Nghiên cứu gặp chủ yếu là nữ giới chiếm tỷ
lệ 77,8% và tỷ lệ nữ/nam là 3,5/1, lứa tuổi từ 41
đến 60 tuổi chiếm 48,2%. Trong nghiên cứu của
tác giả người Đức U.Leuschner và cộng sự thì tỷ
lệ nữ/nam là 4/1 ở châu Âu, tỷ lệ 4.7/1 ở Nam Mỹ
và 10/1 ở Nhật Bản [5, 6, 7].
Triệu chứng lâm sàng thường gặp nhất là
vàng da, sạm da, gầy sút, mệt mỏi và chán ăn.
Tỷ lệ vàng da, sạm da là 89%. 25,9% bệnh nhân
có biểu hiện giãn tĩnh mạch thực quản và hay gặp
là giãn độ II - III. Bệnh lý đau khớp cũng xảy ra
nhưng thường chỉ có những đợt đau khớp và sưng
khớp thoáng qua, điều này phản ánh hoạt động
của bệnh. Biểu hiện ngoài gan trong nghiên cứu
chỉ có 1 bệnh nhân có biểu hiện viêm tuyến giáp
tự miễn. Nhóm viêm gan tự miễn: các biểu hiện
ngoài gan được báo cáo khá nhiều: viêm tuyến
giáp tự miễn, Sjogren, bệnh lý ống thận, viêm xơ
phế nang, bệnh lý thần kinh ngoại biên, viêm cầu
thận, viêm cơ, lupus [4, 8, 10, 11]. Về thời gian
mắc bệnh của các bệnh nhân nhóm nghiên cứu
chúng tôi nhận thấy thời gian mắc bệnh trung
bình là 2,07 năm +/- 0,72 tháng. Phần lớn các
bệnh nhân có thời gian mắc bệnh từ 6 tháng đến
1 năm, chiếm tỷ lệ 48,1%. Protein, albumin, tiểu
cầu, prothrombincó giá trị trung bình nằm trong
giới hạn bình thường. Prothrombin và albumin
giảm rõ khi bệnh nhân xơ gan. Giá trị trung bình
và độ lệch chuẩn của Prothrombin, albumin, tiểu
cầu lần lượt là 73,05% ± 33,61, 33,6g/l ± 6,06,
177,44g/l ± 96,31. Kết quả này phù hợp với nghiên
cứu của Lupsor M và nghiên cứu của Gosmez -
Dominguez E về bệnh lý gan mạn tính. AST, ALT,
GGT và Bilirubin toàn phần có giá trị trung bình lớn
hơn bình thường nhiều lần, điều này chứng tỏ đa
số bệnh nhân đang ở trong đợt tiến triển của bệnh
viêm gan tự miễn. Trong AIH gammaglobulin tăng
thường xuyên, trong nghiên cứu của chúng tôi
100% các bệnh nhân trong nhóm nghiên cứu đều
có tăng gamaglobulin, trong đó có tới 96,3% bệnh
nhân có tăng gamaglobulin gấp > 2 lần trị số bình
thường cao. Trong AIH tăng globulin chủ yếu là
IgG trong khi đó xơ gan mật nguyên phát tăng IgM
và IgA tăng trong các bệnh lý gan do rượu. Nồng
độ Alkaline phosphatase trung bình là 266.40 +/-
324.47. Trong nhóm nghiên cứu chúng tôi cũng
tính đến tỷ lệ Alkaline phosphatase/AST thì nhận
thấy rằng có 4 bệnh nhân có tỷ lệ này > 3 lần chiếm
14,8%, 17 bệnh nhân có tỷ lệ này < 1,5 lần chiếm
63%, còn lại 6 bệnh nhân có tỷ lệ từ 1,5 - 3 lần
chiếm 22,2%. Điều này chứng tỏ trong AIH vừa có
biểu hiện tổn thương gan vừa phản ánh sự ứ mật ở
các mức độ khác nhau. Tự kháng thể là một trong
những đặc điểm phân biệt của viêm gan tự miễn
[12]. Kháng thể kháng nhân, kháng thể kháng cơ
trơn (SMA) và kháng thể kháng microsom 1 của
gan/thận (LKM1) là các marker thường được chỉ
định nhiều để chẩn đoán viêm gan tự miễn. Trong
đó ANA là marker sớm nhất, quan trọng nhất cho
chẩn đoán AIH. Tuy nhiên ANA dương tính không
đặc hiệu để chẩn đoán viêm gan tự miễn vì còn
dương tính trong nhiều bệnh khác thậm chí cả
viêm gan virus như viêm gan virus C. Tuy nhiên
ANA có giá trị tốt trong sàng lọc giúp định hướng
theo chẩn đoán bệnh lý tự miễn với mức độ tin cậy
cao [5, 12, 13, 14, 15].
