KẾT LUẬN
Đề tài đã xác định được 12 loài
thuộc nhóm ngoại lai xâm hại (5 loài) và
thực vật xâm lấn (7 loài) có mức độ phân
bố nhiều. Trong đó, xét mức độ đe dọa đến
tài nguyên rừng và sản xuất lâm nghiệp, thì
Bìm bôi hoa vàng được xác định là có tác
động ảnh hưởng xấu hàng đầu.
Bìm bôi hoa vàng phân bố hầu hết
trên các dạng sinh cảnh, từ đất trống đến
rừng tự nhiên phục hồi sau nương rẫy và
chỉ không thấy xuất hiện ở sinh cảnh rừng
giàu. Mức độ phân bố của loài phụ thuộc
vào đặc điểm sinh cảnh và sự tác động của
con người. Ở các sinh cảnh ít khi bị tác
động thì phân bố nhiều, hơn ở những sinh
cảnh bị tác động thường xuyên. Xuất hiện
chủ yếu là cây trưởng thành, đường kính
gốc bình quân 4 - 5 cm và chiều dài thân
chính 20 - 30 m. Nơi có Bìm bôi hoa vàng
phân bố, có sự suy giảm đáng kể về lượng
cây gỗ tái sinh triển vọng. Số lượng cây gỗ
tái sinh triển vọng phân bố với mật độ vào
khoảng 350 cây/ha bằng 1/3 nơi không có
bìm bôi phân bố là 1.008 cây/ha. Độ che
phủ của vật rơi rụng chiếm đến 95% gấp
hai lần so với nơi không bị bìm bôi che
phủ; sự chênh lệch về biên độ ánh sáng
cũng rất lớn 3.271,25 lux so với 1.243 lux
nơi không bị che phủ lân cận. Sự xuất hiện
của loài này kéo theo sự gia tăng rất lớn tỷ
lệ các sinh vật phụ sinh như rêu, địa y hay
các sinh vật phân hủy hữu cơ như kiến,
mối, giun tỷ lệ xuất hiện của nhóm này
cao gấp 3 – 4 lần so với những nơi không
bị che phủ tại các vị trí lân cận. Chúng có
thể là tác nhân gây bệnh hay làm ảnh
hưởng đến khả năng nảy mầm của hạt
giống hoặc làm tăng khả năng ảnh hưởng
tiêu cực đến cây tái sinh. Bìm bôi hoa vàng
là loài có khả năng tự phát tán. Ngoài ra
chúng còn phát tán nhờ gió, nhờ nước, nhờ
động vật và cả con người.
Mặc dù là loài này đang phát triển
rất mạnh và có tác động bất lợi rất lớn đến
chất lượng rừng và đa dạng sinh học như
vậy, nhưng hiện vẫn chưa được liệt vào
danh sách các loài xâm lấn nguy hại hoặc
có các giải pháp phòng trừ hiệu quả. Do
đó, cần có nghiên cứu đánh giá trên phạm
vi rộng hơn để từ đó có cơ sở cập nhật các
văn bản pháp quy có liên quan, trong đó
cần đưa loài Bìm bôi hoa vàng vào nhóm
loài xâm lấn có nguy cơ rất cao và có các
giải pháp phòng trừ hiệu quả.
LỜI CẢM ƠN
Nhóm nghiên cứu xin chân thành cảm
ơn sự hỗ trợ kinh phí cho hoạt động nghiên cứu
của dự án FTVIET (R4D project 400440-
169430: "Assessing the 'nature ' of a 'forest
transition' in Vietnam: ecosystem services and
social-ecological resilience in locally managed
forest landscapes).
10 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Lượt xem: 8 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đặc điểm phân bố, mức độ tác động và con đường phát tán của loài bìm bôi hoa vàng (merremia boisiana) tại huyện A Lưới tỉnh Thừa Thiên Huế, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
HUAF JOURNAL OF AGRICULTURAL SCIENCE & TECHNOLOGY ISSN 2588-1256 Vol. 4(2)-2020:1960-1969
1960 Nguyễn Hợi và cs.
ĐẶC ĐIỂM PHÂN BỐ, MỨC ĐỘ TÁC ĐỘNG VÀ CON ĐƯỜNG PHÁT TÁN
CỦA LOÀI BÌM BÔI HOA VÀNG (Merremia boisiana) TẠI HUYỆN A LƯỚI
TỈNH THỪA THIÊN HUẾ
Nguyễn Hợi*, Trần Minh Đức, Trần Nam Thắng, Hồ Đăng Nguyên,
Đinh Diễn
Trường Đại học Nông Lâm, Đại học Huế
*Tác giả liên hệ: nguyenhoi@huaf.edu.vn
Nhận bài: 19/04/2020 Hoàn thành phản biện: 15/05/2020 Chấp nhận bài: 18/06/2020
TÓM TẮT
Bìm Bôi hoa vàng (Merremia boisiana) xuất hiện ngày càng nhiều trên địa bàn huyện A Lưới
tỉnh Thừa Thiên Huế. Nghiên cứu này xác định đặc điểm phân bố, những tác động đến sinh cảnh và
con đường phát tán của loài. Hoạt động nghiên cứu thực địa gồm: điều tra theo tuyến, lập ô tiêu chuẩn
trên các dạng sinh cảnh khác nhau đã xác định được 12 loài, bao gồm 5 loài ngoại lai xâm hại và 7
loài thực vật xâm lấn. Trong đó tác động ảnh hưởng lớn nhất đến sinh cảnh rừng là loài Bìm bôi hoa
vàng. Loài này có mặt trên hầu hết các dạng sinh cảnh và chỉ không thấy xuất hiện ở rừng giàu. Loài
phân bố theo cụm, chủ yếu là cây trưởng thành đường kính gốc bình quân 4 – 5 cm, chiều dài thân
chính 20 - 30 m. Chúng đang tạo ra một hệ lụy kép có lợi cho bản thân và gây hại cho các loài sống
cùng trong sinh cảnh. Trong sinh cảnh có loài này sinh sống, có sự suy giảm đáng kể về lượng cây gỗ
tái sinh triển vọng. Ngoài ra, chúng còn tạo ra những điều kiện bất lợi khác như tăng gấp hai lần lượng
vật rơi rụng; tăng chênh lệch về biên độ ánh sáng gấp 3 lần; tăng tỷ lệ các sinh vật phụ sinh và phân
hủy gấp 3 – 4 lần so với những nơi không bị che phủ. Loài này có thể phát tán nhờ gió, nhờ nước, nhờ
động vật, nhờ hoạt động của con người và còn có khả năng tự phát tán trong đó tự phát tán nhờ gió là
lớn nhất.
