Đặc điểm lâm sàng, bệnh học của 39 trường hợp u dây sống ở bệnh viện chợ Rẫy từ năm 2003 đến 2011

Chúng tôi cũng xem lại tiêu bản được lưu giữ của 39 trường hợp này đã ghi nhận được 37 trường hợp (chiếm 94,9%) có đặc điểm giải phẫu bệnh là u dây sống qui ước với hình ảnh đặc trưng là các tế bào dây sống nhân tăng sắc kiềm, hình tròn bào tương sáng, tế bào hình đa giác xếp thành từng chuỗi, từng bè trong mô nền nhầy, nhiều không bào. 2 trường hợp còn lại (chiếm 5,1%) có đặc điểm có chứa các đảo sụn hyaline hóa hoặc mô sụn. Không có trường hợp nào thuộc dạng thoái biệt hóa. So sánh với các tác giả khác trong y văn chúng tôi thấy có sự phù hợp về tỉ lệ giữa các nhóm đặc điểm mô học(8,9). Cả 2 trường hợp biệt hóa sụn đều nằm ở vùng sàn sọ. Những trường hợp biệt hóa sụn cần phân biệt với sarcom sụn và chúng tôi tiến hành nhuộm hóa mô miễn dịch để xác định chẩn đoán. Cả 2 trường hợp u dây sống của chúng tôi đều dương tính với Cytokeratin trọng lượng phân tử thấp, EMA và S100. Kết quả này cũng phù hợp với y văn(3,8,9). Như vậy hóa mô miễn dịch có vai trò rất quan trọng để chẩn đoán phân biệt u dây sống với các loại u khác đặc biệt là sarcom sụn, xương, u tế bào Schwann. Phẫu thuật vẫn là điều trị đầu tay và là tiêu chuẩn vàng trong điều trị bệnh triệt để và ngăn ngừa tái phát. Tỉ lệ tái phát cũng như tiên lượng sống còn của bệnh nhân phụ thuộc vào việc biên phẫu thuật có còn tế bào u hay không. Xạ trị chỉ là điều trị bổ trợ trong trường hợp biên phẫu thuật còn tế bào u. Ngày nay, tiêu chuẩn chọn lựa của điều trị vẫn là cắt trọn u được nhiều phẫu thuật viên ưa thích. Tỉ lệ cắt trọn u thay đổi theo nhiều tác giả khác nhau và theo các vị trí u khác nhau.Tác giả Gay đã báo cáo tỉ lệ phẫu thuật cắt trọn cho các trường hợp u dây sống ở vị trí sàn sọ là 47%(3). Tỉ lệ này trong nghiên cứu của tác giả Mefty và Borba là 43%(1). Trong khi đó các tác giả Osaka và Fuchs đã báo cáo tỉ lệ cắt trọn u ở vùng cùng cụt là gần 50%(2,4). Trong nghiên cứu của chúng tôi, phẫu thuật viên chọn lựa cắt trọn u trong 38,46% trường hợp đối với nhóm u ở vùng cùng cụt và 30% đối với nhóm u ở vùng sàn sọ. Đối với những trường hợp cắt không trọn u thì xạ trị là một phương pháp điều trị bổ trợ để giảm tỉ lệ u tái phát sau này. Sau phẫu thuật, có 13 bệnh nhân được chỉ định xạ trị (chiếm 33,33%) và 2 bệnh nhân được chỉ định xạ phẫu bằng dao gamma (chiếm 5,13%).