6 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Lượt xem: 5 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đặc điểm lâm sàng và cận lâm sàng viêm gan tự miễn, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
nghiên cứu khoa học
Tạp chí
nội khoa Việt nam Tài liệu Hội nghị Khoa học Nội khoa Toàn quốc lần IX288
I. đẶT VẤN đỀ
Bệnh viêm gan tự miễn (Auto Immune
Hepatitis – AIH) nằm trong nhóm bệnh gan mật
tự miễn [1], đó là một thuật ngữ để chỉ bệnh viêm
gan mà bệnh căn không do nhiễm trùng, đặc trưng
bởi tình trạng thâm nhiễm tế bào viêm mạn tính
và các đặc điểm tự miễn dịch. Bệnh được phân
chia dựa trên vị trí tổn thương mô học tại tế bào
gan của bệnh viêm gan tự miễn (VGTM) hoặc tế
bào ống mật trong trường hợp của xơ mật tiên
phát (XMTP) hoặc viêm xơ đường mật tiên phát
(VXĐMTP) [2]. Thể hỗn hợp khi bệnh có những
đặc điểm của cả hai nhóm. Các bệnh này sẽ tiến
triển thành xơ gan, suy gan [3, 4], tuy nhiên, tốc
độ tiến triển rất khác nhau và có thể liên quan yếu
tố di truyền. Viêm gan tự miễn là bệnh mạn tính và
nếu không được điều trị bệnh sẽ tiến triển nặng
dần theo thời gian cuối cùng có thể dẫn đến xơ
gan và suy gan [4, 5].
Tổn thương của viêm gan tự miễn thường
song hành cùng nhiều bệnh lý tự miễn ở các cơ
quan khác như: thận, khớp, hệ tạo máu, bệnh lý
ống tiêu hóa[4, 6, 7, 8, 9]. Chẩn đoán lâm sàng
rất khó khăn do có thể nhầm lẫn với các bệnh khác.
Chính do những khó khăn trong thực hành lâm
sàng nên Hiệp hội gan mật Mỹ đã đưa ra các tiêu
chí chẩn đoán tổn thương gan tự miễn. Các tiêu
chuẩn này đã được áp dụng ở Việt Nam trong thời
gian gần đây nhưng việc áp dụng không rộng rãi
do điều kiện thực hiện các xét nghiệm mang tính
chất chuyên khoa, do tính chất không thường gặp
của bệnh, cùng với đó là việc phân bố bệnh nằm rải
rác ở các chuyên khoa nên có ít nghiên cứu được
công bố đề cập tới vấn đề này. Nghiên cứu tổng
hợp các triệu chứng lâm sàng và cận lâm sàng là
nghiên cứu tiên phong trong lĩnh vực này nhằm góp
phần giúp cho các nhà lâm sàng có cái nhìn toàn
diện hơn về viêm gan tự miễn chúng tôi tiến hành
nghiên cứu đề tài “Nghiên cứu đặc điểm lâm sàng
và cận lâm sàng viêm gan tự miễn” với mục tiêu:
1. Mô tả các đặc điểm lâm sàng, cận lâm
sàng bệnh viêm gan tự miễn.
2. Mô tả một số thay đổi về miễn dịch học của
bệnh viêm gan tự miễn.