Từ khóa: Bìm bôi hoa vàng, Phát tán, Sinh cảnh, Tác động, A Lưới
DISTRBUTION CHRACTERISTICS, IMPACT AND DISPERSAL PATHS
OF Merremia boisiana IN A LUOI DISTRICT,
THUA THIEN HUE PROVINCE
Nguyen Hoi, Tran Minh Duc, Tran Nam Thang, Ho Dang Nguyen,
Dinh Dien
University of Agriculture and Forestry, Hue University
ABSTRACT
Bim boi hoa vang (Merremia boisiana) becomes more abundant in A Luoi district, Thua Thien
Hue province. This study identified the distribution of the species impacts on the habitats, and the
dispersal paths. Through transect and standard plot surveys, we identified 12 species, of which 5
invasive alien species and 7 highly invasive plant species. Among these 12 species, Bim boi hoa vang
has the highest impact on the habitat. They appears in most of the habitats, except for the pristine and
rich forests. Distributing in clusters, they are mainly mature trees with an average root diameter of 4 -
5cm, main body length of about 20 - 30 m. They are creating a double repercussion that benefits
themselves and harmful to the other species within the habitat. They significantly reduced the number
of prospective trees. They can also create other adverse conditions such as doubling the fallen
branches and leaves; increasing 3 times the difference in light amplitude; increasing the ratio of
secondary organisms and decomposing up to 3 - 4 times higher than in uncovered places. This species
can be dispersed by wind, water, animals, human activity and self-dispersing, most feasible by the
wind.
Keywords: Bim boi hoa vang, Dispersal, Habitat, Impact, A Luoi
TẠP CHÍ KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ NÔNG NGHIỆP ISSN 2588-1256 Tập 4(2)-2020:1960-1969
1961
1. MỞ ĐẦU
Bìm Bôi hoa vàng (Merremia
boisiana) là loài thực vật dây leo lớn,
đường kính thân có thể đạt 20 – 25 cm,
thuộc họ Bìm Bìm (Convolvulaceae), là
loài cây ưa sáng, hiệu suất quang hợp cao,
sinh trưởng nhanh, mọc đè lên các tán cây
xung quanh. Tác hại của Bìm bôi hoa vàng
còn trầm trọng hơn bất cứ một loài dây leo
nào trong rừng nhiệt đới, vì hầu hết các
loài dây leo khác có thể cùng sống chung
một cách hòa bình với cây gỗ, còn Bìm bôi
hoa vàng thì không (Wang và cs., 2005).
Chính vì vậy, loài này có biệt danh “Sát
thủ kiều mộc”. Bìm bôi hoa vàng bám và
phủ xuyên qua cành, lá và thân cây gỗ,
chúng chồng chất lên nhau khống chế sự
tái sinh của các trảng cỏ và trảng cây bụi tự
nhiên, từ đó đã ngăn chặn sự diễn thế phục
hồi rừng. Nguy hiểm hơn nữa đó chính là
chiết xuất từ lá của Bìm bôi hoa vàng còn
có khả năng gây ức chế sự nảy mầm của
hạt giống cây khác, đe dọa sự tái sinh của
các loài mà chúng xâm lấn (Li và cs.,
2006).
Bìm bôi hoa vàng ở Việt Nam, có
phân bố tự nhiên từ Lạng Sơn đến Đà
Nẵng. Ở Thừa Thiên Huế, Bìm bôi hoa
vàng đã xuất hiện ngày càng nhiều và đang
có nguy cơ xâm lấn ngày càng mạnh tại
các diện tích rừng như rừng đặc dụng Bắc
Hải Vân, Vườn Quốc gia Bạch Mã, khu
bảo tồn Sao la Thừa Thiên Huế Tuy
nhiên việc quản lý sự xâm lấn của loài này
hiện nay vẫn chưa thật sự được chú trọng.