pdf6 trang | Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 09/02/2022 | Lượt xem: 19 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đặc điểm lâm sàng, bệnh học của 39 trường hợp u dây sống ở bệnh viện chợ Rẫy từ năm 2003 đến 2011, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nghiên cứu Y học  Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 1 * 2013 Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Bệnh Viện Chợ Rẫy Năm 2012 588 ĐẶC ĐIỂM LÂM SÀNG, BỆNH HỌC CỦA 39 TRƯỜNG HỢP   U DÂY SỐNG Ở BỆNH VIỆN CHỢ RẪY TỪ NĂM 2003 ĐẾN 2011  Trần Minh Thông*, Vương Gia Huy*  TÓM TẮT  Tổng quan: U dây sống là một loại u hiếm gặp, tiến triển chậm, xâm lấn, phá hủy và thay thế mô xương ở  vị trí mà chúng phát triển. U dây sống có nguồn gốc từ các tế bào nguyên sống tồn lưu dọc theo trục thần kinh –  não tủy. U dây sống thường xuất hiện sau 60 tuổi. U dây sống là loại ung thư độ ác thấp và có tỉ lệ tái phát cao.  Tuy nhiên cũng có những trường hợp biểu hiện độ ác cao, xâm lấn và di căn xa. Điều trị chính là phẫu thuật cắt  trọn u kết hợp với xạ trị sau mổ.  Phương pháp: Cắt ngang mô tả: từ năm 2003 đến năm 2011, 39 trường hợp u dây sống đã được chẩn đoán  xác định bằng kết quả giải phẫu bệnh tại bệnh viện Chợ Rẫy. Chúng tôi hồi cứu lại tất cả hồ sơ bệnh án của các  trường hợp này và thu thập dữ liệu dựa trên phiếu thu thập số liệu tiêu chuẩn bao gồm các thông tin về tuổi khởi  bệnh, giới, triệu chứng lâm sàng, tiền căn, chẩn đoán giải phẫu bệnh, phương pháp mổ và thời gian nằm viện sau  mổ. Chúng tôi cũng xem lại tất cả các phim CT scanner và MRI để xác định vị trí u và kích thước u trước mổ.  Kết quả: Trong số 39 bệnh nhân trong nghiên cứu của chúng tôi tỉ lệ nam: nữ là xấp xỉ 1. Độ tuổi khởi  bệnh trung bình là 45 tuổi và nhóm tuổi xuất hiện bệnh nhiều nhất là từ 40 ‐ 60 tuổi (chiếm hơn 50%). Triệu  chứng chính khiến bệnh nhân đi khám là các triệu chứng đau. Tỉ lệ phân bố u theo vị trí lần lượt là vùng sàn sọ  (58,9%), vùng cùng cụt (35,9), vùng cột sống cổ và thắt lưng (2,6%). Đường kính trung bình của u đo được  trên phim CT hoặc MRI là 6,85 cm và chỉ số này thay đổi theo vị trí u: vùng cùng cụt (10,31 cm), thắt lưng  (7cm), sàn sọ (4,62 cm), cổ (3cm). Dạng u dây sống cổ điển  là dạng mô học thường thấy nhất chiếm 94,9%.  Phẫu thuật cắt trọn chỉ thực hiện được trong 31,43% số trường hợp được phẫu thuật.  Kết luận: U dây sống là loại u xương hiếm gặp, phát triển chậm, phá hủy và thay thế mô xương. U thường  xảy ra ở người trung niên. Vị trí u thường gặp nhất là ở vùng sàn sọ và vùng cùng cụt. Chẩn đoán xác định  bằng kết quả giải phẫu bệnh kết hợp hóa mô miễn dịch. Phẫu thuật cắt trọn u vẫn là tiêu chuẩn vàng trong điều  trị bệnh tuy nhiên tỉ lệ cắt trọn u không cao do đó cần có những điều trị bổ trợ khác sau mổ.  