4.3. Khoảng cách từ da đến khoang NMC
Trong nghiên cứu này đa phần trong khoảng 4 -
5cm với chọn kim đường giữa. Kết quả này có khác
biệt so với kết quả của Nguyễn Trung Kiên khi nghiên
cứu về đặc điểm gây tê NMC ngực để kiểm soát đau
sau phẫu thuật tầng trên ổ bụng trên 158 bệnh
nhân. Khoảng cách trung bình từ da đến khoang
NMC đường giữa là 6,3 ± 0,8cm; đường bên 6,5 ±
0,9cm [2].
4.4. Biến chứng và thất bại
Tỉ lệ thất bại chung của gây tê và giảm đau qua
catheter NMC chung lên đến 30%. Catheter nên để
ít nhất 5 cm trong khoang NMC để tránh di lệch [5].
Nguyên nhân có thể do di lệch catheter, tắc catheter.
Chúng tôi gặp 2% trường hợp tụt catheter trong quá
trình di chuyển bệnh nhân ra phòng hồi tỉnh. Cần
phải cố định chắc chắn bằng bằng dính và chú ý khi
di chuyển. Giảm đau không hiệu quả vào ngày thứ 2,
kiểm tra thấy catheter đã ra ngoài, phải rút và giảm
đau như thường qui đường tĩnh mạch.
Theo Tỉ lệ không xác định được khoang NMC
2,7% [9]. tỉ lệ này cũng tương đương tỉ lệ nêu trong
y văn. Để giảm tỉ lệ thất bại hoặc không đặt được
catheter các tác giả khuyên ứng dụng siêu âm ở
bệnh nhân béo phì, lớn tuổi hoặc có đặt dụng cụ cột
sống trước đó.
Chúng tôi gặp 2 trường hợp thủng màng cứng
(4%), theo Nimmo [8], tỷ lệ biến chứng của giảm đau
ngoài màng cứng là rất thấp. Thủng màng cứng 0,32
- 1,23%, tổn thương thần kinh 0,016 - 0,56%, thường
thoáng qua, khối máu tụ khoang ngoài màng cứng
0,0004 - 0,03%, áp xe khoang ngoài màng cứng 0,01
- 0,05%, ngộ độc thuốc tê hệ thần kinh trung ương
0,01 - 0,12%, catheter di chuyển 0,15 - 0,18%, ức
chế hô hấp 0,13 - 0,4%, tụt huyết áp 3 - 30%, ức chế
vận động 3%. Theo Giebler [4], không có di chứng
thần kinh vĩnh viễn, thủng màng cứng gặp 0,7%, đau
rễ là 0,2%. Tỷ lệ thủng màng cứng khi gây tê vùng
ngực giữa là 0,9%, vùng ngực cao là 0,4%, không có
trường hợp nào máu tụ ngoài màng cứng.
5 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 09/02/2022 | Lượt xem: 9 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đặc điểm kỹ thuật của giảm đau qua Catheter ngoài màng cứng ngực sau phẫu thuật bụng, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
73
Tạp chí Y Dược học - Trường Đại học Y Dược Huế Tập 7, số 4 - tháng 8/2017
JOURNAL OF MEDICINE AND PHARMACY
- Địa chỉ liên hệ:Nguyễn Văn Minh, email: nguyenvanminhdhy@yahoo.com
- Ngày nhận bài: 20/8/2017; Ngày đồng ý đăng: 12/9/2017, Ngày xuất bản: 15/9/2017
ĐẶC ĐIỂM KỸ THUẬT CỦA GIẢM ĐAU QUA CATHETER NGOÀI
MÀNG CỨNG NGỰC SAU PHẪU THUẬT BỤNG
Nguyễn Văn Minh
Bệnh viện Trường Đại học Y Dược Huế
Tóm tắt
Mục tiêu: Mô tả đặc điểm kỹ thuật của giảm đau qua catheter ngoài màng cứng ngực sau các phẫu thuật
tầng trên ổ bụng. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả tiến cứu, 50 bệnh nhân từ 18 tuổi
trở lên, (địa điểm nghiên cứu) có ASA I - III có chỉ định phẫu thuật vùng bụng trên được đặt catheter vào khoang
ngoài màng cứng ngực ở khe liên đốt T7 - T8 hoặc T8 - T9. Xác định khoang ngoài màng cứng bằng kỹ thuật