Một mặt đây là loài chưa có biện pháp tiêu
diệt hiệu quả, mặt khác việc quản lý lây lan
và ngăn chặn sự xâm lấn còn bị động,
mang tính tự phát, thiếu đồng bộ, quyết
liệt, điều này có thể xuất phát từ những lý
do như sau (i) việc quản lý thực vật xâm
hại ở Việt Nam chủ yếu chỉ mới tập trung
đối với các loài ngoại lai theo thông tư
35/2018/TT-BTNMT. Điều này dẫn đến
thiếu cơ sở pháp lý để quản lý một loài
phân bố tự nhiên như Bìm bôi hoa vàng;
(ii) chưa xây dựng được bản đồ phân bố
chính xác của loài do thiếu thông tin về
đặc điểm phân bố và các nghiên cứu sâu.
Vì vậy rất khó khăn trong việc xác định về
tình hình diễn biến để có kế hoạch ngăn
chặn từ ban đầu nên thường bị động và khó
kiểm soát việc lây lan; (iii) do chưa xác
định được chính xác và cụ thể những con
đường phát tán của loài nên dẫn đến chưa
có biện pháp kiểm soát hợp lý và có hướng
phòng trừ tận gốc và toàn diện.
Nghiên cứu này, tiến hành đánh giá
phân bố các loài xâm lấn và ngoại lai xâm
hại ở khu vực nghiên cứu. Đồng thời,
thông qua việc xác định đặc điểm phân bố,
mức độ ảnh hưởng của loài Bìm bôi hoa
vàng đến tái sinh rừng và con đường phát
tán để cung cấp thông tin vừa mang tính
thực tiễn vừa mang tính khoa học làm cơ
sở cho công tác quản lý loài Bìm bôi hoa
vàng đang có xu hướng phát triển ngày
càng mạnh ở khu vực nghiên cứu nói riêng
và cả nước nói chung.
2. NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP
NGHIÊN CỨU
2.1. Nội dung nghiên cứu
- Xác định đặc điểm phân bố loài
Bìm Bôi hoa vàng trong tập đoàn các loài
thực vật xâm lấn tại khu vực nghiên cứu.
- Xác định những tác động ảnh
hưởng của loài đến sinh cảnh và con
đường phát tán của loài tại khu vực nghiên
cứu
2.2. Phương pháp nghiên cứu
Thu thập số liệu thứ cấp: Tham khảo
các bài báo khoa học, tạp chí, tài liệu
chuyên ngành liên quan đến loài Bìm bôi
hoa vàng
Thu thập số liệu sơ cấp
- Để xác định đặc điểm phân bố của
loài, đề tài thực hiện các tuyến điều tra qua
HUAF JOURNAL OF AGRICULTURAL SCIENCE & TECHNOLOGY ISSN 2588-1256 Vol. 4(2)-2020:1960-1969
1962 Nguyễn Hợi và cs.
5 trạng thái sinh cảnh có Bìm bôi hoa vàng
phân bố tại khu vực nghiên cứu là (1).
Tuyến 1 - trạng thái thảm thực vật ven
tuyến đường 74 thuộc địa phận xã A
Roàng; (2). Tuyến 2– trạng thái thảm thực
vật ven suối A nô thuộc địa phận xã Hồng
Kim; (3). Tuyến 3 – Trạng thái rừng tự
nhiên thuộc trạng thái rừng trung bình
thôn 4 xã Hồng Kim; (4) Tuyến 4 - trạng
thái rừng nghèo phục hồi sau nương rẫy bỏ
hóa thuộc địa phận đường 74 xã A Roàng;
(5) Tuyến 5 – Trạng thái thảm thực vật
liền kề ven rừng trồng keo xã Hồng Kim.
Mỗi tuyến có độ dài khoảng 3 – 5 km
được xác định bằng máy định vị GPS với
hệ tọa đọa là VN 2000. Nội dung điều tra
tuyến bao gồm:
+ Xác định sự có mặt của các loài
ngoại lai xâm hại (NLXH) theo thông tư
35/2018/TT-BTNMT về tiêu chí xác định
và ban hành danh mục loài ngoại lai xâm
hại. Bên cạnh đó cũng tiến hành xác định
các loài có khả năng cạnh tranh mạnh đe
dọa đến sự sinh trưởng phát triển của các
loài cây gỗ (gọi là thực vật xâm lấn (XL)
có nguồn gốc từ cây hoang dại) kết hợp
kiểm định thông qua tiêu chí xác định loài
xâm lấn: Có khả năng tăng trưởng và sinh
sản nhanh chóng nhờ sử dụng hiệu quả
chất dinh dưỡng ở vị trí phân bố mới; Có
khả năng lan rộng rất nhanh để ổn định
quần thể; Có thể sinh sản sinh dưỡng từ
gốc hoặc thân bị chặt; Có biên độ sinh thái
rộng đối với nhiều yếu tố môi trường; Có
khả năng tạo ra độc tố giúp lấn át loài bản
địa.
+ Xác định mức độ xuất hiện của
loài Bìm bôi hoa vàng bằng cách xác định
tần suất xuất hiện các điểm phân bố theo
tiêu chí: từ phân bố ít đến phân bố nhiều
như sau: 0: không xuất hiện hoặc thỉnh
thoảng xuất hiện, diện tích <10 m2/ha; 1: Ít
- loài ở tình trạng có xuất hiện, cá thể phân
Hình 1. Các tuyến và ô điều tra qua các sinh cảnh khác nhau của
khu vực nghiên cứu
TẠP CHÍ KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ NÔNG NGHIỆP ISSN 2588-1256 Tập 4(2)-2020:1960-1969
1963
bố rải rác, diện tích phân bố từ 10 m2 – 100
m2/ha; 2: Vừa - loài đã bắt đầu phát triển
về số lượng, tập trung thành từng nhóm
nhỏ, diện tích phân bố từ 100 – 500 m2/ha ;
3: Nhiều - loài lan rộng thành các thảm,
mảng lớn nhưng chưa liên tục diện tích
500 – 1000 m2/ha; 4: Rất nhiều - loài lan
rộng thành các mảng lớn, liên tục, đe dọa
nghiêm trọng tới sự tồn tại và phát triển
của các loài bản địa, diện tích phân bố
>1000 m2/ha.