ABSTRACT  CLINICOPATHOLOGICAL CHARACTERISTICS OF 39 CASES WITH CHORDOMA AT CHO RAY  HOSPITAL FROM 2003 TO 2011  Tran Minh Thong, Vuong Gia Huy  * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 17 ‐ Supplement of No 1 ‐ 2013: 588 ‐ 593  Background: Chordomas were rare, aggresively slow ‐ growing neoplasms which destroyed and replaced the  bone in which it developed. They derived from embryonic remnants of the notochord along the neuraxis. Median  age was around 60 years. They were low ‐ grade cancer and have high recurrence incident. However, high‐grade  cases invading surrounding tissues and metastasizing occured in a minority of patients. The golden goal therapy  was gross total resection combined with post‐operative radiotherapy.  Methods: Cross section descriptive: from 2003 to 2011, 39 patients with chordoma were confirmed by the  pathological  diagnosis  at Cho Ray  hospital. We  reviewed  their medical  documents.  The  clinical  information  * Khoa Giải Phẫu bệnh, BV Chợ Rẫy   Tác giả liên lạc: BSCKII Trần Minh Thông,  ĐT: 0918202941,   Email: tranmthong2003@yahoo.com  Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 1 * 2013  Nghiên cứu Y học Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Bệnh Viện Chợ Rẫy Năm 2012 589 collected by using a standardized data collection form consisted of age at presentation, gender, clinical symptoms,  tumor location, operative procedures, post‐operative complications, and total post‐operative hospitalized days. We  also verified all the CT scanners and MRIs to determine the preoperative location and size of the tumors.  Result: There was no predilection in sex ratio. The mean of age at presentation was 45 and the most affected  group age was from 40 to 60 (more than 50%). Pain‐related symptom was the leading chief complaint. 58.9% of  chordomas involve the skull base, 35,9% occur at the sacrococcygeal region, and 5,2% are found in the vertebral  column. The average of largest diameter based on CT scanners or MRI was 6.85 cm and it depended on the tumor  site: sacrococcygeal (10.31cm); lumbar (7.0cm); skull base (4,62cm); cervical (3.0cm). The conventional chordoma  was  the most common histopathology  type  (94,9%). Gross  total  resection could performed  in only 31,43% of  operated cases.   Conclusion:  Chordomas were uncommon  bone  tumors,  slow‐growing. They  destroyed  and  replaced  the  bone tissues. They usually occurred in middle‐age. The most common position was skull base and sacrococcygeal.  Final diagnosis was made by histopathology  combined with  immunohistochemistry. Gross  total  resection was  still  golden  goal  therapy. However,  total  resection  rate was  low  and  the patients needed  other post‐operative  therapies.  ĐẶT VẤN ĐỀ  U dây sống là một loại u xương hiếm gặp,  có  độ  ác  thấp.  Tuổi  khởi  bệnh  trung  bệnh  thường  là  60  tuổi. Nếu u  bắt nguồn  từ  vùng  sàn  sọ  thì  tuổi  khởi  bệnh  sớm  hơn(8,9).  U  thường gặp ở vùng cùng cụt, sàn sọ và các vị  trí  khác  của  cột  sống(6,7,8,9,10)  Triệu  chứng  lâm  sàng thường biểu hiện triệu chứng đau không  đặc hiệu, trùng lắp với nhiều bệnh cảnh khác.  Hình ảnh học của u có vai trò gợi ý chẩn đoán  và chẩn  đoán xác  định  được khẳng  định nhờ  chẩn đoán giải phẫu bệnh sau mổ kết hợp với  hóa mô miễn dịch. Về mặt mô học u dây sống  được chia thành 3 nhóm: qui ước, sụn và thoái  biệt hóa. Hình ảnh mô học điển hình của u dây  sống  cho  thấy  tân  sản  các  tế  bào  dây  sống  nhân tăng sắc kiềm, hình tròn bào tương sáng,  tế bào hình đa giác xếp thành từng chuỗi, từng  bè  trong mô  nền  nhầy,  nhiều  không  bào.  