mất sức cản. Ghi nhận các thông số kĩ thuật về thất bại trong việc xác định khoang ngoài màng cứng, thủng
màng cứng, đường chọc kim, khoảng cách từ da đến khoang ngoài màng cứng, di lệch hoặc tắc catheter
trong quá trình giảm đau. Kết quả: Tỉ lệ thành công đến 98%, có 2% không xác định được khoang ngoài
màng cứng, 4% thủng màng cứng khi chọc kim. Chọc kim để đặt catheter đường giữa trong 80,9% đường
bên 19,1%. Khoảng cách da - đến khoang ngoài màng cứng từ 4 đến 5 cm chiếm 58%, 3 - 4 cm chiếm 24,5%
và trên 5 cm chiếm 18,4%. Có 2,04% catheter bị tắc khi kiểm tra sau luồn, 2,04% bị tuột catheter khi chuyển
bệnh nhân ra phòng hồi tỉnh, 2,04% tắc catheter tắc vào ngày thứ 2. Kết luận: Đặt catheter ngoài màng cứng
ngực trong giảm đau sau các phẫu thuật tầng trên ổ bụng có tỉ lệ thành công cao, khi thất bại với kĩ thuật chọc
kim đường giữa có thể chọc đường bên, cần chú ý chăm sóc catheter trong quá trình giảm đau.
Từ khóa: Đặc điểm kĩ thuật, giảm đau ngoài màng cứng ngực
Abstract
TECHNIQUE CHARACTERISTICS OF THORACIC EPIDURAL
ANALGESIA FOLLOWING ABDOMINAL SURGERY
Nguyen Van Minh
Hue University Hospital
Objective: To describe the technical characteristics of thoracic epidural analgesia after upper abdominal
surgery. Subjects and methods: A prospective descriptive study, 50 patients aged 18 years or older, with
ASA I - III, indicated upper abdominal surgery had epidural catheter placement at the thoracic interspinal
space of T7 - T8 or T8 - T9. The epidural space was determined by loss of resistance technique. Failure to
define the epidural space, perforation of the dura, median or paramedian line of needle insertion, distance
from the skin to the epidural space, displacement or catheter occlusion during analgesia were recorded.
Results: Success rate was 98%, the epidural space were not identified in 2%, perforation of the dura in 4%.
Needle insertion via median line was in 80.9% and paramedian one in 19.1%. The distance from the skin to
epidural space of 4 to 5 cm, 3-4 cm and over 5 cm was 58%, 24.5% and 18.4%, respectively. Catheter was
clogged immediately after placement when performing dose test was 2.04%, dislodgement of catheter when
transporting patients from the operating to the recovery room and occlusion on the second day was 2.04%.
Conclusion: Catheter insertion in analgesia following upper abdominal surgery has a high success rate, when
the median technique of needle insertion failed, the paramedian was an alternative. Care for the catheter
must be taken during pain management.
Keywords: Technical characteristics, thoracic epidural analgesia
1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Xu thế hiện nay trong các phẫu thuật lớn trong
ổ bụng là thúc đẩy hồi phục sớm sau phẫu thuật
(enhanced recovery after surgery - ERAS). Điều trị
đau hiệu quả là một trong những thành phần chính
giúp áp dụng phương pháp tiếp cận này thành công
[6].