+ Xác định đặc điểm cá thể nơi phân
bố ở các trạng thái tại khu vực nghiên cứu
bằng cách trên mỗi tuyến điều tra tiến hành
lập 3 ô tiêu chuẩn 500 m2 nơi có loài Bìm
bôi hoa vàng phân bố để tiến hành đo đếm
đường kình gốc và ước lượng chiều dài
thân cây.
- Để xác định những tác động của
loài gây ra tại nơi phân bố trên các tuyến
nghiên cứu tiến hành lập 6 ô tiêu chuẩn
100 m2 bao gồm 3 ô tại khu vực có loài
phân bố nhiều, 3 ô lập đối chứng nơi
không có loài phân bố cùng trạng thái như
hình 2.1. Đếm số cây gỗ tái sinh triển vọng
(đường kính gốc (D0) > 2 cm và chiều cao
vút ngọn > 1 m); Dùng Lux kế xác định sự
chênh lệch về cường độ ánh sáng trên tán
che và dưới mặt đất, lập 5 ô tiêu chuẩn 1
m2/ô trong ô tiêu chuẩn 100 m2 đếm các
dấu hiệu sinh vật phụ sinh, sinh vật phân
hủy.
- Phương pháp tham vấn người dân
địa phương, cán bộ quản lý bảo vệ rừng và
nhà quản lý để xác định các thông tin liên
quan đến mức độ quan tâm đến đối tượng
nghiên cứu. Thông tin xác định mức độ
quan tâm dựa vào các tiêu chí đánh giá như
sau: (1). Loài có phân bố chủ yếu trên đất
rừng; (2). Mức độ xâm lấn của loài đối với
cây gỗ tái sinh; (3). Khả năng phát tán của
loài loài trên đất rừng; (4). Mức độ ghét bỏ
loài của người dân địa phương. Thông qua
việc cho điểm từ 0 – 4 điểm và xếp hạng.
3. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN
3.1. Mức độ cần quan tâm của loài Bìm
bôi hoa vàng tại khu vực nghiên cứu
Hiện nay vấn đề loài ngoại lai xâm
hại và loài xâm lấn đang là vấn đề được
quan tâm trong công tác quản lý và bảo tồn
đa đa dạng sinh học. Tuy nhiên tùy vào
từng lĩnh vực khác nhau để hướng sự quan
tâm đúng đối tượng nhằm tăng khả năng
hiệu quả cho công tác quản lý các loài xâm
hại và xâm lấn. Trong những năm qua việc
quản lý thực vật xâm hại chủ yếu chỉ tập
trung với các loài ngoại lai xâm hại trong
khi thực tế cho thấy chúng chỉ thể hiện rõ
ảnh hưởng đối với việc sản xuất nông
nghiệp. Về mặt quản lý Lâm nghiệp, sự
xuất hiện và phát triển một số loài xâm lấn
và có nguy cơ xâm lấn mạnh như Bìm bôi
hoa trắng, Bìm bôi hoa vàng như hiện
nay là vấn đề mới nhưng cũng rất đáng lưu
tâm. Tuy nhiên đến nay vẫn đang thiếu cơ
sở pháp lý trong việc quản lý những loài
này.
Quá trình điều tra trên các tuyến
nghiên cứu đề tài đã xác định được danh
lục các loài thực vật đáng lưu ý thuộc đối
tượng ngoại lai xâm hại, ngoại lai có nguy
cơ xâm hại theo thông tư 35/2018 (TT-
BTNMT) và thực vật hoang dại xâm lấn
theo các tiêu chí đã được tham vấn từ
người dân và nhà quản lý chuyên môn. Kết
quả quá trình tham vấn mức độ quan tâm
của các loài tại khu vực nghiên cứu như
được thể hiện qua Bảng 1.
HUAF JOURNAL OF AGRICULTURAL SCIENCE & TECHNOLOGY ISSN 2588-1256 Vol. 4(2)-2020:1960-1969
1964 Nguyễn Hợi và cs.
Bảng 1. Kết quả xếp hạng mức ưu tiên quản lý các loài thực vật xâm lấn tại khu vực nghiên cứu.