II. đỐI TƯỢNG Và PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
1. đối tượng
Từ tháng 1/2010 đến tháng 8 năm 2014 đã
lựa chọn 27 bệnh nhân được chẩn đoán viêm gan
đẶC đIỂM LÂM sàNG Và CẬN LÂM sàNG VIÊM GAN TỰ MIỄN
Đỗ Hồng Sơn*, nguyễn thị Vân Hồng**
*Bệnh viện Đa khoa tỉnh Hưng Yên, ** Trường Đại học Y Hà Nội
TÓM TẮT
Viêm gan tự miễn là bệnh lý lâm sàng phúc tạp khó chẩn đoán. Mục tiêu nghiên cứu tổng hợp
các triệu chứng lâm sàng và cận lâm sàng của bệnh viêm gan tự miễn.
đối tượng nghiên cứu: gồm bệnh nhân được chẩn đoán viêm gan tự miễn theo bảng tính điểm
rút gọn của Hennes EM 2008 kết hợp với tiêu chuẩn của hệ thống tính điểm chẩn đoán viêm gan tự
miễn sửa đổi năm 1999. Trường hợp mới chẩn đoán lần đầu dựa vào tiêu chuẩn mô bệnh học. Loại
trừ khỏi nghiên cứu các trường hợp viêm gan virus, viêm gan rượu, viêm gan do thuốc.
Kết quả: nghiên cứu 27 bệnh nhân. Tỷ lệ nữ/nam là 3.5/1, thời gian mắc bệnh trung bình 2,07
± 0,72 (năm), đặc điểm lâm sàng hay gặp nhất là ứ mật, tại gan. Marker tự miễn ANA (+): 66,7%,
dsDNA (+): 48,1%, PANCA (+): 11,11%, CANCA(+): 20%, ASGPR (+): 42,85%, AMA (+): 20,8%.
Globulin miễn dịch tăng, tỷ lệ xơ gan ở 2 nhóm ANA (+) và (-) là khác biệt. Mô bệnh học hay gặp là
tổn thương hoại tử lan tỏa và xơ hóa không có khác biệt giữa 2 nhóm ANA (+) và (-).
Từ khóa: Viêm gan tự miễn, marker tự miễn, miễn dịch, xơ gan.
nghiên cứu khoa học
Tạp chí
Tài liệu Hội nghị Khoa học Nội khoa Toàn quốc lần IX nội khoa Việt nam 289
tự miễn. Bệnh nhân được lựa chọn từ Khoa Tiêu
hóa và Trung tâm Dị ứng – Miễn dịch lâm sàng –
Bệnh viện Bạch Mai.
Phương pháp nghiên cứu:
Tiêu chuẩn lựa chọn bệnh nhân: Các bệnh
nhân được chẩn đoán xác định viêm gan tự miễn
theo bảng tính điểm rút gọn của Hennes EM và
cộng sự năm 2008 kết hợp với tiêu chuẩn của hệ
thống tính điểm chẩn đoán viêm gan tự miễn sửa
đổi năm 1999. Trường hợp mới chẩn đoán lần đầu
dựa vào tiêu chuẩn mô bệnh học.
Tiêu chuẩn loại trừ: viêm gan virus, tổn
thương gan do thuốc, do rượu, K gan.
2. Phương pháp: Mô tả cắt ngang hồi cứu và tiến
cứu.
3. Nội dung nghiên cứu: Đặc điểm lâm sàng, đặc
điểm cận lâm sàng, đặc điểm miễn dịch.
4. Các bệnh nhân tham gia nghiên cứu hiểu rõ
về mục tiêu và đồng ý tham gia nghiên cứu. Các
thông tin về bệnh nhân, bác sĩ điều trị cũng như
điều dưỡng chăm sóc bệnh nhân được đảm bảo
bí mật. Nghiên cứu không can thiệp vào liệu trình
điều trị.
III. KẾT QUẢ
1. đặc điểm chung của nhóm nghiên cứu
Tuổi hay gặp nhất là tuổi trung niên, từ 41-60
tuổi chiếm 48,2%. Trẻ nhất: 16 tuổi, lớn tuổi nhất
80 tuổi.