Đau sau phẫu thuật là một vấn đề đã được
biết trước và có nhiều phương pháp dự phòng và
điều trị nhằm làm giảm nhẹ. Giảm đau sau phẫu
74
Tạp chí Y Dược học - Trường Đại học Y Dược Huế - Tập 7, số 4 - tháng 8/2017
JOURNAL OF MEDICINE AND PHARMACY
thuật là phần chăm sóc quan trọng, là một trong
những quan tâm hàng đầu của bệnh nhân khi phải
trải qua phẫu thuật. Được điều trị đau sau phẫu
thuật là quyền lợi của bệnh nhân, được xem như
một quyền con người theo tuyên bố Montreal năm
2011. Mặc dầu được quan tâm và chú ý như vậy,
nhưng các nghiên cứu gần đây cho thấy chỉ đạt
được những thành công khiêm tốn trong điều trị
đau, tỷ lệ bệnh nhân chịu đau sau phẫu thuật vẫn
còn cao, 53 - 80%. Ở Việt Nam, tỉ lệ này [3] lên đến
64,1%. Nguyên nhân là do thiếu phương tiện, kiến
thức, chưa áp dụng phương pháp giảm đau đa mô
thức. Ngoài ra do ngưỡng đau mỗi người mỗi khác,
chưa cá nhân hóa việc giảm đau.
Phẫu thuật vùng bụng trên là một trong những
phẫu thuật gây đau nhiều nhất do đường mổ lớn,
ngoài ra đau nhiều còn do động tác hô hấp. Đau gây
ra phản xạ ức chế cơ hoành qua tủy sống, đau sau
phẫu thuật được cho là nguyên nhân chính gây ra các
biến chứng hô hấp do đau làm hạn chế động tác hít
thở, ho, khạc, làm hạn chế vận động các cơ hô hấp.
Điều trị đau sau phẫu thuật không chỉ làm giảm
các tác hại trên hệ tim mạch, hô hấp, miễn dịch và
đông máu mà còn giúp hồi phục sức khỏe nhanh, là
sự chăm sóc tinh thần không thể thiếu được. Điều
trị đau cấp tốt làm giảm tỷ lệ đau mạn tính, nâng cao
chất lượng cuộc sống.
Có nhiều phương pháp giảm đau đã được áp
dụng sau các phẫu thuật lớn trong ổ bụng như tiêm
các thuốc giảm đau không steroid, tiêm thuốc họ
morphin vào bắp thịt hoặc tĩnh mạch; tiêm thuốc
morphin vào khoang dưới nhện. Tuy nhiên, phương
pháp giảm đau qua catheter ngoài màng cứng (NMC)
ngực bằng hỗn hợp thuốc tê kết hợp với thuốc họ
morphin được cho là “tiêu chuẩn vàng” trong điều
trị đau sau phẫu thuật vùng bụng trên [8].
Chưa có nhiều nghiên cứu mô tả chi tiết kỹ thuật
cũng như những thông số liên quan đến việc đặt
catheter khoang ngoài màng cứng ngực. Mục tiêu
của nghiên cứu này là mô tả đặc điểm kỹ thuật của
giảm đau qua catheter ngoài màng cứng ngực sau
các phẫu thuật tầng trên ổ bụng. (chưa thấy có mục
tiêu).
2. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Đối tượng nghiên cứu:
Nghiên cứu tiến hành trên 50 bệnh nhân từ 18
tuổi trở lên, có ASA I - III được chỉ định phẫu thuật
vùng bụng trên tại khoa Gây mê hồi sức, Bệnh viện
Trường Đại học Y Dược Huế từ tháng 5 năm 2016
đến tháng 6 năm 2017.
2.2. Phương pháp nghiên cứu
Nghiên cứu mô tả tiến cứu.
2.3. Các bước tiến hành
Bệnh nhân được giải thích khám tiền mê và
chuẩn bị trước phẫu thuật như thường qui. Tại
phòng mổ, bệnh nhân được đặt đường truyền ngoại
vi kim 18G, truyền dịch tinh thể 6 - 8 ml/kg. Tiền
mê midazolam 0,04mg/kg tĩnh mạch, các bệnh nhân
nhạy cảm đau dùng thêm fentanyl 1 µg/kg, không
quá 50 µg., thở oxy qua mũi, lưu lượng 3 lít/phút,
theo dõi điện tim, huyết áp tâm thu, huyết áp tâm
trương, SpO2 trên monitor Heyer.