Tên loài Tên khoa học Đối tượng
Tiêu chí Tổng
điểm
Xếp
hạng 1 2 3 4 5
Bìm bôi hoa vàng Merremia boisiana XL 4 4 4 4 3 19 1
Ngấy bà Rubus alceaefolius XL 2 4 3 3 3 15
2 Vọt Dicranopteris linearis XL 3 4 3 3 2 15
Đót Thysanolaena latifolia XL 4 4 3 3 1 15
Mua Melastoma affine XL 2 4 3 2 3 14
3
Lau Saccharum spontaneum XL 3 4 3 3 1 14
Cỏ Tranh Imperata cylindrica XL 2 3 2 3 1 11 4
Trinh nữ móc Mimosa diplotricha NLXH 1 1 1 1 4 8
5
Cỏ Lào Chromolaena odorata NLXH 3 1 1 2 1 8
Cỏ hôi Ageratum conyzoides NLXH 2 1 1 2 1 7 6
Mai dương Mimosa pigra NLXH 1 0 0 1 4 6 7
Ngũ sắc Lantana camara NLXH 1 0 0 1 0 2 8
Nguồn: Tham vấn các bên liên quan (2019)
Qua Bảng 1 cho thấy mặc dù có sự
có mặt của các loài đã được công nhận là
loài ngoại lai xâm hại xuất hiện trên địa
bàn nghiên cứu như Cỏ Lào (Chromolaena
odorata), Mai dương (Mimosa pigra), Ngũ
sắc (Lantana camara); Cỏ hôi (Ageratum
conyzoides), tuy nhiên xét về mức độ ưu
tiên quan tâm để có biện pháp quản lý thì
hầu như các loài này chưa thực sự cần phải
quan tâm, chúng chủ yếu ảnh hưởng đến
cây nông nghiệp và hoạt động sản xuất
nông nghiệp, rất khó ảnh hưởng đến cây
rừng và sản xuất lâm nghiệp. Đứng đầu
danh sách ưu tiên do diện tích và mức độ
tác hại ở khu vực nghiên cứu hiện nay vẫn
là Bìm bôi hoa vàng (Merremia boisiana)
(che phủ và bóp chết các loài cây thân gỗ ở
tất cả các tầng tán), tiếp đến là các loài
Ngấy bà (Rubus alceaefolius), Mua
(Melastoma affine), Vọt (Dicranopteris
linearis), Đót (Thysanolaena latifolia), Lau
(Saccharum spontaneum), cỏ Tranh
(Imperata cylindrica) có tác động xâm
lấn và cạnh tranh không gian dinh dưỡng
của các loài cây bản địa khác. Đây là là
những loài cạnh tranh đáng kể đối với tái
sinh rừng và sản xuất Lâm nghiệp. Trong
đó đáng chú ý nhất là Bìm bôi hoa vàng,
cảnh báo về nguy cơ đe dọa đến đa dạng
sinh học và làm tăng khả năng gây suy
thoái tài nguyên rừng.
3.2. Đặc điểm phân bố của loài tại khu
vực nghiên cứu
Bìm bôi hoa vàng là loài có phổ
phân bố sinh thái tương đối rộng có thể
phân bố đến độ cao 1.500 m so với mực
nước biển (Phương và cs., 2013), tuy nhiên
trong thực tế chủ yếu thường bắt gặp ở
những khu vực rừng đã bị tác động hoặc
trong rừng tự nhiên nghèo kiệt và thường
không thấy xuất hiện trong các trạng thái
rừng trung bình đến rừng giàu. Để đánh giá
thực trạng này đề tài đã tiến hành nghiên
cứu phân bố của loài qua các sinh cảnh
thảm thực vật rừng tự nhiên khác nhau.
Quá trình điều tra trên các sinh cảnh đề tài
tiến hành đánh giá mức độ phân bố của
loài Bìm bôi hoa vàng theo các mức độ từ
1 đến 4 (ít đến rất nhiều). Trên mỗi tuyến
điều tra tiến hành lập 3 ô tiêu chuẩn 500
m2 nơi có Bìm bôi phân bố để tiến hành
xác định số lượng cá thể trưởng thành phân
bố và đo đếm đường kính gốc và ước
lượng chiều dài thân cây. Kết quả điều tra
được thể hiện qua Bảng 2.
TẠP CHÍ KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ NÔNG NGHIỆP ISSN 2588-1256 Tập 4(2)-2020:1960-1969
1965
Bảng 2. Mức độ phân bố của loài Bìm bôi hoa vàng ở khu vực nghiên cứu
Trạng thái sinh cảnh rừng Mức độ phân bố
Trung bình
số cá thể/ô
D0
(cm)
L (m)
Rừng tự nhiên hai bên đường 2 2,33 5,39 18,50
Khu vực ven suối 3 2,67 6,61 24,25
Ven rừng trồng 1 1,33 7,89 24,01
Rừng tự nhiên nghèo phục hồi
sau nương rẫy
3 2,67 4,59 29,88
Rừng tự nhiên trung bình 0 - - -
Qua Bảng 2 cho thấy trên địa bàn
nghiên cứu Bìm bôi hoa vàng phân bố hầu
hết trên các dạng sinh cảnh, từ đất trống
đến rừng tự nhiên phục hồi sau nương rẫy
và chỉ không thấy xuất hiện ở sinh cảnh
rừng giàu. Trong các sinh cảnh có Bìm bôi
hoa vàng xuất hiện, cũng có sự khác nhau
về mức độ phân bố, số lượng cá thể và đặc
điểm cá thể. Mức độ phân bố của loài phụ
thuộc vào đặc điểm sinh cảnh và sự tác
động của con người. Kết quả điều tra cho
thấy loài này phân bố nhiều ở sinh cảnh
ven suối và sinh cảnh rừng tự nhiên nghèo
phục hồi sau nương rẫy, thỉnh thoảng có
phân bố thành từng đám ở phần taluy âm
dọc tuyến đường giao thông và rất ít thấy
phân bố ở phần taluy dương. Đặc biệt, mặc
dù loài này có xuất hiện ở các khu vực
rừng trồng tuy nhiên chúng chỉ phân bố
theo từng cá thể đơn lẻ. Qua thông tin tìm
hiểu từ người dân địa phương và các bộ
quản lý được biết có sự khác biệt này được
giải thích như sau: ở các sinh cảnh ven
suối và rừng tự nhiên nghèo phục hồi sau
nương rẫy do rất ít khi bị tác động nên ở
những sinh cảnh này mức độ phân bố của
Bìm bôi hoa vàng nhiều hơn, phân bố theo
cụm nên dẫn đến số lượng cá thể nhiều
hơn ở những sinh cảnh thường xuyên có sự
tác động của con người.
