The middle centre of Vietnam had huge potetial of the fine arts and decorative rocks, including magmatic,
sedimentary, metamorphic and half precious rocks (jasma, quartz crystal, nazodac).
Bioche-limestones have the largest reserves, many colors, beautiful shepes and patterns along with the good-solid
distribution. They concentrated in the provinces of Thanh Hoa, Nghe An, Quang Binh and considerabl amount in Quang
Tri, Thua Thien-Hue, more rare in Ha Tinh, Quang Nam provinces.
Sedimentary rocks of Huu Chanh formations in the Quang Nam have high commercial value. Magmatic rocks
exposed with huge mass include: gabbroid, gabbrodiabase, granitoid, those have colorific, multiform arch-structure
distributed mainly in Thanh Hoa, Ha Tinh, Quang Bình, Thua Thien-Hue and Quang Nam provinces. Metamorphic rocks
of phase horny and phase green schistic with beautiful structure are olso present with significant quantities distributed
more in Quang Tri, Thua Thien-Hue and Da Nang city suburb. There are also semi-precious stones such as jasma and
quartz crystal, nazodac in the study area which are distributed on some places in the provinces Thanh Hoa, Nghe An
and Ha Tinh.
Motst of the above types stones are required to meet the physical and mechanical properties, fine arts for the
manufacture and processing of products as well as decorative paving stones. Special variables stones are very large
reserves to ensure long term to exploit. The advantage of the distributed stones is near the roads and easily accessible
for exploitation.
11 trang |
Chia sẻ: honghp95 | Lượt xem: 593 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đặc điểm phân bố, độ phổ biến và chất lượng đá mỹ nghệ và trang lát khu vực miền trung Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
495
34(4), 495-505 Tạp chí CÁC KHOA HỌC VỀ TRÁI ĐẤT 12-2012
ĐẶC ĐIỂM PHÂN BỐ, ĐỘ PHỔ BIẾN VÀ
CHẤT LƯỢNG ĐÁ MỸ NGHỆ VÀ
TRANG LÁT KHU VỰC MIỀN TRUNG VIỆT NAM
BÙI ẤN NIÊN, TRẦN TRỌNG HÒA, TRẦN TUẤN ANH,
TRẦN VĂN HIẾU, PHẠM NGỌC CẨN, TRẦN QUỐC HÙNG
E-mail: nienba54@yahoo.com.vn
Viện Địa chất - Viện Khoa học và Công nghệ Việt Nam
Ngày nhận bài: 20 - 2 - 2012
1. Mở đầu
Trong quá trình hội nhập ngày càng sâu rộng
vào nền kinh tế thế giới, ngành nghề truyền thống
nói chung đang được Nhà nước khuyến khích khôi
phục, trong đó thủ công mỹ nghệ lại càng được đặc
biệt quan tâm do lợi ích kinh tế và tiềm năng to lớn
của nó.
Các tỉnh Miền Trung có nguồn tài nguyên đá
rất phong phú, vị trí địa lý thuận lợi, song các lợi
thế này chưa được khơi dậy một cách đầy đủ. Để
tài nguyên đá thực sự là một trong những yếu tố
quan trọng cho sự phát triển kinh tế - xã hội của
khu vực Miền Trung, nó cần được đánh giá một
cách đầy đủ về giá trị sử dụng và khả năng khai
thác tổng hợp trong mối quan hệ chặt chẽ kinh tế -
môi trường, thị trường,
Việc xúc tiến mở ra mô hình sản xuất và chế
tác các sản phẩm mỹ nghệ từ nguồn nguyên liệu đá
là một yêu cầu bức thiết hiện nay nhằm định hướng
phát triển ngành nghề mới cho các địa phương của
Miền Trung, tạo tiền đề cho sự hình thành nên
những làng nghề thủ công mỹ nghệ. Điều này sẽ
tận dụng và kết hợp được các yếu tố nguyên liệu,
nhân lực và thị trường để sản xuất kinh doanh, tạo
công ăn việc làm cho người lao động, góp phần
xóa đói giảm nghèo là việc làm cần thiết và rất có ý
nghĩa thực tiễn.
Mặc dù có rất nhiều sản phẩm mỹ nghệ được
làm ra từ đá, song không phải bất kỳ loại đá nào
cũng trở thành đá mỹ nghệ, vì vậy các đá trong tự
nhiên cần phải được nghiên cứu mang tính chọn
lọc về chủng loại, đặc điểm phân bố, màu sắc, hoa
văn, kích thước, độ vĩnh cửu,... sao cho phù hợp
với từng mục đích sử dụng.
2. Khái quát về đặc điểm phân bố các đá mỹ
nghệ và trang lát khu vực Miền Trung
Cấu trúc địa chất Miền Trung, từ Thanh Hóa đến
Quảng Nam rất phức tạp, dải đất này chứa trên 60
hệ tầng trầm tích và hơn 30 phức hệ magma xâm
nhập, chúng có thành phần, nguồn gốc cũng như
tuổi hình thành khác nhau, ngoài ra các đá biến chất
tướng sừng, tướng phiến lục,... các đá silic màu đỏ
(jasma), nazơđac, thạch anh tinh thể,... cũng khá phổ
biến trong khu vực nghiên cứu. Tất cả các thành tạo
nêu trên cần phải được phân loại, đánh giá đầy đủ
các tiêu chí để có thể sử dụng chúng vào chế tác các
mặt hàng mỹ nghệ, trang trí và trang lát.
Dưới đây là đặc điểm phân bố của các biến loại
đá chủ yếu và độ phổ biến của chúng ở các khu
vực khác nhau của miền Trung.
2.1. Các đá trầm tích
2.2.1. Đá trầm tích sinh hóa carbonat
Các thành tạo carbonat là một trong những đối
tượng được quan tâm nghiên cứu nhiều nhất do
chúng có đầy đủ các chỉ tiêu để chế tác hàng mỹ
nghệ [1, 6]. Đá có mặt chủ yếu trong các hệ tầng
Bắc Sơn, Đồng Giao, La Khê, Cò Bai, Cát Đằng và
ít hơn trong các hệ tầng Mục Bài, Rào Chan, Đồng
Trầu, chúng phân bố tập trung ở các tỉnh Thanh
Hóa, Nghệ An, Quảng Bình [2, 3, 8, 9, 13], một
lượng đáng kể ở Quảng Trị [4], Thừa Thiên - Huế
496
[14] nhưng lại hiếm gặp hơn ở Hà Tĩnh [12] và
Quảng Nam [14]. Đá carbonat phân bố ở các địa
phương nêu trên có nhiều hình dáng đẹp, nhiều hoa
văn màu sắc khác nhau, ngoài ra ở một số khu vực
còn gặp các mạch calcit dạng tinh thể trong suốt
cũng có giá trị cao.