Giới: 21 bệnh nhân nữ (77,8%), 6 bệnh nhân
nam (22,2%). Tỷ lệ nữ/ nam: 3,5/1.
Thời gian mắc bệnh: trung bình là 2,07 năm
+/- 0,72 tháng.
2. Các đặc điểm lâm sàng
Bảng 1. Triệu chứng lâm sàng của nhóm nghiên cứu
Biểu hiện lâm sàng ngoài gan: có 1 BN có biểu hiện viêm tuyến giáp tự miễn chiếm tỷ lệ 3,7%.
Bảng 2. Các kết quả cận lâm sàng
Chỉ số xét nghiệm N Trung bình độ lệch chuẩn Thấp nhất Lớn nhất
BiliTP (mmol/dl) 27 155,82 147,92 6,60 471,70
BiliTT(mmol/dl) 27 101,3 106,94 3,50 386,70
Protein(g/l) 27 74,96 10.40 54.60 99.90
Albumin(g/l) 27 33,60 6,06 21,40 44,00
GOT(IU/l) 27 488,88 527,61 29,00 2162,00
GGT(IU/l) 27 378,75 502,64 17,00 2184,00
nghiên cứu khoa học
Tạp chí
nội khoa Việt nam Tài liệu Hội nghị Khoa học Nội khoa Toàn quốc lần IX290
Chỉ số xét nghiệm N Trung bình độ lệch chuẩn Thấp nhất Lớn nhất
GPT(IU/l) 27 491.69 557,45 19,00 2268,00
Globulin miễn dịch 27 39,72 15,61 25,00 52,8
Phosphatasekiềm 27 266,40 324,47 29,00 1777,00
Tiểu cầu(G/l) 27 177,44 96,31 51,00 385,00
PT(%) 27 73,05 33,61 15,00 130,00
Protein, albumin, tiểu cầu, prothrombincó GTTB nằm trong giới hạn BT.
AST, ALT, GGT và Bilirubin toàn phần có giá trị trung bình lớn hơn bình thường nhiều lần.
Bảng 3. Đặc điểm các marker tự miễn
Các marker có tỷ lệ dương tính gặp nhiều nhất là ANA, DsDNA, ASGPR, AMA-M2.
Bảng 4. Tổn thương giải phẫu bệnh
GPB tổn thương chủ yếu là hoại tử lan tỏa, viêm phân thùy và xơ hóa.
nghiên cứu khoa học
Tạp chí
Tài liệu Hội nghị Khoa học Nội khoa Toàn quốc lần IX nội khoa Việt nam 291
III. BàN LUẬN
Nghiên cứu gặp chủ yếu là nữ giới chiếm tỷ
lệ 77,8% và tỷ lệ nữ/nam là 3,5/1, lứa tuổi từ 41
đến 60 tuổi chiếm 48,2%. Trong nghiên cứu của
tác giả người Đức U.Leuschner và cộng sự thì tỷ
lệ nữ/nam là 4/1 ở châu Âu, tỷ lệ 4.7/1 ở Nam Mỹ
và 10/1 ở Nhật Bản [5, 6, 7].
Triệu chứng lâm sàng thường gặp nhất là
vàng da, sạm da, gầy sút, mệt mỏi và chán ăn.