Quá trình điều tra cũng chỉ ra rằng,
tại khu vực nghiên cứu Bìm bôi hoa vàng
chủ yếu là cây trưởng thành, hầu như
không thấy xuất hiện của cây tái sinh. Kết
quả đo đếm cho thấy đường kính chủ yếu 4
đến 5 cm và chiều dài 20 đến 30 m, tuy
nhiên vẫn có những cá thể có đường kính
trên 10 cm và chiều dài thân đến trên 40 m
(Hình 2). Những sinh cảnh có cá thể với
đường kính thân lớn như khu vực ven rừng
trồng hay sinh cảnh ven suối. Những sinh
cảnh này thường là đất tốt, cây mẹ xuất
hiện sớm. Ngược lại những sinh cảnh như
ven đường giao thông hay rừng phục hồi
sau nương rẫy thường có đường kính nhỏ
hơn, có thể là do ở đây loài chỉ mới xuất
hiện trong những năm gần đây. Có một sự
khác biệt là mặc dù đường kính thân nhỏ
hơn các sinh cảnh khác nhưng chiều dài
thân ở sinh cảnh rừng tự nhiên phục hồi
sau nương rẫy thường rất dài điều này
cũng phản ảnh một thực tế là ở sinh cảnh
này Bìm bôi hoa vàng thường phân bố tập
trung ở những nơi có cây gỗ và chúng
thường phủ lên tán cây để lấy ánh sáng nên
chiều dài thân thường đo được rất lớn và
điều này cho thấy khả năng gây ảnh hưởng
đến không chỉ cây tái sinh mà còn là
những cây trưởng thành khi có bìm bôi
phân bố.
Hình 2. Biểu đồ tỷ lệ phân cấp đường kính gốc và chiều dài thân của loài Bìm bôi hoa
vàng tại khu vực nghiên cứu
HUAF JOURNAL OF AGRICULTURAL SCIENCE & TECHNOLOGY ISSN 2588-1256 Vol. 4(2)-2020:1960-1969
1966 Nguyễn Hợi và cs.
3.3. Những tác động của loài bìm bôi
hoa vàng đến sinh cảnh và tái sinh cây
gỗ
Bìm bôi hoa vàng là một loài có tốc
độ sinh trưởng nhanh và đang đe dọa rất
lớn đến khả năng phục hồi rừng. Một trong
những tác động lớn nhất đó chính là sự ảnh
hưởng có thể đến sinh cảnh và cạnh tranh
mạnh không gian dinh dưỡng với các loài
cây gỗ tái sinh. Để đánh giá những tác
động tạo ra tại vị trí phân bố đến khả năng
tái sinh cây gỗ và các yếu tố liên quan đến
sinh thái, đề tài tiến hành đếm số lượng
cây tái sinh, quan trắc sự thay đổi về chế
độ ánh sáng trên tán che và dưới mặt đất,
đếm và ước lượng tỷ lệ các yếu tố sinh vật,
sinh thái liên quan trong ô tiêu chuẩn 100
m2. Kết quả thu được như được thể hiện
qua Bảng 3 và Bảng 4.
Bảng 3. Ảnh hưởng của loài bìm bôi hoa vàng đến số lượng cây gỗ tái sinh và sự biến động về chế độ
ánh sáng
Sinh cảnh
Nơi có Bìm bôi Nơi đất trống
Số cây TS ∆Lux Số cây TS ∆Lux
Rừng tự nhiên hai bên đường 2,67 3410 7,33 540
Khu vực ven suối 3,67 2189 11,33 721
Ven rừng trồng 2,00 4615 5,67 3444
Rừng tự nhiên nghèo phục hồi sau
nương rẫy
5,67 2871 16,00 267
Trung bình 3,50 3271,25 10,08 1243
Qua Bảng 3 cho thấy, nơi có Bìm
bôi hoa vàng phân bố thì số lượng cây gỗ
tái sinh triển vọng ít hơn hẳn ở trạng thái
tự nhiên nơi không có sự phân bố của loài.