Dựa vào sắc thái đặc trưng của đá có thể phân
ra các biến loại sau đây:
- Đá vôi đen (ảnh 1, 2) và đá vôi đen có chứa
các dải mạch calcit (ảnh 3). Biến loại này có khối
lượng khá lớn trong hệ tầng Đồng Giao (T2 đg),
phân bố nhiều ở Thanh Hóa (các huyện Cẩm Thủy
Ảnh 1. Đá vôi đen tuyền phân bố ở khu vực Yên Định
(Thanh Hóa) và mẫu sản phẩm chế tác từ loại đá này
Ảnh 2. Đá vôi đen phân bố ở khu vực Cam Tuyền, Cam
Lộ (Quảng Trị) và mẫu sản phẩm chế tác từ loại đá này
- xã Cẩm Vân), Ngọc Lặc - xã Cao Thịnh, Yên
Định - xã Yên Lâm,...). Ở tỉnh Nghệ An (các huyện
Con Cuông, Anh Sơn) và tỉnh Quảng Bình (huyện
Tuyên Hóa, Lệ Thủy) đá có mặt chủ yếu trong hệ
tầng Bắc Sơn (C-P bs), còn ở tỉnh Quảng Trị (huyện
Cam Lộ, Hướng Hóa) và Thừa Thiên - Huế (huyện
Hương Trà) đá lại hầu như có mặt chủ yếu trong hệ
tầng Cò Bai (D2-3 cb). Đá thuộc chủng loại này tồn
tại dưới dạng các tập dày (đến ~2m) màu đen tuyền,
hoặc có chứa các dải mạch mỏng calcit màu trắng,
trắng đục tạo nên hoa văn khá đặc sắc. Hầu hết các
biến loại trên có độ hạt mịn, ít nứt nẻ, rất tốt để dùng
chế tác các đồ mỹ nghệ khác nhau.
Ảnh 3. Sản phẩm chế tác từ loại đá vôi đen có các
dải mạch calcit màu trắng tạo nhiều hoa văn đặc sắc
- Đá vôi màu trắng (ảnh 4) và đá vôi màu vàng
hồng nhạt (ảnh 5). Các loại đá này có mặt chủ yếu
trong hệ tầng Bắc Sơn (C-P bs), phân bố nhiều nhất
và có chất lượng tốt nhất ở Nghệ An [15], chúng
phân bố quanh nếp lồi Bù Khạng (các huyện Quỳ Hợp,
Ảnh 4. Đá vôi hoa hóa màu trắng phân bố ở khu vực
Quỳ Hợp (Nghệ An) và sản phẩm chế tác từ loại đá này
Quỳ Châu, Nghĩa Đàn). Do ảnh hưởng của hoạt
động biến chất, hầu hết các đá ở đây đều bị biến
đổi và có các màu sắc khác nhau như: màu trắng
tinh khiết; màu trắng xen ít các dải vân hoa xám
đen uốn lượn; màu vàng phớt hồng nhạt lác đác có
chứa các dải nhỏ psilomelan màu đen dạng chùm
497
nho, cành cây tạo cho đá có sắc thái đặc biệt. Các
đá màu trắng tinh khiết gồm có cả loại hạt thô lẫn
hạt mịn, còn đá có màu trắng xen các dải vân xám
đen cũng như loại màu vàng, vàng phớt hồng nhạt
chỉ có loại hạt mịn. Các biến loại kể trên tồn tại
dưới dạng các tập dày đôi khi đạt đến 2-3m, ít nứt
nẻ, chúng phù hợp cho việc chế tác các bức tượng
đòi hỏi kích thước lớn hoặc làm đá trang lát trong
các công trình cao cấp. Hiện tại các đá này được
khai thác với khối lượng rất lớn để xuất khẩu hoặc
cung cấp cho các thị trường trong nước.
Ảnh 5. Đá vôi hoa hóa màu vàng, hồng nhạt, hạt mịn,
phân bố ở khu vực Nghĩa Đàn (Nghệ An) và
mẫu sản phẩm chế tác từ loại đá này
- Đá vôi sọc dải (ảnh 6, 7). Phân bố nhiều
trong địa phận huyện Quỳ Châu (Nghệ An); đá
thuộc hệ tầng Bắc Sơn (C-P bs) bị hoa hóa và
silic hóa mạnh nên thường có vết vỡ dạng vỏ sò.
Ảnh 6. Đá vôi hoa hóa dạng sọc dải phân bố ở khu vực
Quỳ Hợp (Nghệ An) và sản phẩm chế tác từ loại đá này
Biến loại này còn có mặt trong địa phận
huyện Nam Giang (Quảng Nam), chúng được xếp
vào hệ tầng Khâm Đức (PR1-2 kđ) [14], vì trong
thành phần của đá thường có hàm lượng magne
khá cao nên các thành tạo này còn có tên gọi đá
hoa calciphyr. Hầu hết đá có cấu tạo dạng sọc dải
rất đặc trưng, các dải màu trắng, hồng nhạt và
các dải màu đen, xám nhạt phân bố song song tạo
cho đá có nét đặc sắc riêng biệt. Đá phân bố ở
các khu vực nêu trên có khối lượng lớn, phân lớp
dày, độ liền khối rất tốt, có thể sử dụng để chế
tác nhiều mặt hàng mỹ nghệ khác nhau.
Ảnh 7. Đá hoa calciphyr dạng sọc dải phân bố ở Nam
Giang (Quảng Nam) và sản phẩm chế tác từ loại đá này
- Đá vôi vân đỏ nhạt và màu nâu hồng nhạt
(ảnh 8). Các biến loại này gặp khá nhiều ở Quảng
Bình (các huyện Tuyên Hóa, Minh Hóa và Bố Trạch).
Ảnh 8. Đá vôi màu nâu đỏ phân bố ở khu vực Tuyên Hóa
(Quảng Bình) và mẫu sản phẩm chế tác từ loại đá này
Đá vôi có các dải vân đỏ nhạt phân bố chủ yếu
trong hệ tầng Cát Đằng (D3fm cđ)[13], song chỉ
gặp một vài điểm ở Hóa Sơn (Minh Hóa) và Thuận
Hóa (Tuyên Hóa). Loại đá có màu nâu hồng nhạt
phân bố nhiều trong các khe nứt hoặc trong hang
hốc lớn của các thành tạo thuộc hệ tầng Bắc Sơn
(C-P bs), La Khê (C1lk), Mục Bài (D2g mb). Chúng
498
thường tồn tại dưới dạng các khối tảng độc lập,
kích thước lớn, hình thù lồi lõm, cứng chắc, Sự
có mặt của biến loại này có thể là do kết quả của
quá trình hòa tan, rửa lũa đá mẹ và được bổ sung
thêm một số nguyên tố tạo màu như Fe, Mn, sau
đó chúng được lắng đọng và tái kết tinh lại.