Tỷ lệ vàng da, sạm da là 89%. 25,9% bệnh nhân
có biểu hiện giãn tĩnh mạch thực quản và hay gặp
là giãn độ II - III. Bệnh lý đau khớp cũng xảy ra
nhưng thường chỉ có những đợt đau khớp và sưng
khớp thoáng qua, điều này phản ánh hoạt động
của bệnh. Biểu hiện ngoài gan trong nghiên cứu
chỉ có 1 bệnh nhân có biểu hiện viêm tuyến giáp
tự miễn. Nhóm viêm gan tự miễn: các biểu hiện
ngoài gan được báo cáo khá nhiều: viêm tuyến
giáp tự miễn, Sjogren, bệnh lý ống thận, viêm xơ
phế nang, bệnh lý thần kinh ngoại biên, viêm cầu
thận, viêm cơ, lupus [4, 8, 10, 11]. Về thời gian
mắc bệnh của các bệnh nhân nhóm nghiên cứu
chúng tôi nhận thấy thời gian mắc bệnh trung
bình là 2,07 năm +/- 0,72 tháng. Phần lớn các
bệnh nhân có thời gian mắc bệnh từ 6 tháng đến
1 năm, chiếm tỷ lệ 48,1%. Protein, albumin, tiểu
cầu, prothrombincó giá trị trung bình nằm trong
giới hạn bình thường. Prothrombin và albumin
giảm rõ khi bệnh nhân xơ gan. Giá trị trung bình
và độ lệch chuẩn của Prothrombin, albumin, tiểu
cầu lần lượt là 73,05% ± 33,61, 33,6g/l ± 6,06,
177,44g/l ± 96,31. Kết quả này phù hợp với nghiên
cứu của Lupsor M và nghiên cứu của Gosmez -
Dominguez E về bệnh lý gan mạn tính. AST, ALT,
GGT và Bilirubin toàn phần có giá trị trung bình lớn
hơn bình thường nhiều lần, điều này chứng tỏ đa
số bệnh nhân đang ở trong đợt tiến triển của bệnh
viêm gan tự miễn. Trong AIH gammaglobulin tăng
thường xuyên, trong nghiên cứu của chúng tôi
100% các bệnh nhân trong nhóm nghiên cứu đều
có tăng gamaglobulin, trong đó có tới 96,3% bệnh
nhân có tăng gamaglobulin gấp > 2 lần trị số bình
thường cao. Trong AIH tăng globulin chủ yếu là
IgG trong khi đó xơ gan mật nguyên phát tăng IgM
và IgA tăng trong các bệnh lý gan do rượu. Nồng
độ Alkaline phosphatase trung bình là 266.40 +/-
324.47. Trong nhóm nghiên cứu chúng tôi cũng
tính đến tỷ lệ Alkaline phosphatase/AST thì nhận
thấy rằng có 4 bệnh nhân có tỷ lệ này > 3 lần chiếm
14,8%, 17 bệnh nhân có tỷ lệ này < 1,5 lần chiếm
63%, còn lại 6 bệnh nhân có tỷ lệ từ 1,5 - 3 lần
chiếm 22,2%. Điều này chứng tỏ trong AIH vừa có
biểu hiện tổn thương gan vừa phản ánh sự ứ mật ở
các mức độ khác nhau. Tự kháng thể là một trong
3. Mối liên quan giữa KTKN ANA với tình trạng ứ mật và xơ gan
Bảng 5. Liên quan giữa KTKN ANA với tình trạng ứ mật
Marker
Ứ mật
Tổng số
Bình thường Ứ mật
ANA
Âm tính 1 8 9
Dương tính 3 15 18
Tổng số 4 23 27
Sự khác biệt không có ý nghĩa thống kê p > 0,05.
Bảng 6. Liên quan giữa KTKN ANA với xơ gan
Marker
Xơ gan
Tổng số
Không Có
ANA Âm tính 1 8 9
Dương tính 11 7 18
Tổng số 12 15 27
Sự khác biệt có ý nghĩa thống kê với p = 0,019 < 0,05.
nghiên cứu khoa học
Tạp chí
nội khoa Việt nam Tài liệu Hội nghị Khoa học Nội khoa Toàn quốc lần IX292
những đặc điểm phân biệt của viêm gan tự miễn
[12]. Kháng thể kháng nhân, kháng thể kháng cơ
trơn (SMA) và kháng thể kháng microsom 1 của
gan/thận (LKM1) là các marker thường được chỉ
định nhiều để chẩn đoán viêm gan tự miễn. Trong
đó ANA là marker sớm nhất, quan trọng nhất cho
chẩn đoán AIH. Tuy nhiên ANA dương tính không
đặc hiệu để chẩn đoán viêm gan tự miễn vì còn
dương tính trong nhiều bệnh khác thậm chí cả
viêm gan virus như viêm gan virus C. Tuy nhiên
ANA có giá trị tốt trong sàng lọc giúp định hướng
theo chẩn đoán bệnh lý tự miễn với mức độ tin cậy
cao [5, 12, 13, 14, 15].