Kỹ thuật đặt catheter vào khoang ngoài màng
cứng ngực: Bệnh nhân được đặt catheter ngoài
màng cứng ngực trước khi gây mê, tư thế nằm
nghiêng “cong lưng tôm” trên bàn mổ. Thầy thuốc
rửa tay, mặc áo, đeo găng vô trùng, sát khuẩn vùng
gây tê bằng betadin. Xác định vị trí để chọc kim ở
khe liên đốt T7 - T8 hoặc T8 - T9, đánh dấu. Đường
nối cực dưới hai xương bả vai ngang mức T7 hoặc
đếm từ gai sau đốt sống cổ 7 xuống. Các trường hợp
khó khăn đếm từ đốt T12 đếm lên. Trải săng lỗ vào
vị trí định gây tê. Gây tê tại chỗ bằng lidocain 1%
theo thứ tự trong da, dưới da, dây chằng. Chọc kim
mồi 18G, chọc kim Tuohy qua da khoảng 2 cm (chiều
vát của kim về phía đầu) theo hướng chếch 600, rút
nòng vào vị trí vị trí đã xác định T7 - T8 đường giữa,
lắp bơm tiêm 10 ml chứa 4 ml dung dịch NaCl 0,9%
có bóng khí vào kim Tuohy. Xác định khoang ngoài
màng cứng bằng kỹ thuật mất sức cản: Dùng ngón
cái và ngón trỏ tay trái tiến kim từ từ từng milimét,
mu bàn tay trái luôn tựa chắc trên lưng bệnh nhân
để việc đẩy kim được chính xác. Tay phải bơm nhẹ
vào piston tạo áp lực dương liên tục, khi đầu kim
chưa qua dây chằng vàng luôn thấy có sức cản lại ở
bơm tiêm và bóng khí nhỏ trong bơm tiêm bị biến
dạng. Kim đi qua dây chằng vàng có cảm giác “sựt”
và mất sức cản đột ngột trên bơm tiêm, dễ dàng
bơm NaCl 0,9% vào và bóng khí trong bơm tiêm
không bị biến dạng nữa. Sau đó, hút qua kim Tuohy
không có máu, dịch não tuỷ, luồn catheter đến mốc
18 - 20cm so với đuôi kim NMC, rút kim ra và rút
lui catheter và để nằm trong khoang ngoài màng
cứng 4 - 5 cm. Lắp đầu nối và bầu lọc vào đầu ngoài
catheter, cố định catheter bằng băng dính dọc theo
lưng ngực lên vai, ra trước, cố định trên thành ngực.
Làm liều test 3ml lidocain 2% (pha adrenalin 1/200
000 lấy 0,3ml bằng bơm tiêm 1ml trong đó có 15 µg
adrenalin) qua catheter ngoài màng cứng. Đặt bệnh
nhân nằm ngửa trở lại trên bàn mổ. Theo dõi trong
vòng 3 - 5 phút, nếu vào mạch máu tần số tim và
huyết áp tâm thu có thể tăng trên 20% trong vòng
30 - 60 giây. Hỏi bệnh nhân có cảm giác tê ở các ngón
chân để đánh giá catheter không nằm trong khoang
dưới nhện. Nếu không xác định được khoang NMC,
75
Tạp chí Y Dược học - Trường Đại học Y Dược Huế Tập 7, số 4 - tháng 8/2017
JOURNAL OF MEDICINE AND PHARMACY
chọc ở khe liên đốt T8 - T9 đường giữa, sau hai lần
không xác định được khoang ngoài màng cứng thì
chuyển sang chọc đường bên. Nếu vẫn không xác
định được khoang NMC xem như thất bại.
2.4. Các thông số đánh giá
Ghi nhận các thông số về số lần chọc kim, thất
bại trong việc xác định khoang ngoài màng cứng,
thủng màng cứng, chọc đường giữa hay đường bên,
khoảng cách từ da đến khoang ngoài màng cứng, di
lệch hoặc tắc catheter trong quá trình giảm đau
3. KẾT QUẢ
Qua nghiên cứu 50 bệnh nhân có chỉ định phẫu thuật điều trị các bệnh lí tầng trên ổ bụng, kết quả về đặc
điểm chung như Bảng 3.1.