- Đá vôi silic màu loang lổ kiểu da báo, vân
mây (ảnh 9, 10). Đá có mặt trong hệ tầng Mục
Bài (D2g mb) với khối lượng khá lớn, phân bố
dưới dạng các dải dọc theo đứt gãy kiến tạo ở
khu vực cầu Dân Tộc, gần thị trấn Quy Đạt,
Minh Hóa - Quảng Bình. Tại khu vực Hội Sơn,
Anh Sơn - Nghệ An, gặp biến loại này trong hệ
tầng Bắc Sơn (C-P bs), song ở đây chúng có khối
lượng không nhiều, chỉ tồn tại dưới dạng các tập
xen kẽ cùng với đá vôi màu xám sáng ít giá trị hơn.
Đá thuộc chủng loại này có sắc thái đẹp, lạ, bề mặt
Ảnh 9. Đá vôi silic dạng da báo, vết vỡ nhẵn lì, phân bố ở
khu vực cầu Dân Tộc, Quy Đạt, Minh Hóa (Quảng Bình)
Ảnh 10. Đá vôi silic dạng vân mây phân bố ở khu vực
Anh Sơn (Nghệ An) và sản phẩm chế tác từ loại đá này
nhẵn lì, vết vỡ dạng vỏ sò điển hình, độ liền khối
rất tốt, kích thước lớn. Do đá có cấu trúc hoa văn
đẹp vì vậy có thể sử dụng làm mặt bàn, ghế,...
hoặc chế tác thành các mặt hàng mỹ nghệ theo
các chủ đề khác nhau.
- Dăm kết đá vôi các loại: đá chủ yếu phân bố
dọc theo các đứt gãy kiến tạo hoặc các vách sụt.
Các mảnh dăm thường có kích thước và màu sắc
khác nhau, được gắm kết chặt xít bằng xi măng
carbonat. Biến loại này có giá trị nhất cùng với
khối lượng lớn phải kể đến khu vực núi Vức
(Đông Hưng) và dãy núi Hoàng Lạp (Đông Phú)
thuộc huyện Đông Sơn - Thanh Hóa (khu vực
phân bố đá vôi hệ tầng Bắc Sơn). Các tập dăm kết
lộ ra ở núi Vức có cấu trúc loang lổ kiểu da báo,
kết cấu cứng chắc, các mảnh dăm có dạng bầu dục,
hơn tròn, hoặc tù cạnh... màu đen xám, xám phớt
nâu hồng nhạt, vết vỡ dạng vỏ sò, được gắn kết
bằng xi măng dạng “dòng chảy”. Sự có mặt kiểu xi
măng độc đáo này có thể là do lúc đầu nước tự
nhiên có chứa một lượng axit nhất định thấm lọt
quanh các mảnh dăm làm chúng bị hòa tan, bào
mòn, rửa lũa,... cuối cùng nước chứa calci này
(dưới dạng hyđroxit canxi) khi gặp oxy không khí
sẽ lắng đọng lại và kết tinh tại chỗ dưới dạng calcit
(nếu Mg/Ca1) có màu
trắng đục hay xám trắng kiểu dòng chảy ngoằn
ngoèo, đồng thời chúng lại đóng vai trò gắn kết các
mảnh dăm lại với nhau; chính xi măng này đã tạo
cho đá ở đây có cấu tạo loang lổ đặc sắc kiểu da
báo. Tuy nhiên, cũng không loại trừ khả năng sự
xuất hiện loại xi măng này có thể do quá trình đồng
trầm tích kiến tạo? Riêng ở khu vực núi Hoàng
Lạp, các mảnh dăm được gắn kết bởi xi măng có
màu vàng hoàng thổ (ảnh 11) tạo cho đá có sắc
thái rất đặc sắc. Dăm vôi ở các khu vực trên
thường có dạng khối tảng với kích thước rất lớn.
Hiện tại chúng được khai thác để sản xuất làm đá
trang lát theo nhiều kích cỡ khác nhau.
Ảnh 11. Dăm kết vôi rất độc đáo màu vàng hoàng thổ, độ
kết khối lớn phân bố ở khu vực Đông Phú, Đông Sơn
(Thanh Hóa) và mẫu sản phẩm chế tác từ biến loại này
499
- Các đá nhũ vôi tái kết tinh nhiều màu sắc (ảnh
12). Đây là biến loại đá rất đặc biệt, có thể chúng
được hình thành do quá trình hòa tan rửa lũa đá mẹ
trong các hang hốc karst hoặc dưới chân các dãy đá
vôi. Trong quá trình hòa tan rửa lũa luôn được bổ
sung thêm nhiều tạp chất cũng như các nguyên tố
hóa học khác nhau từ bên ngoài (nhất là Fe, Mn) và
được lắng đọng theo nhiều lớp cùng với nhiều màu
sắc khác nhau, và cuối cùng chúng được tái kết
tinh tạo nên một loại đá dạng nhũ rất đặc sắc. Do
đá có nhiều màu sắc và nhiều hình thù kì dị, không
quá cứng chắc, dễ chế tác, bằng con mắt thẩm mỹ
của các nghệ nhân có thể chế tác thành nhiều tác
phẩm nghệ thuật với các chủ đề khác nhau. Biến
loại này phổ biến nhiều trong các thành tạo của hệ
tầng Đồng Giao (T2 đg) phân bố ở khu vực Hà
Long, Hà Trung (Thanh Hóa) cũng như dọc theo
các dãy đá vôi nằm ở ranh giới giữa Ninh Bình và
Thanh Hóa. Hiện tại các đá này được khai thác,
chế tác và được bày bán rất nhiều dọc quốc lộ 1A
đoạn giáp ranh gữa Ninh Bình và Thanh Hóa.
Ảnh 12. Các “nhũ vôi tái kết tinh” đa sắc phân bố ở khu
vực Hà Long, Hà Trung (Thanh Hóa) và các sản phẩm
chế tác từ biến loại này
2.2.2. Đá trầm tích lục nguyên
Các đá trầm tích lục nguyên có diện phân bố rất
rộng lớn trong khu vực Miền Trung, chúng bao
gồm nhiều hệ tầng có tuổi thành tạo khác nhau,
nhưng có giá trị sử dụng nhất là các đá cát bột kết
tuổi Jura phân bố trong tỉnh Quảng Nam. Từ xa
xưa, các vua chúa của vương quốc Chăm Pa đã biết
khai thác các đá cát kết ở khu vực lân cận để chế
tác thành các tượng Thánh, các vật thờ, lát đường
đi, và hiện vẫn còn tồn tại theo năm tháng trong
Thánh địa Mỹ Sơn.