Cụ thể tại những nơi có Bìm bôi hoa vàng
phân bố, mật độ cây tái sinh vào khoảng
350 cây/ha trong khi đó mật độ tái sinh này
ở nơi không có bìm bôi phân bố là 1.008
cây/ha, lớn gần gấp 3 lần nơi có mặt của
bìm bôi hoa vàng. Điều này có thể một
phần là do khả năng cạnh tranh về không
gian dinh dưỡng của loài Bìm bôi hoa vàng
đối với cây gỗ tái sinh. Với khả năng sinh
trưởng nhanh của loài, phiến lá lớn và luôn
chiếm tầng tán trên của thảm thực vật, làm
hạn chế rất lớn khả năng đón nhận ánh
sáng của hệ thực vật và có thể dẫn đến suy
thoái dần hệ thực vật bên dưới điều đó đã
được thể hiện rất rõ qua số liệu quan trắc
về chế độ ánh sáng ở trên tán cây và dưới
mặt đất. Điều này cũng đã được tác giả Wu
và cs. (2007) trong một nghiên cứu sự xâm
hại của loài Bìm bôi hoa vàng ở Quảng
Châu, Trung Quốc đã chỉ ra rằng từ một
cây đơn lẻ, chỉ sau vài năm nó có thể tạo
thành một lớp thảm lá như là một tấm
chăn, che phủ toàn bộ khu vực xung quanh
nhờ hệ thống thân bò và phân nhánh
nhanh. Khi đã bắt đầu phát triển, thân của
cây Bìm bôi hoa vàng bắt đầu leo bám và
che phủ lên các cây xung quanh, giết chết
dần dần các cây này. Đối chiếu với kết quả
nghiên cứu về sự chênh lệch chế độ ánh
sáng ở trên tán và dưới tán ở vị trí có Bìm
bôi hoa vàng che phủ và nơi không có Bìm
bôi hoa vàng che phủ cho thấy: Ở nơi có
Bìm bôi hoa vàng che bóng, sự chênh lệch
về biên độ ánh sáng là rất lớn 3.271,25 lux
so với nơi không có sự che bóng của bìm
bôi hoa vàng chỉ bằng khoảng 1/3 độ
chênh lệch này là 1243 lux. Sự thay đổi về
chế độ ánh sáng này có thể kéo theo một số
sự thay đổi về về mặt sinh vật phụ sinh,
sinh vật phân hủy và yếu tố sinh thái có thể
gây bất lợi cho khả năng tái sinh rừng, điều
này có thể thấy rõ qua Bảng 4.
TẠP CHÍ KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ NÔNG NGHIỆP ISSN 2588-1256 Tập 4(2)-2020:1960-1969
1967
Bảng 4. Sự thay đổi về sinh vật, sinh thái nơi phân bố của Bìm bôi hoa vàng
Tiêu chí xác định Nơi có bìm bôi Nơi đất trống
Độ phủ của thảm khô, mục (%) 95,00 47,50
Tỷ lệ đất, đá có rêu bám (%) 5,83 5,00
Tỷ lệ cây, đá có địa y bám (%) 29,17 11,67
Mật độ xuất hiện phân giun/m2 1,58 0,42
Số dấu hiệu mối (ụ mối, đường mối, vết mối ăn)/m2 0,92 0,25
Số dấu hiệu kiến (tổ kiến, đường kiến)/m2 0,50 0,42
Nguồn: Điều tra thực địa (2019)
Số liệu so sánh các tiêu chí ở Bảng 4
cho thấy nơi có Bìm bôi hoa vàng bao phủ
thì độ che phủ của vật rơi rụng là rất lớn
chiếm đến 95% gấp hai lần so với nơi
không bị bìm bôi che phủ, điều này cho
thấy dưới tác động cạnh tranh không gian
dinh dưỡng và ánh sáng của bìm bôi sẽ làm
cho một lượng lớn các loài thực vật bên
dưới bị chết, rụng lá làm tăng lượng vật rơi
rụng trên mặt đất, thực tế quá trình điều tra
phát hiện bên cạnh lá Bìm bôi hoa vàng
rụng trên mặt đất thì có một lượng lớn
cành nhỏ, thân nhỏ và lá khô của các loài
cây gỗ tái sinh, thực vật ngoại tầng, thực bì
thân thảo chết khô và rơi rụng trên đất.
Theo Wang và cs. (2005), Bìm bôi hoa
vàng (Merremia boisiana) là dây leo,
không sống hòa hợp với những loài thực
vật xung quanh như đại đa số các loài dây
leo khác. Bìm bôi leo đè lên các cây,
nhanh chóng che phủ thảm thực vật bên
dưới bằng lớp lá dày, gây ra sự tắc nghẹn
và che sáng, tiêu diệt các cây bên dưới
chúng, làm suy giảm đa dạng sinh học và
thậm chí có khả năng tạo nên một quần xã
thực vật đơn loài.
Một sự tác động khác có thể gây ra
làm ảnh hưởng đến khả năng tái sinh đó là
ở những nơi có Bìm bôi hoa vàng che phủ
thì có sự gia tăng rất lớn tỷ lệ các sinh vật
phụ sinh như rêu, địa y hay các sinh vật
phân hủy hữu cơ như kiến, mối, giun
Kết quả thể hiện ở Bảng 4 cho thấy tỷ lệ
xuất hiện của Địa y, giun và mối tại những
nơi có Bìm bôi hoa vàng che phủ cao gấp 3
– 4 lần những nơi không bị che phủ tại các
vị trí lân cận. Các sinh vật này một mặt
chúng làm tăng nhanh khả năng phân hủy
hữu cơ, mặt khác chúng có thể là tác nhân
gây bệnh hay làm ảnh hưởng đến khả năng
nảy mầm của hạt giốnghoặc làm tăng khả
năng ảnh hưởng tiêu cực đến cây tái sinh.