U  dây  sống  thoái  biệt  hóa  chiếm  dưới  5%  số  trường  hợp  có  hình  ảnh  của  tế  bào  sarcom  dạng hình  thoi. Phẫu  thuật  cắt  trọn u  vẫn  là  phương  pháp  điều  trị  chính,  tuy  nhiên  phẫu  thuật  lấy u  thường không  triệt  để và  cần  các  phương  pháp  điều  trị  khác  sau mổ.  Tỉ  lệ  tái  phát của u sau mổ cao.  Mục tiêu nghiên cứu   Chúng  tôi  tiến hành nghiên  cứu nhằm  xác  định các đặc điểm giải phẫu bệnh và  lâm sàng  của 39 trường hợp u dây sống.  ĐỐI TƯỢNG ‐ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU  Đối tượng  Các bệnh nhân có kết quả giải phẫu bệnh xác  định  là u dây sống, được điều  trị  tại bệnh viện  Chợ Rẫy từ năm 2003 đến năm 2011 và có hồ sơ  bệnh án được lưu trữ.  Phương pháp nghiên cứu  Tất cả dữ  liệu của các bệnh nhân  thỏa điều  kiện chọn mẫu được ghi chép vào một bảng thu  thập  số  liệu  thống nhất. Các dữ  liệu  lâm  sàng  gồm dịch  tễ  lâm  sàng  (tuổi, giới, nghề nghiệp,  địa chỉ);  triệu chứng cơ năng;  triệu chứng  thực  thể. Các dữ  liệu  cận  lâm  sàng  gồm  công  thức  máu, kết quả giải phẫu bệnh, các kết quả hình  ảnh học (chụp cắt lớp điện toán (CT scan) hoặc  chụp  cộng hưởng  từ  (MRI)), kết quả  sinh  thiết  trước mổ  (nếu  có). Các  dữ  liệu  liên  quan  đến  điều  trị  như  phương  pháp mổ,  thời  gian  nằm  viện sau mổ, các biến chứng sau mổ.  Nhập số liệu bằng Excel 2007, thống kê bằng  Stata10.  KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU  Các  thông  tin về dịch  tễ học, hình  ảnh học  Nghiên cứu Y học  Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 1 * 2013 Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Bệnh Viện Chợ Rẫy Năm 2012 590 thể hiện trong bảng 1 dưới đây:    Bảng 1: Tuổi, giới, vị trí và kích thước u  Trung bình Tần số (%) Tuổi khởi bệnh (N=39) 45,31 ± 17,08 (Min: 7, Max: 76) Giới Nam 19 (48,7%) Nữ 20 (51,3%) U dây sống tái phát (N=39) Có 9 (23,1%) Không 30 (76,9%) Vị trí u (N=39) Vùng cùng cụt 14 (35,9%) Sàn sọ 23 (58,9%) Cột sống thắt lưng 1 (2,6%) Cột sống cổ 1 (2,6%) Đường kính u trên CTscan/MRI (cm) (N=36) 6,85 ± 4,15 (Min: 0,5, Max: 19) Vùng cùng cụt (N=14) 10,31 ± 4,4 Sàn sọ (N=20) 4,62 ± 1,90 Cột sống. thắt lưng (N=1) 7 Cột sống cổ (N=1) 3 Trong 39 bệnh nhân, độ tuổi khởi bệnh nhỏ  nhất ghi nhận  là 7  tuổi,  lớn nhất  là 76  tuổi. Sự  phân  bố  bệnh  theo  nhóm  tuổi  được  thể  hiện  trong bảng 2.  Bảng 2: Tần suất mắc bệnh theo nhóm tuổi  Nhóm tuổi N Tần suất (%) <20 3 7,69 21 – 30 4 10,26 31 – 40 7 17,95 41 – 50 9 23,08 51 – 60 11 28,21 61 – 70 2 5,13 >70 3 7,69 Bảng 3 ghi nhận tỉ lệ các lý do nhập viện. Lý  do liên quan đến triệu chứng đau chiếm tỉ lệ hơn  50%.  Bảng 3: Tần suất các lý do nhập viện  Lý do nhập viện n Tần suất (%) Đau đầu 12 30,77 Đau hạ vị 1 2,56 Đau lưng 6 15,38 Đau mông 2 5,13 Giảm thị lực 3 7,69 Nhìn đôi 3 7,69 Tê/yếu 2 chân 3 7,69 Tê nửa mặt 2 5,13 Bí tiểu 2 5,13 Sờ thấy u sau tai 1 2,56 Khó nuốt 1 2,56 Nghẹt mũi 1 2,56 Sờ thấy u vùng cùng cụt 1 2,56 Lé ngoài 1 2,56 Tổng 39 100 Chúng tôi cũng khảo sát lại vị trí của u dựa  trên  phim  CT  hoặc MRI  và  chúng  tôi  đã  ghi  nhận được  tỉ  lệ  từng nhóm vị  trí u đã  thể hiện  trên  bảng  1.  