Các thành tạo cát bột kết tuổi Jura gồm có các
hệ tầng Khe Rèn, Bàn Cờ và Hữu Chánh [14], song
chỉ có các thành tạo thuộc hệ tầng Hữu Chánh (J2
hc) là đủ các chỉ tiêu để làm đá mỹ nghệ và trang
lát. Tại khu vực gần Thạch Bàn và Mỹ Sơn (huyện
Duy Xuyên), các đá gốc nằm dưới tầng phong hóa
bở rời khá lớn (4-10m, thậm chí 20m); cát kết
thường có màu xanh lục, hạt nhỏ mịn, các tập phân
lớp có kích thước khác nhau, dày nhất đạt đến 4-
5m. Cũng thuộc hệ tầng này, nhưng đá lộ ra ở khu
vực Thạch Trung, xã Đại Chánh (huyện Đại Lộc)
lại có một số đặc điểm khác như: đá lộ ra ngay trên
bề mặt dưới dạng các tảng có kích thước rất lớn rất
rắn chắc và thường bị phong hóa dạng cầu. Phần
bên trong chưa bị phong hóa đá có màu xanh phớt
xám nhạt, phần ngoài cùng bị phong hóa có màu
nâu vàng hoặc vàng phớt nâu nhạt nhưng kết cấu
rắn chắc. Với đặc điểm như vậy các đá ở điểm lộ
này có đầy đủ tiêu chí để làm nguyên liệu chế tác
các mặt hàng mỹ nghệ khác nhau (ảnh 13). Hầu hết
các điểm lộ đá rất thuận tiện cả về giao thông lẫn
mặt bằng khai trường, nằm cách biệt với khu dân
cư và không ảnh hưởng đến diện tích vực canh tác.
Ảnh 13. Đá cát kết hạt nhỏ mịn, độ kết khối lớn, màu
xanh lục nhạt, phân bố ở khu vực Đại Chánh, Đại Lộc
(Quảng Nam) và sản phẩm chế tác từ đá này
2.2. Các đá magma
Đá magma cũng có diện phân bố rất lớn ở khu
vực Miền Trung, song chúng tôi mới chỉ tiến hành
nghiên cứu sơ bộ các đá thuộc phức hệ Điền
Thượng (νP3 đt), Chà Vằn (νaT3 cv) và Trà Bồng
(δ-γδO-S tb).
Các thành tạo thuộc phức hệ Điền Thượng (νP3
đt) gồm các khối Đồi Chân, Cao Trỉ (thuộc huyện
Ngọc Lặc) và các khối Điền Trung và Điền Hạ
(thuộc huyện Bá Thước). Đá có thành phần chủ
yếu là gabro, gabrođiaba hạt trung [11], màu xanh
xám, xanh nhạt chứa các tinh thể pyroxen,
500
amphibol màu xanh đen hình que dài phân bố dạng
dòng chảy, dạng chùm, tỏa tia nổi lên trên nền màu
trắng đục phớt lam nhạt của tập hợp feldspar và
thạch anh tạo cho đá có cấu trúc rất đặc sắc, có thể
khai thác sử dụng để chế tác các mặt hàng trang lát,
trang trí.
Các thành tạo thuộc phức hệ Chà Val (νaT3 cv)
được chúng tôi quan tâm nghiên cứu gồm có các
khối Phú Lộc, Nam Đông, La Hí,... với các biến
loại chủ yếu như: gabronorit hạt mịn, gabro
pyroxenit hạt vừa, gabro pegmatit, pyroxenit hạt
lớn, hạt trung [10]. Hầu hết đá có cấu tạo khối rắn
chắc, màu xanh đen hoặc xanh đen có chứa
các đốm trắng của khoáng vật nhóm feldspar, đây
cũng là mặt hàng đặc trưng cho đá ốp lát của tỉnh
Thừa Thiên - Huế mà ở nơi khác không có. Hiện
nay các khối Phú Lộc (huyện Phú Lộc), khối La Hí
(huyện Nam Đông) đang được khai thác để sản
xuất đá ốp lát, phục vụ trang trí nội thất và xuất
khẩu. Khu vực phân bố các loại đá gabroit thường
dễ khai thác, thuận tiện giao thông, trữ lượng lớn.
Các đá thuộc phức hệ Trà Bồng (δ-γ δO-S tb)
gồm có điorit, granođiorit biotit, granit biotit, đá lộ
ra ở khu vực xã Hướng Phùng, huyện Hướng Hóa
(Quảng Trị). Tại khu vực này quan sát thấy đá bị
biến chất rất mạnh, có cấu tạo dạng gneis, gồm các
dải mạch feldspar và biotit ngoằn nghoèo xen các
đốm ổ feldspar dạng mắt màu trắng đục, trắng xanh
nhạt, tạo cho đá ở đây có cấu trúc rất đặc sắc.
Tuy nhiên, đá có độ cứng cao do vậy rất khó cho
việc chế tác các đồ mỹ nghệ tinh xảo, có lẽ chúng
chỉ phù hợp cho sản xuất đá trang lát phục vụ cho
các công trình xây dựng cao cấp.
Ngoài các đá kể trên, trong khu vực Miền
Trung còn rất nhiều các biến loại đá magma thuộc
các phức hệ Trường Sơn, Sông Mã, Đại Lộc, Bến
Giằng - Quế Sơn, Hải Vân, Bà Nà, có đầy đủ
các tiêu chuẩn để khai thác sử dụng làm đá trang
lát và vật liệu xây dựng. Trữ lượng dự báo trong
khu vực này lên tới hàng chục tỷ tấn, hầu hết điều
kiện khai thác và vận chuyển khá thuận lợi.
2.3. Các đá biến chất
Các đá biến chất lộ ra với khối lượng khá lớn ở
khu vực A Râng, huyện A Lưới dưới dạng các tập
dày, chủ yếu là cát kết dạng quarzit, quarzit biotit
hoặc phiến thạch anh sericit thuộc hệ tầng A Vương
(€2-O1av). Đá rắn chắc, gồm có hai loại: loại thứ
nhất là các tập phân dải dày song có sự đan xen giữa
các dải màu đen sắc tím nhạt của biotit, amphibol
với các dải màu trắng đục của thạch anh hoặc trắng
phớt xanh lục của feldspar, thường bị ép nén tạo ra
các nếp oằn nhỏ làm cho chúng có cấu tạo rất đặc
sắc. Đây là biến loại có thể dùng để làm đá trang lát
cao cấp hoặc chế tác thành các bức tranh đá nghệ
thuật rất ấn tượng (ảnh 14). Loại thứ hai có cấu tạo
dạng khối hoặc phân dải rất dày, đá có độ hạt khá
mịn, màu xanh xám nhạt, xanh lam nhạt, trong có
chứa các ban tinh feldspar hoặc thạch anh màu trắng
đục nổi lên trên nền màu xanh tạo cho đá có sắc thái
khá đẹp.