Trong nghiên cứu của chúng tôi có 18 bệnh
nhân được làm sinh thiết gan thì có tới 83,3%
bệnh nhân có tổn thương hoại tử lan tỏa, tổn
thương viêm phân thùy 66,7%, thâm nhiễm tương
bào là 44,4% và 66,7% là xơ hóa. Mối liên quan
giữa marker ANA với tình trạng ứ mật là không
có sự khác biệt giữa 2 nhóm có kháng thể kháng
nhân dương tính và âm tính (p > 0,05). Trong
nghiên cứu của chúng tôi thấy rằng tỷ lệ xơ gan
gặp ở nhóm ANA âm tính là 88,9%, còn ở nhóm
ANA dương tính là 38,8%. Ở 2 nhóm ANA âm tính
và dương tính chúng tôi thấy kết quả là tỷ lệ xơ
gan ở 2 nhóm có sự khác biệt và sự khác biệt này
có ý nghĩa thống kê với p = 0,019 < 0,05. Ở nhóm
kháng thể ANA âm tính thì tỷ lệ tăng IgG là 77,8%,
còn trong nhóm ANA dương tính thì tỷ lệ tăng IgG
là 66,7%. Ta thấy 2 nhóm này có tỷ lệ tăng IgG là
không có sự khác biệt với p = 0,67> 0,05 [5, 12,
13, 14].
IV. KẾT LUẬN
1. Viêm gan tự miễn thường gặp ở nữ: tỷ lệ
nữ/nam là 3,5/1. Tuổi trung niên 41-60 tuối gặp
nhiều nhất 48,2%. Biểu hiện lâm sàng và cận lâm
sàng hay gặp là ứ mật, vàng da, bilirubin tăng,
phosphatase kiềm tăng, gày sút, mệt mỏi. Mô
bệnh học hay gặp là hoại tử lan tỏa chiếm phần
lớn.
2. Marker tự miễn ANA (+): 66,7%, dsDNA
(+): 48,1%, PANCA (+): 11,11%, CANCA(+): 20%,
ASGPR (+): 42,85%, AMA (+): 20,8%. Globulin
miễn dịch tăng, tỷ lệ phosphatase kiềm/AST < 1,5
chiếm tỷ lệ cao 63%. Tỷ lệ xơ gan ở 2 nhóm ANA
(+) và (-) là khác biệt (p= 0,019 < 0,05).
TàI LIỆU THAM KHẢO
1. Vergani D, Alvarez F, Bianchi F.B, et al
(2004). Liver autoimmune serology: a consensus
statement from the committee for autoimmune
serology of the International Autoimmune Hepatitis
Group. J Hepatol 2004; 41: 677-683.
2. Czaja A.J, Bianchi F.B, Carpenter H.A, et al
(2005). Treatment challenges and investigational
opportunities in autoimmune hepatitis.
Hepatology;41: 207-215.
3. Feld J.J, Dinh H, Arenovich T, et al (2005).
Autoimmune hepatitis: effect of symptoms
and cirrhosis on natural history and outcome.
Hepatology; 42: 53-62.
4. Selmi C, Mayo M.J, Bach N, et al (2004).
Primary biliary cirrhosis in monozygotic and
dizygotic twins: genetics, epigenetics, and
environment. Gastroenterology; 127: 485-492.
5. Invernizzi P, Crosignani A, Battezzati P.M,
et al (1997). Comparison of the clinical features
and clinical course of anti-mitochondrial antibody-
positive and -negative primary biliary cirrhosis.
Hepatology ; 25:1090-1095.
