mô không đồng nhất có các ổ giảm âm do nhồi
máu thì tùy trường hợp có thể bảo tồn được hoặc phải
cắt bỏ, tuy nhiên trong nghiên cứu của chúng tôi phần
lớn là không thể bảo tồn được.
IV. KẾT LUẬN
Siêu âm Triplex có giá trị trong chẩn đoán phân biệt
xoắn tinh hoàn với các tình trạng đau bìu khác. Dấu hiệu
“xoáy nước” và dấu hiệu mất tín hiệu mạch rất có ý nghĩa
trong chẩn đoán xoắn tinh hoàn. Biến đổi cấu trúc và
hình thái tinh hoàn, mào tinh hoàn, dày da bìu và tăng
sinh mạch vùng bìu là các dấu hiệu gợi ý cho chẩn đoán.
ÑIEÄN QUANG VIEÄT NAM Số 22 - 12/2015 41
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
1. Hoàng Long, (2011), “Xoắn tinh hoàn: Kinh
nghiệm chẩn đoán và điều trị tại bệnh viện Việt Đức,”
Tạp chí Ngoại khoa.
2. D. S. Baker LA, (2000), “An analysis of clinical
outcomes using Color Doppler testicular Ultrasound for
testicular torsion,” Pediatrics, vol. 105, pp. 604-607.
3. D. Linda A. Baker, (2000) “An Analysis of Clinical
Outcomes Using Color Doppler Testicular Ultrasound
for Testicular Torsion,” Pediatric, vol. 105, pp. 604-606.
4. M. Nussbaum Blask AR, (2002), “Color Doppler
sonography and Scitigraphy of the testis: approspective,
comparative analysis in children with acute crotal pain,”
Pediatr Emerg Care, vol. 18, pp. 67-71.
5. S. D. Scott Carssar, (2008), “Role of Spectral
Doppler Sonography in the Evaluation of Partial
Testicular Torsion,” J Ultrasound Med, vol. 27, pp.
1629-1638.
6. R. e. a. Shukla, (1982), “Association of cold
weather with testicular torsion,” British medical journal,
vol. 285(6353), p. 1459, 1982.
7. S. B. Vijayaraghavan, (2006), “Sonographic
Differential Diagnosis of Acute Scrotum Real-time
Whirlpool Sign, a Key Sign of Torsion” J Ultrasound
Med 2006; 25:563–574
TÀI LIỆU THAM KHẢO
TÓM TẮT
Mục tiêu: Mô tả đặc điểm hình ảnh xoắn tinh hoàn trên siêu âm Triplex.
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Bệnh nhân đau bìu cấp đến khám tại phòng siêu âm cấp cứu Bệnh
viện Việt Đức được chẩn đoán xoắn tinh hoàn và được phẫu thuật từ tháng 3/2014 đến tháng 9/2015.
Kết quả: 32 ca chẩn đoán xoắn tinh hoàn, chẩn đoán sau phẫu thuật đúng 100% các trường hợp. Tuổi trung
bình 19,2 ± 5,1. Dấu hiệu “xoáy nước” tìm thấy ở 75% trường hợp, vị trí hay gặp là phía trên tinh hoàn 91,7%.
Dấu hiệu mất tín hiệu mạch bên tinh hoàn bị xoắn 31/32 (96,9%). Tinh hoàn tăng kích thước 27/32 (84,4%). Nhu
mô không đồng nhất 28/32, bình thường 3/32, giảm âm 1/32. Hình thái mào tinh hoàn biến đổi 25/32 trường hợp
(78,1%), trong đó hay gặp nhất là hình cầu 76%.
Kết luận: Siêu âm Triplex có giá trị trong chẩn đoán phân biệt xoắn tinh hoàn với các bệnh lí khác gây đau bìu cấp.
Từ khóa: Siêu âm Triplex, xoắn tinh hoàn.
Người liên hệ: Đỗ Việt Anh; Email: bsvietanh0612@gmail.com
Ngày nhận bài: 2.11.2015
Ngày chấp nhận đăng: 20.11.2015
Các file đính kèm theo tài liệu này:
dac_diem_hinh_anh_sieu_am_triplex_trong_chan_doan_xoan_tinh.pdf