Trong  39  bệnh  nhân  có  36  bệnh  nhân được chỉ định chụp CT hoặc MRI và còn  lưu  trữ phim  trong  hồ  sơ. Những  trường  hợp  không  có phim CT hoặc MRI  thì vị  trí u  được  chúng  tôi  ghi  nhận  lại  dựa  theo  tường  trình  phẫu thuật hoặc nội soi sinh thiết. Trong nhóm u  ở  vùng  sàn  sọ  thì  vị  trí  u  ở  vùng  bản  dốc  là  thường gặp nhất (chiếm 39,13%) và tiếp theo là  vùng hố yên (chiếm 21,74%).  Hình 1: MRI: u dây sống nằm ở vùng bản dốc `MRI: u dây sống kích thước lớn ở vùng cùng cụt chèn ép trực tràng  Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 1 * 2013  Nghiên cứu Y học Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Bệnh Viện Chợ Rẫy Năm 2012 591 Về  đặc  điểm  mô  học  của  39  trường  hợp  chúng tôi ghi nhận được dạng mô học qui ước là  dạng thường gặp nhất chiếm 94,9%, có 2 trường  hợp  dạng  biệt  hóa  sụn  chiếm  5,1%  và  0  có  trường hợp thoái biệt hóa.   Trong 35 bệnh nhân được phẫu  thuật, có 11  bệnh nhân được cắt trọn u (chiếm 31,4%). Sau đây  là bảng 4 phân bố tỉ lệ cắt trọn u theo vị trí u:  Hình 2: tế bào u có bào tương sáng chứa glycogen xếp  thành túi tạo thùy H‐E x 200:  Hình 3: tế bào u xâm lấn mô xương H‐E x 200:  Hình 4: tế bào u chế tiết nhầy trong mô đệm H‐E x  200:   Hình 5: tế bào u có nhân không điển hình H‐E x 200:   Hình 6: các tế bào u dương mạnh phần bào tương CK  AE1/AE3 x 200:  Hình 7: các tế bào u dương tính ở phần màng và bào  tương EMA x 400:  Nghiên cứu Y học  Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 1 * 2013 Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Bệnh Viện Chợ Rẫy Năm 2012 592 Hình 8: Các tế bào u dương tính ở phần bào tương  S100 x 400:  Bảng 4: Số trường hợp cắt trọn u và cắt không trọn u  theo vị trí u  Vị trí u Cắt trọn u Cắt không trọn u Vùng cùng cụt 5 8 Sàn sọ 6 14 Cột sống thắt lưng 0 1 Cột sống cổ 0 1 Tổng 11 24 BÀN LUẬN  Trong nghiên cứu của chúng tôi thì tỉ lệ nam:  nữ xấp xỉ 1. Tuổi khởi bệnh trung bình là 45 và  nhóm tuổi phát hiện u gặp nhiều nhất là từ 40 ‐  60 tuổi (chiếm hơn 50%). Độ tuổi khởi bệnh trẻ  nhất  là 7  tuổi gặp  ở vị  trí  cột  sống  cổ,  độ  tuổi  khởi bệnh trung bình của nhóm u ở vùng sàn sọ  quanh vùng bướm chẩm là 43 tuổi trong khi đó  độ tuổi khởi bệnh trung bình ở vùng cùng cụt là  53 tuổi và sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê  (p=0,0001). Điều này có thể giải thích do các khối  u trong sọ hoặc ở vùng cột sống cổ chỉ cần kích  thước nhỏ cũng đã có thể gây triệu chứng trong  khi  đó  các khối u  ở vùng  cùng  cụt  thường  chỉ  gây  triệu  chứng khi u  đã phát  triển  trong một  thời gian dài và kích thước u đã lớn. Chúng tôi  cũng xem xét lại kích thước u trên phim CT hoặc  MRI của các bệnh nhân và chúng tôi thấy có sự  phù hợp với nhận định này. Nếu u ở vùng cùng  cụt thì đường kính trung bình của u đo được là  10,31 cm, trong khi đó u ở vùng cổ và vùng sàn  sọ thì đường kính trung bình lần lượt là 3 và 4,62  cm và  sự  khác  biệt  về  đường  kính  trung  bình  giữa các vị trí có ý nghĩa thống kê (p=0,0003).   