6. Chu Chi Hieu, Nguyen Van Dinh, Nguyen
Van Doan (2011). Mycophenolate mofetil for
refractory Autoimmune hepatitis. Vietnam Journal
of Internal medicine ISSN: 0868 -3109, p 248-249.
7. Gershwin M.E, Selmi C, Worman H.J, et al
(2005). Risk factors and comorbidities in primary
biliary cirrhosis: a controlled interview-based study
of 1032 patients. Hepatology; 42: 1194-1202.
8. Broome U, Bergquist A (2006). Primary
sclerosing cholangitis, inflammatory bowel
disease, and colon cancer. Semin Liver Dis; 26:
31-41.
9. Boberg K.M, Chapman R.W, Hirschfield
G.M et al (2011). International Autoimmune
Hepatitis Group: Overlap syndromes: the
International Autoimmune Hepatitis Group (IAIHG)
nghiên cứu khoa học
Tạp chí
Tài liệu Hội nghị Khoa học Nội khoa Toàn quốc lần IX nội khoa Việt nam 293
position statement on a controversial issue. J
Hepatol. Feb; 54(2):374-85.
10. Prince M.I, Chetwynd A, Craig W.L, et
al (2004). Asymptomatic primary biliary cirrhosis:
clinical features, prognosis, and symptom
progression in a large population based cohort.
Gut; 53: 865-870.
11. Lazaridis K.N, Gores G.J, Lindor K.D
(2001). Ursodeoxycholic acid ‘mechanisms of
action and clinical use in hepatobiliary disorders’.
J Hepatol; 35: 134-146.
12. Leung P.S, Quan C, Park O, et al (2003).
Immunization with a xenobiotic 6-bromohexanoate
bovine serum albumin conjugate induces anti-
mitochondrial antibodies. J Immunol; 170: 5326-
5332.
13. Miyakawa H, Tanaka A, Kikuchi K,
et al (2001). Detection of anti-mitochondrial
autoantibodies in immunofluorescent AMA-
negative patients with primary biliary cirrhosis
using recombinant autoantigens. Hepatology ; 34:
243-248.
14. Amano K, Leung P.S, Rieger R, et al
(2005). Chemical xenobiotics and mitochondrial
autoantigens in primary biliary cirrhosis:
identification of antibodies against a common
environmental, cosmetic, and food additive,
2-octynoic acid. J Immunol; 174: 5874-5883.
15. Pares A, Rodes J (2003).Natural history
of primary biliary cirrhosis. Clin Liver Dis; 7: 779-
794.
ABsTRACT
CLINICAL AND PARACLINICAL CHARACTeRIsTICs OF THe AUTOIMMUNe HePATITIs
Clinical manifestations of autoimmune hepatitis are diverse and difficult to diagnose. The study
aimed to synthesize the clinical and subclinical autoimmune hepatitis.
subjects studied: patients diagnosed with autoimmune hepatitis according to the shortened
scoring table Hennes EM 2008 in combination with the standard diagnosis scoring system of
autoimmune hepatitis amended in 1999. In case of newly diagnosed cases the diagnosis was based
on histopathological criteria. Excluded: hepatitis virus, hepatitis drug, alcohol hepatitis. Results
showed that 27 patients including 21 women and 6 men; most common in middle age from 41 to 60
years old accounting for 48.2%, the rate of female / male is 3.5 / 1, the average disease duration of
2.07 ± 0.72 (years), common clinical manifestations are cholestasis in the liver. Marker autoimmune
ANA (+): 66.7%, dsDNA (+): 48.1%, PANCA (+): 11.11%, CANCA (+): 20%, ASGPR (+): 42.85%,
AMA (+): 20.8%. Immune globulin increased, Percentage of cirrhosis in 2 groups of ANA (+) and (-) is
different (p = 0.019 <0.05). Common histopathological lesions are diffuse necrosis and fibrosis which
did not differ between the 2 groups ANA (+) and (-).
Keywords: Autoimmune hepatitis, autoimmune markers, immune, liver cirrhosis.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
dac_diem_lam_sang_va_can_lam_sang_viem_gan_tu_mien.pdf