Ảnh 14. Đá biến chất tướng sừng với nhiều dải màu xen
kẽ đặc sắc phân bố ở khu vực A Râng, A Lưới (Thừa
Thiên - Huế) và mẫu sản phẩm chế tác từ loại đá này
Tại khu vực Phước Tường (quận Cẩm Lệ, Đà
Nẵng) cũng quan sát thấy các đá thuộc hệ tầng A
Vương lộ ra dưới dạng các tập khá dày, gồm hai
loại: loại thứ nhất có màu xanh xám nhạt, xanh lam
nhạt, kích thước hạt khá mịn. Loại thứ hai có màu
đen, đen nhạt trong có chứa các dải mảnh feldspar
màu trắng uốn lượn, tạo cho đá có sắc thái khá
đẹp có thể dùng để làm đá trang lát. Đặc biệt trong
khu vực này còn gặp các mạch thạch anh thuần
khiết có màu hồng nhạt (ảnh 15) với bề dày từ
vài centimét đến 20-50cm xuyên theo các khe nứt
tách hoặc theo mặt phân phiến của đá. Ngoài ra, ở
đây còn quan sát thấy các mạch thạch anh hồng
nhạt đóng vai trò xi măng gắn các mảnh đá màu
đen tạo cho chúng có hình thù đặc sắc, có thể khai
thác trực tiếp để chế tác làm đá trang trí. Sự có mặt
khá nhiều các đá granit biotit dạng mạng mạch (có
thể thuộc phức hệ Bà Nà) xuyên cắt các thành tạo
trầm tích hệ tầng A Vương có lẽ là nguồn nhiệt
dịch để hình thành các mạch thạch anh thuần
khiết với nhiều màu sắc khác nhau xuất hiện ở
điểm lộ này.
501
Ảnh 15. Thạch anh màu hồng nhạt xuyên theo khe nứt
của đá biến chất, phân bố ở khu vực Phước Tường
(quận Cẩm Lệ, Đà Nẵng) và mẫu sản phẩm chế tác từ
chủng loại này
2.4. Đá silic đỏ (Jasma)
Hiện tại ở khu vực Miền Trung chỉ mới gặp
biến loại này trong địa bàn tỉnh Thanh Hóa, thuộc
các huyện Ngọc Lặc (làng Chò Tráng, xã Cao
Ngọc) và Bá Thước (Suối Má, xã Điền Thượng;
Làng Đèn, xã Điền Hạ).
Ở khu vực Ngọc Lặc, đá lộ ra dưới dạng các
tảng lăn có kích thước khác nhau, phổ biến loại có
đường kính 30-50cm (ảnh 16) dạng hơi tròn, phân
bố rải rác dưới dạng các tảng lăn dọc theo các con
suối trong vùng, đá hầu hết có màu đỏ, nâu đỏ, dọc
theo các vết nứt của đá có các dải mỏng màu đen
(sắt dạng limonit) lấp đầy, nhiều khi trong đá còn
thấy các tinh hốc nhỏ. Ở khu vực Bá Thước các đá
này cũng tồn tại dưới dạng các tảng lăn với kích
thước từ vài dm3 đến vài mét khối (ảnh 17), chúng
phân bố rải rác dọc theo các thung lũng, theo các
lòng suối cổ kéo dài hàng ki lô mét và rộng hàng
trăm mét. Đá rất cứng chắc và hầu hết có màu đỏ
nâu nhạt cùng các gân mạch xen kẽ màu xám tro,
trắng đục, Thành phần chủ yếu là silic vô định
hình và các vi hạt thạch anh phân bố thành các dải
song song theo cùng một phương.
Ngoài ra, ở khu vực Làng Đèn chúng tôi còn
gặp loại đá màu nâu đỏ mận, có kiến trúc hạt rất
mịn, tồn tại dưới dạng tảng lăn, kích thước lớn nhỏ
khác nhau, chúng có độ mài nhẵn khá tốt, dưới
kính quan sát thấy đá được cấu tạo từ vô vàn các vi
hạt thạch anh nhiễm sắt.
Trước đây, đá đỏ phân bố ở các khu vực trên
đã được khai thác để làm nền cờ trong lăng Hồ
Chủ Tịch.
Ảnh 16. Đá đỏ (Jasma) dạng tảng lăn kích thước nhỏ,
đá có kết cấu cứng chắc, phân bố dọc theo các suối
nhỏ ở khu vực Cao Ngọc, Ngọc Lặc (Thanh Hóa)
Ảnh 17. Đá đỏ (Jasma) dạng tảng lăn kích thước lớn,
phân bố dọc theo các lòng suối cổ ở khu vực Xóm Đèn,
Điền Hạ, Bá Thước (Thanh Hóa) và mẫu sản phẩm chế
tác từ loại đá này
2.5. Đá nazơđac
Loại đá này chỉ gặp duy nhất trong địa phận
xã Châu Thành, huyện Quỳ Hợp (Nghệ An). Đá
tồn tại dưới dạng các tảng lăn phân bố dọc theo
suối Nậm Guap, Nậm Roong. Đá có giá trị kinh
tế đã bị khai thác gần như cạn kiệt, hiện tại chỉ
còn lại các tảng lăn giàu magnetit, hematit và tập
hợp sericit trong có chứa lát đác các khoáng vật
nhóm coridon màu xanh nhạt. Nghiên cứu dưới
lát mỏng cho thấy đá gồm các khoáng vật chủ
yếu như điaspor, albit, sericit và các khoáng vật
quặng nhóm sắt.
Hiện tại đá nazơdac loại có kích thước lớn
được lấy từ Châu Thành đã được các nghệ nhân
chế tác thành tượng Di Lặc và trưng bày tại sảnh
chính của chùa Bái Đính, Ninh Bình và một số
chùa khác.
502
2.6. Thạch anh tinh thể
Trong khu vực Miền Trung, chúng tôi mới chỉ
nghiên cứu thạch anh tinh thể đi kèm trong mỏ sắt-
mangan ở Đức Lập, Đức Thọ (Hà Tĩnh). Thạch
anh tinh thể nằm lẫn trong quặng Fe-Mn có dạng
lăng trụ lục giác ngắn với đỉnh dạng chóp, kích
thước khá đồng đều, chiều ngang đạt đến 5cm,
chiều dài 7-8cm đôi khi đến 10cm, đa số chúng có
màu trắng đục hoặc trong suốt khác nhau. Qua
nghiên cứu cho thấy, các moong khai thác càng
xuống sâu thì hàm lượng quặng Fe-Mn càng giảm
nhưng lượng thạch anh lại tăng lên, do vậy phần
nằm dưới các vỉa quặng Fe-Mn ở đây có thể còn
xuất lộ nhiều hơn nữa các tinh thể thạch anh có
chất lượng cao (ảnh 18).