Chúng  tôi  ghi  nhận  được  trong  39  trường  hợp  bệnh  có  9  trường  hợp  (chiếm  23,1%)  đã  từng được phẫu thuật u dây sống trong quá khứ  và nay u  tái phát  tại vị  trí  cũ với  thời gian  tái  phát trung bình là 4,4 năm. Tác giả Tamaki báo  cáo  tỉ  lệ u  tái phát  sau 3 năm  là 29% và  sau 5  năm là 49%(5). Theo nhiều nghiên cứu thì tỉ lệ u  tái phát có liên quan với việc biên phẫu thuật có  còn tế bào u hay không. Do vậy vai trò của sinh  thiết lạnh trong mổ rất cần thiết để xác định biên  phẫu thuật an toàn.   Các  triệu  chứng  đau  trong  đó  đau  đầu  (chiếm 30,77%) và đau  lưng (chiếm 15,38%)  là  các  triệu  chứng  chính  khiến  bệnh  nhân  phải  nhập viện. Chúng tôi xem xét lại phim và biên  bản tường trình phẫu thuật của 39 trường hợp  đã ghi nhận vị trí u thường gặp ở vùng sàn sọ  chiếm  58,9%,  vùng  cùng  cụt  35,9%,  vùng  cột  sống khác 5,2% và sự khác biệt giữa các vị  trí  có  ý  nghĩa  thống  kê  với  p  =  0,0001.  Triệu  chứng  lâm sàng có  liên hệ mật  thiết với vị  trí  u... Khi xem xét sự phân bố u theo vị trí trong  nghiên cứu chúng  tôi có sự khác biệt với một  số tác giả trên thế giới. Chẳng hạn theo tác giả  Boriani (2006) vị trí thường thấy nhất của u là  ở vùng cột sống, kế đến  là sàn sọ và các vị trí  khác(6,7,8,9,10). Điều này có thể giải thích do mẫu  nghiên cứu của chúng  tôi được  lấy  từ chuyên  khoa phẫu thuật Ngoại thần kinh đại diện cho  một dân số lớn đến khám bệnh.  Chúng  tôi  cũng  xem  lại  tiêu bản  được  lưu  giữ của 39 trường hợp này đã ghi nhận được 37  trường hợp (chiếm 94,9%) có đặc điểm giải phẫu  bệnh  là u dây  sống  qui  ước  với  hình  ảnh  đặc  trưng là các tế bào dây sống nhân tăng sắc kiềm,  hình  tròn bào  tương  sáng,  tế bào hình  đa giác  xếp  thành  từng  chuỗi,  từng  bè  trong mô  nền  nhầy,  nhiều  không  bào.  2  trường  hợp  còn  lại  (chiếm 5,1%) có đặc điểm có chứa các  đảo  sụn  hyaline hóa hoặc mô sụn. Không có trường hợp  nào  thuộc dạng  thoái biệt hóa. So sánh với các  tác giả  khác  trong  y  văn  chúng  tôi  thấy  có  sự  phù hợp  về  tỉ  lệ  giữa  các  nhóm  đặc  điểm mô  học(8,9). Cả 2 trường hợp biệt hóa sụn đều nằm ở  Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 1 * 2013  Nghiên cứu Y học Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Bệnh Viện Chợ Rẫy Năm 2012 593 vùng  sàn  sọ. Những  trường  hợp  biệt  hóa  sụn  cần phân biệt với sarcom sụn và chúng  tôi  tiến  hành  nhuộm  hóa mô miễn  dịch  để  xác  định  chẩn  đoán.  Cả  2  trường  hợp  u  dây  sống  của  chúng tôi đều dương tính với Cytokeratin trọng  lượng phân tử thấp, EMA và S100. Kết quả này  cũng phù hợp với y văn(3,8,9). Như vậy hóa mô  miễn dịch có vai trò rất quan trọng để chẩn đoán  phân biệt u dây sống với các loại u khác đặc biệt  là sarcom sụn, xương, u tế bào Schwann.  