3.1. Đặc điểm chung về nhóm nghiên cứu
Bảng 3.1. Chiều cao, cân nặng, BMI của bệnh nhân nghiên cứu (n = 50)
Tuổi (năm) 51,7 ± 11,8
Giới (nam/nữ) 29 (58%), 21 (42%)
Chiều cao (cm) 162,6 ± 12,4
Cân nặng (kg) 49,85 ± 14,89
BMI 18,8 ± 4,4
Đa số bệnh nhân có chỉ số BMI bình thường, không có bệnh nhân béo phì.
3.2. Các chỉ tiêu đánh giá về kỹ thuật đặt catheter
Bảng 3.2. Các thông số liên quan kỹ thuật đặt catheter (n = 50)
n %
Chọc kim 1 lần 30 60
Chọc kim từ 2 lần trở lên 20 40
Thay đổi khe liên đốt 15 30
Không xác định được khoang NMC 1 2
Thủng màng cứng 2 4
Đa số các trường hợp chọc kim 1 lần xác định được khoang ngoài màng cứng. Tuy nhiên vẫn có 2% trường
hợp không xác định được khoang NMC.
Bảng 3.3. Đường chọc kim để đặt catheter (n = 49)
n %
Đường giữa 41 83,7
Đường bên 8 16,3
Chọc kim NMC đường giữa chiếm đa số, có 16,3% không chọc đường đường giữa, sau khi đã chuyển khe
liên đốt phải chọc kim và luồn catheter đường bên.
Bảng 3.4. Khoảng cách da - đến khoang NMC (n = 49)
n %
Từ 3 đến 4 cm 12 24,5
Từ 4 đến 5 cm 28 57,1
Trên 5cm 9 18,4
Khoảng cách da - khoang NMC từ 4 - 5 cm chiếm tỉ lệ cao, nhưng vẫn trải đều cho các khoảng cách 3 - 4cm
và trên 5 cm.
Bảng 3.5. Thông số liên quan catheter (n = 49)
n %
Tắc catheter ngay sau luồn vào khoang NMC 1 2,04
Tụt catheter vào ngày thứ 2 1 2,04
Tụt catheter trong qua trình di chuyển 1 2,04
76
Tạp chí Y Dược học - Trường Đại học Y Dược Huế - Tập 7, số 4 - tháng 8/2017
JOURNAL OF MEDICINE AND PHARMACY
Có 2% trường hợp sau khi luồn, kiểm tra phát
hiện tắc catheter, phải chọc lại kim ở vị trí thay
catheter ở khe liên đốt T8-T9.
4. BÀN LUẬN
4.1. Đặc điểm chung bệnh nhân nghiên cứu
Về tuổi bệnh nhân trong nghiên cứu này tương
đương với các tác giả trong nước. Bệnh nhân có chỉ
định cắt dạ dày do ung thư chiếm đa số, tuổi trung
bình 51,7 ± 11,8 tuổi. Tuổi trung bình trong nghiên
cứu của Bùi Ngọc Đức ở các bệnh nhân có phẫu
thuật lớn trong ổ bụng là 54 ± 10,6 tuổi [1]. Tuổi
cũng là yếu tố ảnh hưởng đến kỹ thuật gây tê, tuổi
càng lớn, các khe liên đốt càng hẹp càng làm khó cho
kỹ thuật đặt catheter, nhất là đặt ở đoạn ngực.
Về cân nặng và BMI, bệnh nhân có BMI càng cao,
việc đặt catheter càng khó do khó khăn về việc xác
định mốc giải phẫu cũng như đặt tư thế. Bệnh nhân
trong nhóm nghiên cứu có các vấn đề về đường tiêu
hóa, ảnh hưởng đến việc ăn uống và vấn đề dinh
dưỡng, không có bệnh nhân béo phì. Đây cũng là
yếu tố thuận lợi cho việc xác định mốc giải phẫu và
đặt catheter.