Ảnh 18. Thạch anh tinh thể trong suốt có màu
trắng đục phân bố trong các moong khai thác cùng
quặng Fe-Mn ở khu vực Đức Lập, Đức Thọ (Hà Tĩnh)
3. Độ bền của các loại đá
Do các loại đá có thành phần, kiến trúc và cấu
tạo khác nhau nên chúng cũng có các tính chất và
độ bền khác nhau, là một trong những yêu cầu cần
thiết để đánh giá khả năng sử dụng trong xây dựng,
trang lát và chế tác hàng mỹ nghệ. Để có cơ sở
đánh giá độ bền của các biến loại đá nghiên cứu,
chúng tôi đã chọn một số mẫu đại diện gửi phân
tích tính chất cơ lý tại Phòng thí nghiệm và kiểm
định chất lượng công trình thuộc Công ty
CPĐTKHCN vật liệu và kiểm định-XN8. Các kết
quả phân tích được dẫn ra ở bảng 1 cho thấy những
thông số đặc trưng cơ bản của chúng như sau:
- Cường độ kháng nén: Nói đến độ bền của đá
trước hết phải kể đến cường độ kháng nén khi khô
gió (σnkg), chúng được thử bằng cách nén mẫu trên
máy ép với lực phá vỡ mẫu trên 200 tấn. Kết quả
cho thấy cường độ kháng nén trung bình của các
mẫu có giá trị cao 1013-1489,4kg/cm3 (đá silic đỏ,
quarzit, gabro, đá vôi đen Yên Lâm), trung bình từ
589-792kg/cm3 (đá vôi đen có chứa các dải calcit,
hồng nhạt, sọc dải) và thấp dưới 500kg/cm3 (đá
hoa trắng, cát kết).
- Hệ số kiên cố (f): Cũng là một trong những đại
lượng đặc trưng cho độ bền của đá; theo kết quả
phân tích có thể xếp độ bền vững các đá nghiên
cứu thành 3 cấp (bảng 1): Loại có độ bền vững khá
với f dao động từ 16 đến 23, gồm có các loại như
đá silic đỏ, đá biến chất dạng quarzit, đá gabro.
Loại có độ bền vững trung bình với f dao động từ 7
đến 10,7 gồm có các loại như đá vôi đen, hồng và
sọc dải. Loại có độ bền vững thấp hơn với
f dao động từ 4,3 đến 6,7, gồm có các loại
Bảng 1. Một số kết quả thí nghiệm tính chất cơ lý mẫu đá ở các khu vực khác nhau của miền Trung Việt Nam
Cường độ
kháng nén TT Tên đá, vị trí lấy mẫu
Dung
trọng
(g/cm3)
Tỷ
trọng
Độ rỗng
(%)
Độ ẩm
bão hòa
(%) Khô gió Bão hòa
Hệ số
biến
mềm
Hệ số
kiên cố
(f)
Độ mài mòn
(g/cm2×600m
1 Đá đỏ Điền Hạ, Bá Thước -Th.Hóa 2,94 2,99 0,15 0,41 1160 1171 1,0 19 0,46
2 Đá biến chất A Râng, A Lưới -TTH 2,60 2,65 0,18 0,28 1055 1013 0,96 16 0,53
3 Đá vôi đen Núi Vức, Tp. Th. Hóa 2,69 2,70 0,37 0,19 833 792 0,95 8,0 0,98
4 vôi đen Yên Lâm, Y.Định - Th. Hóa 2,72 2,73 0,37 0,21 1263 1201 0,95 10,7 0,67
5 Đá vôi silic Anh Sơn - Nghệ An 2,70 2,71 0,37 0,26 633 589 0,93 6,7 1,05
6 Đá vôi trắng Châu Hồng - Nghệ An 2,68 2,70 0,74 0,28 315 292 0,93 4,3 1,65
7 Đá vôi sọc dải Châu Hạnh-Nghệ An 2,68 2,69 0,74 0,31 670 622 0,93 7,0 1,12
8 vôi hồng nhạt Tuyên Hóa - Q. Bình 2,70 2,71 0,37 0,30 636 592 0,93 7,2 1,02
9 Đá cát kết Đại Chánh Đại Lộc, Q.Nam 2,62 2,64 1,64 0,25 473 312 0,66 6,5 1,56
10 Đá Gabro Phú Lộc TT-Huế 2,82 2,86 0,19 0,17 1742 1489,4 0,91 23 0,51
Chú thích: các kết quả được phân tích tại Phòng thí nghiệm và kiểm định chất lượng công trình thuộc Công ty Cổ phần
Đầu tư KHCN vật liệu và kiểm định - XN8
503
như đá vôi hoa hóa màu trắng, đá vôi silic và cát
kết. Các đá có độ bền vững cao lại thường cứng
chắc chủ yếu dùng để trang lát do chúng rất khó
chế tác các mặt hàng mỹ nghệ.
- Độ biến mềm: Trong một số trường hợp đá
thường xuyên phải chịu tác động của mưa nắng gây
ra sự biến mềm làm giảm độ bền của đá. Hệ số biến
mềm được xác định bằng tỷ số giữa cường độ kháng
ép dạng bão hòa ngâm trong nước cho đến khi trọng
lượng không đổi và cường độ kháng ép khi khô
được xấy đến khi trọng lượng không đổi. Giá trị của
tỷ số càng lớn, đá càng bền vững khi chịu tác dụng
với nước. Kết quả phân tích cho thấy các đá có độ
chặt xít lớn như đá silic đỏ, quarzit, gabro, đá vôi
đen có hệ số biến mềm cao, trung bình là các loại đá
vôi khác và thấp nhất là đá cát kết.
- Độ rỗng: Theo kết quả phân tích cho thấy độ
rỗng các đá nghiên cứu đều nhỏ (0,15-0,74%), chỉ
có cát kết là khá cao (1,64%), tuy nhiên các giá trị
này đều nhỏ hơn nhiều giới hạn cho phép (<5%)
[5, 7]. Các đá có độ rỗng cao thường có mức độ hút
nước lớn làm giảm độ bền của đá. Như vậy các đá
nghiên cứu có độ chặt xít cao như đá silic đỏ,
quarzit, gabro có độ bền chắc nhất, các loại đá vôi
và cát kết kém bền hơn.
- Độ mài mòn: Được xác định trên máy thí
nghiệm hệ số mài mòn để tính ra bình quân trọng
lượng mất so với diện tích được mài. Qua số liệu
có được chúng tôi cũng tạm thời phân ra 3 loại.
Loại I, cứng khó mòn hơn cả, độ mài mòn từ 0,46
đến 0,51 (đá silic đỏ, quarzit, gabro). Loại thứ II,
tương đối dễ mòn, độ mài mòn 0,67-0,98 (đá vôi
đen). Loại thứ III, rất dễ mòn, độ mài mòn từ 1,02
đến 1,56 (gồm các đá vôi còn lại và cát kết).
Trên đây là một số chỉ tiêu đặc trưng cho độ
bền của các đá nghiên cứu, ngoài ra các đặc điểm
khác như độ bóng, màu sắc, kích thước, độ vĩnh
cửu cũng cần phải quan tâm khi xem xét đá được
sử dụng vào mục đích gì.