Phẫu thuật vẫn là điều trị đầu tay và là tiêu  chuẩn vàng trong điều trị bệnh triệt để và ngăn  ngừa tái phát. Tỉ lệ tái phát cũng như tiên lượng  sống còn của bệnh nhân phụ thuộc vào việc biên  phẫu thuật có còn tế bào u hay không. Xạ trị chỉ  là  điều  trị  bổ  trợ  trong  trường  hợp  biên  phẫu  thuật còn  tế bào u. Ngày nay,  tiêu chuẩn chọn  lựa  của  điều  trị  vẫn  là  cắt  trọn  u  được  nhiều  phẫu  thuật viên  ưa  thích. Tỉ  lệ  cắt  trọn u  thay  đổi theo nhiều tác giả khác nhau và theo các vị  trí u khác nhau.Tác giả Gay đã báo cáo tỉ lệ phẫu  thuật cắt trọn cho các trường hợp u dây sống ở  vị trí sàn sọ là 47%(3). Tỉ lệ này trong nghiên cứu  của  tác giả Mefty và Borba  là 43%(1). Trong khi  đó các tác giả Osaka và Fuchs đã báo cáo tỉ lệ cắt  trọn  u  ở  vùng  cùng  cụt  là  gần  50%(2,4).  Trong  nghiên cứu của chúng tôi, phẫu thuật viên chọn  lựa cắt  trọn u  trong 38,46%  trường hợp đối với  nhóm u ở vùng cùng cụt và 30% đối với nhóm u  ở vùng  sàn  sọ.  Đối với những  trường hợp  cắt  không trọn u thì xạ trị là một phương pháp điều  trị bổ  trợ để giảm  tỉ  lệ u  tái phát  sau này. Sau  phẫu thuật, có 13 bệnh nhân được chỉ định xạ trị  (chiếm 33,33%) và 2 bệnh nhân được chỉ định xạ  phẫu bằng dao gamma (chiếm 5,13%).  KẾT LUẬN  U dây sống  là  loại u xương hiếm gặp, phát  triển  chậm, phá hủy và  thay  thế mô xương. U  thường  xảy  ra  ở  người  trung  niên.  Vị  trí  u  thường gặp nhất là ở vùng sàn sọ và vùng cùng  cụt. Chẩn đoán xác định bằng kết quả giải phẫu  bệnh kết hợp hóa mô miễn dịch. Phẫu thuật cắt  trọn u vẫn là tiêu chuẩn chọn lựa trong điều trị  bệnh tuy nhiên tỉ lệ cắt trọn u không cao do đó  cần có những điều trị bổ trợ khác sau mổ. Công  trình nghiên  cứu này  cần  tiếp  tục  đề  đánh giá  kết quả các phương pháp điều trị và mối tương  quan giữa các týp mô học của u dây sống với kết  quả điều trị.  TÀI LIỆU THAM KHẢO  1. Al‐Mefty  O,  Borba  LB  (1997),  ʺSkull  base  chordomas:  a  management challengeʺ. J Neurosurg, 86, 182‐189.  2. Fuchs  B,  Dickey  ID,  Yaszemski  MJ  (2005),  ʺOperative  management of sacral chordomaʺ.  J Bone Joint Surg, 87, 2211‐ 2216.  3. Gay  E,  Sekhar  LN,  Rubinstein  E  (1995),  ʺChordomas  and  chondrosarcomas of the cranial base: results and follow‐up of  60 patientsʺ. Neurosurgery, 36, 887‐897.  4. Osaka S, Kodoh O, Sugita H (2006), ʺClinical significance of a  wide  excision  policy  for  sacrococcygeal  chordomaʺ.  J Cancer  Res Clin Oncol, 132, 213‐218.  5. Tamaki  N,  Nagashima  T,  Ehara  K, Motooka  Y,  Barua  KK  (2001),  ʺSurgical  Approaches  and  Strategies  For  Skull  Base  Chordomasʺ. Neurosurg Focus, 10(3).  6. Boriani  S,  Bandiera  S,  Biagini  R  (2006),  ʺChordoma  of  the  mobile spine: Fifty years of experienceʺ. Spine, 31, 491‐503.  7. Carbone A, Gezeroglu H, Ciccariello M, Aloisi  P, Martis G  (1999), ʺDoes the neurologic assessment have a decisive role in  the early diagnosis of urinary disorders of uncertain etiology?  A case of spinal chordomaʺ. Arch Ital Urol Androl, 71(1), 37‐39.  8. Mirra  JM, Della Rocca C, Nelson SD, F, M.  (2002), Chordoma,  IARC Press, Lyon.  9. Newton HB (2006), Chordoma (3 ed.), John Wiley & Sons Ltd,  Chichester.  10. Tai PT, Craighead P, Liem SK (2000),  ʺManagement  issues  in  chordoma: A case seriesʺ. Clin Oncol (R Coll Radiol), 12(80‐86). 

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfdac_diem_lam_sang_benh_hoc_cua_39_truong_hop_u_day_song_o_be.pdf
Tài liệu liên quan