4.2. Thông số liên quan đến kỹ thuật đặt
catheter
Phẫu thuật có tầng trên ổ bụng trên lâm sàng
gồm các phẫu thuật chủ yếu là cắt dạ dày, mở ống
mật chủ lấy sỏi, cắt đuôi tụy, cắt lách, cắt nang ống
mật chủ, nối ống gan chung hỗng tràng Roux - en -Y
và có đường mổ trắng giữa ức - rốn. Đau sau phẫu
thuật bụng có nguồn gốc do đường rạch da - đau
bản thể và bóc tách, thao tác trên các tạng - đau các
tạng. Các xung động thần kinh do đường rạch trên
thành bụng được dẫn truyền về tủy sống qua các
dây thần kinh tủy sống chi phối khoanh tủy từ T6,
ngang mức hõm ức đến T10, ngang mức rốn. Như
vậy các khoanh tủy chi phối từ T6 đến T10. Vị trí đặt
catheter khoang NMC cần lựa chọn thích hợp với
vị trí rạch da giúp tối ưu hóa giảm đau. Khi truyền
thuốc giảm đau vào vị trí ức chế cảm giác phù hợp
với vị trí rạch da tạo ra mức độ giảm đau hiệu quả và
hạn chế tác dụng không mong muốn như ức chế vận
động chi dưới, bí tiểu hoặc tụt huyết áp. Các dữ liệu
cho thấy khi vị trí đặt catheter không phù hợp với vị
trí rạch da dẫn đến giảm đau không hiệu quả, cần
điều chỉnh catheter sau đặt hoặc rút catheter sớm.
Khi đặt catether vào vị trí trung tâm các khoanh tủy
dự kiến cần phong bế sẽ dẫn đến phân phối thuốc
tập trung sẽ giảm liều thuốc tiêu thụ từ đó giảm tác
dụng không mong muốn do thuốc gây ra.
Cần đặt catheter ở khe liên đốt T7-T8 hoặc T8-
T9 [7]. Về đặc điểm giải phẫu, ở vùng này các mõm
gai chếch xuống dưới nên việc chọc kim khó khăn
hơn và cần chọc kim chếch đến 60 độ so với mặt da.
Đây là kĩ thuật tương đối khó. Các tác giả nước ngoài
khuyên nên chọc kim đường bên hoặc đường cạnh
mõm gai [8].
4.3. Khoảng cách từ da đến khoang NMC
Trong nghiên cứu này đa phần trong khoảng 4 -
5cm với chọn kim đường giữa. Kết quả này có khác
biệt so với kết quả của Nguyễn Trung Kiên khi nghiên
cứu về đặc điểm gây tê NMC ngực để kiểm soát đau
sau phẫu thuật tầng trên ổ bụng trên 158 bệnh
nhân. Khoảng cách trung bình từ da đến khoang
NMC đường giữa là 6,3 ± 0,8cm; đường bên 6,5 ±
0,9cm [2].
4.4. Biến chứng và thất bại
Tỉ lệ thất bại chung của gây tê và giảm đau qua
catheter NMC chung lên đến 30%. Catheter nên để
ít nhất 5 cm trong khoang NMC để tránh di lệch [5].
Nguyên nhân có thể do di lệch catheter, tắc catheter.
Chúng tôi gặp 2% trường hợp tụt catheter trong quá
trình di chuyển bệnh nhân ra phòng hồi tỉnh. Cần
phải cố định chắc chắn bằng bằng dính và chú ý khi
di chuyển. Giảm đau không hiệu quả vào ngày thứ 2,
kiểm tra thấy catheter đã ra ngoài, phải rút và giảm
đau như thường qui đường tĩnh mạch.
Theo Tỉ lệ không xác định được khoang NMC
2,7% [9]. tỉ lệ này cũng tương đương tỉ lệ nêu trong
y văn. Để giảm tỉ lệ thất bại hoặc không đặt được
catheter các tác giả khuyên ứng dụng siêu âm ở
bệnh nhân béo phì, lớn tuổi hoặc có đặt dụng cụ cột
sống trước đó.