- Độ bóng của đá phụ thuộc khá nhiều các yếu tố
khác nhau, đá có chứa nhiều khoáng vật có độ cứng
cao thường có độ bóng cao hơn như đá đỏ, quarzit,
magma. Độ bóng trung bình như các đá vôi; độ
bóng thấp như cát kết. Nói chung, độ bóng các đá
còn tùy thuộc vào chúng có chứa nhiều hay ít
khoáng vật quặng (như sulfur) hoặc các khoáng vật
khá mềm trong thành phần của chúng (như mica).
Trong quá trình chế tác có thể chọn lọc để loại bỏ
bớt các phần đá chứa nhiều các khoáng vật kể trên.
- Màu sắc là một trong những yêu cầu quan
trọng trong chế tác hàng mỹ nghệ cũng như trong
các loại công trình xây dựng. Đá cũng cần phải có
các màu và độ bóng phù hợp để chế tác các mặt
hàng mỹ nghệ theo các chủ đề khác nhau hoặc
trong xây dựng và trang lát các loại công trình khác
nhau. Để có những nhận định chung hay khái niệm
sơ bộ, chúng tôi tạm thời đánh giá và xếp loại mức
độ đẹp về màu sắc của các biến loại đá nghiên cứu
trong khu vực Miền Trung ở bảng 2 dưới đây:
Bảng 2. Đánh giá sơ bộ về “mức độ đẹp” của các biến loại đá khu vực Miền Trung trên cơ sở màu sắc
Mức độ đẹp của đá qua màu sắc
Tên đá Rất đẹp Đẹp vừa
Đá silic đỏ
Đỏ nâu đậm ít các vệt limonit xen lấp trong các vết nứt
(thuộc loại trang lát, trang trí cao cấp), đá có mặt ở Cao
Ngọc, Ngọc Lặc, Thanh Hóa.
Đỏ nâu, đỏ nhạt, nâu đỏ mận có chứa các dải limonit và
các dải hoặc các ổ thạch anh trắng đục loang lổ (thuộc
dạng đá cảnh hoặc trang trí), đá phân bố ở Điền Thượng,
Điền Hạ, Bá Thước, Thanh Hóa.
Quarzit
Các sọc dải trắng đục, lục nhạt, xám nhạt, đen sắc tím phân
bố dạng xen kẽ uốn lượn (thuộc dạng đá cảnh hoặc trang
trí). Quarzit loại I ở A Râng, A Lưới,Thừa Thiên-Huế.
Cùng màu đen xám, xanh xám nhạt có xen các dải mỏng
màu trắng hoặc các ban tinh màu trắng đục. Quarzit Cẩm
Lệ, Đà Nẵng và quarzit loại II ở A Râng, A Lưới,Thừa
Thiên-Huế.
Đá vôi,
đá hoa
Nhiều màu sắc xen kẽ cảnh quan lộng lẫy, sọc dải, vân mây,
da báo, vàng hồng nhạt. Các loại này có mặt ở Hà Trung
(Thanh Hóa), Quỳ Châu, Anh Sơn (Nghệ An), Minh Hóa
(Quảng Bình), Nam Giang (Quảng Nam)
Cùng màu đen, xám sáng, nâu nhạt, trắng đục, trắng tinh
khiết. Các loại này có mặt ở Yên Định, Cẩm Thủy, Ngọc
Lặc, Đông Sơn (Thanh Hóa), Quỳ Hợp, Con Cuông,
Quỳnh Lưu (Nghệ An), Tuyên Hóa, Bố Trạch, Lệ Thủy
(Quảng Bình), Cam Lộ, Hướng Hóa (Quảng Trị), Nam
Đông, Hương Trà (Thừa Thiên - Huế).
Cát kết
Đều màu: Xanh lục nhạt hạt mịn; vàng cam nhạt hạt
thô và hạt mịn. Đá có mặt ở Đại Lộc, Duy Xuyên
(Quảng Nam).
Các đá
Gabroit
Màu đen đều, hạt khoáng vật có độ đậm nhạt và óng ánh
khác nhau. Đá có mặt ở Ngọc Lặc, Lang Chánh, Bá Thước
(Thanh Hóa), Phú Lộc, Nam Đông (Thừa Thiên - Huế).
Màu đen lục nhạt, hạt nhỏ. Các đá mạch hoặc đá rìa khối
của khu vực phổ biến các khối gabro.
Các đá
Granitoit
Màu xám trắng đục với các dải mạch đen, đốm đen cùng
các ban tinh feldspar trắng đục, hồng nhạt, cấu tạo dải hoặc
ban tinh. Đá có mặt ở Hướng Hóa (Quảng Trị), Quế Sơn
(Quảng Nam).
Các màu trắng đục, vàng nâu nhạt, cấu tạo khối. Rất phổ
biến ở Tuyên Hóa- khối Đồng Lê (Quảng Bình), Ngọc Ni,
Hương Sơn (Hà Tĩnh) và các khu vực khác nhau ở Thừa
Thiên - Huế, Đà Nẵng, Quảng Nam,...
504
4. Kết luận
Các tỉnh Miền Trung có nguồn nguyên liệu đá
mỹ nghệ và trang lát rất đa dạng và phong phú. Các
nhóm đá trầm tích (trầm tích sinh hóa-carbonat,
trầm tích lục nguyên-cát kết), biến chất, magma;
các đá bán quý,... là nguồn tài nguyên có tiềm năng
nhất để sử dụng vào việc sản xuất và chế tác các
sản phẩm mỹ nghệ cũng như làm đá trang trí, ốp
lát. Quá trình nghiên cứu cho thấy nhiều loại đá có
mặt trong địa bàn các tỉnh Miền Trung đáp ứng
được yêu cầu về đặc tính cơ lý, mỹ thuật và chúng
có trữ lượng rất lớn đảm bảo khai thác lâu dài. Lợi
thế của những khu vực phổ biến các biến loại đá
nghiên cứu là gần các trục đường giao thông. Đây
là nguồn tài nguyên quý đối với các tỉnh Miền
Trung và nếu chúng được sử dụng đúng hướng,
đúng mục đích sẽ giúp cho các tỉnh có thế mạnh để
phát triển kinh tế ngành nghề mới trong tương lai,
đặc biệt là ở quy mô địa phương. Điều này sẽ góp
phần tích cực vào việc bổ sung cơ cấu ngành nghề
của các tỉnh và tạo điều kiện cho ngành nghề mới
có điều kiện phát triển, tạo công ăn việc làm, góp
phần xóa đói giảm nghèo.
Có thể tham khảo một ví dụ về giá trị của
những sản phẩm mỹ nghệ bằng đá đặc sắc, khi đến
làng đá Non Nước (Quận Ngũ Hành Sơn, Tp. Đà
Nẵng). Các sản phẩm bằng đá được trưng bày trên
đường Huyền Trân Công Chúa và đường Lê Văn
Hiến san sát như một siêu thị, rất đa dạng về chủ
đề với đủ kiểu dáng, kích cỡ khác nhau. Doanh thu
từ nghề đá mỹ nghệ hàng năm của làng đá đạt 100
- 120 tỷ đồng, quả là con số ấn tượng đối với nhiều
làng nghề truyền thống hiện nay. Nằm ngay trong
lòng danh thắng Ngũ Hành Sơn, từ lâu làng đá mỹ
nghệ Non Nước đã trở thành một điểm tham quan,
mua sắm đồ lưu niệm hấp dẫn của du khách mỗi
khi đến Đà Nẵng. Nhờ vậy đá mỹ nghệ Non Nước,
một sản phẩm rất đặc sắc của Việt Nam đã theo
chân du khách có mặt ở nhiều nơi trên thế giới.
TÀI LIỆU DẪN
[1] Trần Tuấn Anh (chủ biên), 2007: Điều tra
đánh giá một số loại hình nguyên liệu khoáng để
sản xuất hàng mỹ nghệ, góp phần phát triển công
nghiệp địa phương tỉnh Hòa Bình, lưu trữ Viện Địa
chất-Viện KH và CN Việt Nam, 140 tr., Hà Nội.
[2] Lê Duy Bách (chủ biên), 1995: Bản đồ Địa
chất và khoáng sản tờ Thanh Hóa, tỷ lệ 1: 200.000,
Cục Địa chất Việt Nam, Hà Nội.
[3] Lê Duy Bách (chủ biên), 1995: Bản đồ Địa
chất và khoáng sản tờ Sầm Nưa, tỷ lệ 1:200.000,
Cục Địa chất và khoáng sản Việt Nam, Hà Nội.
[4] Nguyễn Xuân Dương (chủ biên), 1996: Bản
đồ Địa chất và khoáng sản tờ Lệ Thủy - Quảng Trị,
tỷ lệ 1:200.000, Cục ĐC & KSVN, Hà Nội.
[5] John A. Franklin, Maurice B. Dusseault,
2000: Cơ học đá công trình. Nxb. Giáo dục, 192tr,
Hà Nội (Bản dịch tiếng Việt).
[6] Trần Trọng Hòa (chủ biên), 2006: Điều tra
đánh giá một số loại hình nguyên liệu khoáng để
sản xuất hàng mỹ nghệ, góp phần phát triển công
nghiệp địa phương các tỉnh miền núi phía bắc (Cao
Bằng, Lạng Sơn, Thái Nguyên, Yên Bái và Hòa
Bình), lưu trữ Viện Địa chất - Viện KH và CN Việt
Nam, 134tr.
[7] Lê Đình Hữu, Trần Quốc Hải, Nguyễn
Trọng Sủng, 1971: Vài nét về đá trang lát ở miền
Bắc Việt Nam. Tạp chí Địa chất, số 99, loạt A,
tr.18-22, Hà Nội.
[8] Đinh Minh Mộng (chủ biên), 2004: Bản đồ
Địa chất và khoáng sản tờ Ninh Bình, tỷ lệ
1:200.000, Cục Địa chất và khoáng sản Việt Nam,
Hà Nội.
[9] Đinh Minh Mộng (chủ biên), 2004: Bản đồ
Địa chất và khoáng sản tờ Vinh 1:200.000, Cục
Địa chất và khoáng sản Việt Nam, Hà Nội.
[10] Bùi Ấn Niên, Trần Quốc Hùng, 2001: Đặc
điểm thành phần vật chất và điều kiện hình thành
khối gabroit Phú Lộc”, Tạp chí các KH về TĐ,
T.23, 1, tr.22-32.
[11] Bùi Ấn Niên, Hoàng Hữu Thành, 2001: Đặc
điểm thành phần, nguồn gốc và điều kiện thành tạo
của các xâm nhập gabroit Đồi Chân, Cao Trỉ trên
cơ sở tài liệu mới, Tạp chí các KH về TĐ, 31, 1,
tr.85-95.
[12] Trần Tính (chủ biên), 1996: Bản đồ Địa
chất và khoáng sản tờ Hà Tĩnh - Kỳ Anh, tỷ lệ
1:200.000, Cục Địa chất Việt Nam, Hà Nội.
[13] Trần Tính (chủ biên), 1996: Bản đồ Địa chất
và khoáng sản tờ Mahaxay-Đồng Hới, tỷ lệ
1:200.000, Cục Địa chất &KS Việt Nam, Hà Nội.
[14] Nguyễn Văn Trang (chủ biên), 1996: Bản đồ
Địa chất và khoáng sản tờ Hướng Hóa - Huế - Đà
Nẵng, tỷ lệ 1:200.000, Cục Địa chất và khoáng sản
Việt Nam, Hà Nội.
505
[15] Sơ đồ địa chất và đặc điểm phân bố đá hoa
trắng vùng Quỳ Hợp, Nghệ An, tỷ lệ 1:25.000.
Liên đoàn Địa chất Bắc Trung Bộ, năm 2002. Lưu
trữ Sở KH và CN, Nghệ An.
SUMMARY
Distribution characteristics, the dissemination and quality of the fine arts and decorative rocks in the centre of Vietnam
The middle centre of Vietnam had huge potetial of the fine arts and decorative rocks, including magmatic,
sedimentary, metamorphic and half precious rocks (jasma, quartz crystal, nazodac).
Bioche-limestones have the largest reserves, many colors, beautiful shepes and patterns along with the good-solid
distribution. They concentrated in the provinces of Thanh Hoa, Nghe An, Quang Binh and considerabl amount in Quang
Tri, Thua Thien-Hue, more rare in Ha Tinh, Quang Nam provinces.
Sedimentary rocks of Huu Chanh formations in the Quang Nam have high commercial value. Magmatic rocks
exposed with huge mass include: gabbroid, gabbrodiabase, granitoid, those have colorific, multiform arch-structure
distributed mainly in Thanh Hoa, Ha Tinh, Quang Bình, Thua Thien-Hue and Quang Nam provinces. Metamorphic rocks
of phase horny and phase green schistic with beautiful structure are olso present with significant quantities distributed
more in Quang Tri, Thua Thien-Hue and Da Nang city suburb. There are also semi-precious stones such as jasma and
quartz crystal, nazodac in the study area which are distributed on some places in the provinces Thanh Hoa, Nghe An
and Ha Tinh.
Motst of the above types stones are required to meet the physical and mechanical properties, fine arts for the
manufacture and processing of products as well as decorative paving stones. Special variables stones are very large
reserves to ensure long term to exploit. The advantage of the distributed stones is near the roads and easily accessible
for exploitation.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 2809_9238_1_pb_1033_2108028.pdf