Chúng tôi gặp 2 trường hợp thủng màng cứng
(4%), theo Nimmo [8], tỷ lệ biến chứng của giảm đau
ngoài màng cứng là rất thấp. Thủng màng cứng 0,32
- 1,23%, tổn thương thần kinh 0,016 - 0,56%, thường
thoáng qua, khối máu tụ khoang ngoài màng cứng
0,0004 - 0,03%, áp xe khoang ngoài màng cứng 0,01
- 0,05%, ngộ độc thuốc tê hệ thần kinh trung ương
0,01 - 0,12%, catheter di chuyển 0,15 - 0,18%, ức
chế hô hấp 0,13 - 0,4%, tụt huyết áp 3 - 30%, ức chế
vận động 3%. Theo Giebler [4], không có di chứng
thần kinh vĩnh viễn, thủng màng cứng gặp 0,7%, đau
rễ là 0,2%. Tỷ lệ thủng màng cứng khi gây tê vùng
ngực giữa là 0,9%, vùng ngực cao là 0,4%, không có
trường hợp nào máu tụ ngoài màng cứng.
5. KẾT LUẬN
Đặt catheter ngoài màng cứng ngực trong giảm
đau sau các phẫu thuật tầng trên ổ bụng có tỉ lệ
thành công đến 98%, có 2% không xác định được
khoang ngoài màng cứng, 4% thủng màng cứng khi
chọc. Chọc kim để đặt catheter đường giữa trong
80,9% đường bên 19,1%. Khoảng cách da - đến
khoang ngoài màng cứng từ 4 đến 5 cm chiếm 58%,
77
Tạp chí Y Dược học - Trường Đại học Y Dược Huế Tập 7, số 4 - tháng 8/2017
JOURNAL OF MEDICINE AND PHARMACY
3 - 4 cm chiếm 24,5% và trên 5 cm chiếm 18,4%.
Có 2,04% catheter bị tắc, 2,04% bị tuột cathetẻ khi
chuyển bệnh nhân ra phòng hồi tỉnh, 2,04% catheter
bị tắc vào ngày thứ 2.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bùi Ngọc Đức, Lê Hồng Chính, Phan Tôn Ngọc Vũ,
Nguyễn Văn Chừng (2014), “Hiệu quả giảm đau của gây
tê ngoài màng cứng đoạn ngực sau phẫu thuật lớn vùng
bụng”, Tạp chí y học thực hành, số 939, tr. 77 - 80.
2. Nguyễn Trung Kiên (2015), “Study the features of
thoracic epidural block technique for postoperative pain
management”, Tạp chí Y Dược học quân sự, 40(7), tr. 90-5.
3. Trần Xuân Yên, Nguyễn Văn Minh (2016), “Tỷ lệ và
các yếu tố nguy cơ của mức độ đau sau phẫu thuật bụng”,
Tạp chí Y Dược học, Số đặc biệt, tr. 113 - 9.
4. Giebler R.M., Scherer R.U., Peters
J. (1997), “Incidence of neurologic
complications related to thoracic epidural catheterization”,
Anesthesiology, 86 (1), pp. 55-63.
5. Hermanides J., Hollmann M.W., Stevens M.F., Lirk
P. (2012), “Failed epidural: causes and management”, Br J
Anaesth, 109, pp. 144–54.
5. Hughes M. J., Ventham N. T., McNally S., Harrison
E., Wigmore S. (2014), “Analgesia after open abdominal
surgery in the setting of enhanced recovery surgery: a
systematic review and meta-analysis’, JAMA Surgery”,
149(12), pp. 224 -30.
7. Hurley R.W., Murphy J.D., Wu C.L. (2015), “Acute
Postoperative Pain”, Miller’s Anesthesia 2015, 2974-98.
8. Manion S.C., Brennan T.J., (2011), “Thoracic Epidural
Analgesia and Acute Pain Management”, Anesthesiology;
115, pp. 181 - 8.
9. Nimmo S.M. (2004), “Benefit and outcome after
epidural analgesia”, Continuing Education in Anaesthesia,
Critical Care & Pain, 4(2).
10. Rigg J.R., Jamrozik K., Myles P.S., et al. (2002),
“Epidural anaesthesia and analgesia and outcome of
major surgery: a randomised trial”, Lancet, 359, pp.1276-
82
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- dac_diem_ky_thuat_cua_giam_dau_qua_catheter_ngoai_mang_cung.pdf