Một nghiên cứu khác của Li và cs.- (2006)
cũng đã chỉ ra rằng Bìm bôi hoa vàng có
nhiều ưu thế sinh học so với các thực vật
khác trong cùng sinh cảnh như khả năng
quang hợp mạnh, sự kháng nấm phổ rộng
và thậm chí có các chất hóa học ức chế hạt
cây khác nảy mầm. Như vậy với khả năng
làm tăng quá trình tạo mùn cho đất kết hợp
khả năng ức chế sự nảy mầm, ức chế sự
sinh trưởng của các loài cây khác, Bìm bôi
hoa vàng đang tạo ra một hệ lụy kép có lợi
cho bản thân và gây hại cho các loài sống
cùng trong sinh cảnh.
3.4. Con đường phát tán của loài Bìm
bôi hoa vàng tại khu vực nghiên cứu
Các kết quả điều tra khảo sát về thực
trạng phân bố và hình thức phát tán của
loài Bìm bôi hoa vàng tại khu vực nghiên
cứu cho thấy nguồn giống để phát tán của
loài Bìm bôi hoa vàng có thể bằng hai hình
thức là đoạn thân cây và từ nguồn hạt
giống trong đó chủ yếu vẫn là phát tán từ
hạt. Qua khảo sát về mặt hình thái nguồn
hạt giống khả năng nảy mầm của hạt giống
trong quá trình nghiên cứu đề tài phát hiện
rằng ở khu vực nghiên cứu con đường phát
tán chủ yếu bằng các con đường như sau:
Phát tán nhờ gió: Phát tán nhờ gió
không đến bằng quả hạt mà chủ yếu bằng
đoạn cành nhánh. Bởi theo Theo Li và cs.
(2006) hoa Bìm Bôi hoa vàng mọc thành
cụm, số hoa mỗi cụm dao động từ 25 – 145
hoa/cụm (trung bình 80 hoa/cụm); hạt của
cây Bìm bôi hoa vàng có dạng hình cầu và
tương đối nặng: 0,015 g/hạt, hạt không có
các phần phụ để phát tán nhờ gió trong
điều kiện tự nhiên hạt rơi xuống đất gần
HUAF JOURNAL OF AGRICULTURAL SCIENCE & TECHNOLOGY ISSN 2588-1256 Vol. 4(2)-2020:1960-1969
1968 Nguyễn Hợi và cs.
đó. Qua quá trình nghiên cứu cho thấy quả
Bìm bôi là dạng quả nang mang đài đồng
trưởng dạng cánh nhưng khi quả khô lập
tức quả tự mở và hạt cũng tự rời ra khỏi
quả rất dễ dàng vì không có bộ phận nào
giữ hạt lại trong quả sau khi mở. Điều này
cho thấy quả không giúp cho sự phát tán
hạt hạt một cách đáng kể. Tuy nhiên, gió
có thể giúp phát tán cành nhánh của loài đi
xa là nhờ vào đặc điểm hình thái lá của
loài tương đối lớn, với đường kính từ 10 –
25 cm cộng thêm khả năng vươn lên tán
ngọn cây nên gió là tác nhân làm đứt các
đoạn cành nhánh theo tán rừng đưa những
cành nhánh này đi xa đến những khu vực
trống trong rừng. Với đặc thù của mình,
cành nhánh Bìm bôi hoa vàng có khả năng
tái sinh tốt nên đây được xem là nguồn
giống khả thi nhất giải thích khả năng phát
tán ngược độ cao của loài.
Phát tán nhờ động vật: Qua thực tế
nghiên cứu cho thấy, hạt của Bìm bôi hoa
vàng rất cứng, phôi hạt khi khô hóa sừng
nên nhiều khả năng không phải là nguồn
thức ăn của động vật. Hạt cũng không có
lông, gai hay bộ phận để bám vào bộ phận
cơ thể động vật nên khả năng phát tán bằng
con đường này là không cao tuy nhiên qua
phỏng vấn người dân địa phương được biết
lá của bìm bôi hoa vàng là nguồn thức ăn
của thỏ, dê, trâu bò, thậm chí cả các loài
linh trưởng và có thể là của các loài động
vật ăn thực vật khác. Mùa quả của loài
thường vào tháng 7 – 8 hằng năm, đây là
thời điểm khan hiếm nguồn thức ăn, nước
uống nên nhiều loài động vật ở rừng
thường tìm đến các khu vực sông suối để
kiếm nguồn thức ăn và nước uống và đây
cũng là nơi có lượng phân bố lớn loài Bìm
bôi hoa vàng. Trong quá trình ăn lá non
của Bìm bôi hoa vàng hoặc cỏ, lá có thể có
lẫn hạt Bìm bôi trong đó. Với cấu tạo vỏ
hạt cứng, giúp cho hạt không bị ảnh hưởng
đến phôi trong hệ tiêu hóa của động vật và
hệ men tiêu hóa trong cơ thể động vật sẽ
tạo điều kiện thuận lợi cho hạt nảy mầm
sau khi thải ra ngoài. Đây cũng có thể là cơ
sở quan trọng giải thích cho hiện tượng
phát tán ngược độ cao của loài và phát tán
đến những vùng xa xôi hiểm trở xa vùng
phân bố ban đầu của loài.
Phát tán nhờ nước: Với đặc thù quả
nang, hạt nặng, nhẵn, hạt có vỏ dày, không
thấm nước nên giữ phôi bên trong không bị
thối, vì vậy có thể coi phát tán nhờ nước
chính là biện pháp khả thi nhất của loài.
Điều này giải thích cho hiện tượng dễ dàng
bắt gặp cây tái sinh của loài Bìm bôi hoa
vàng ven sông, suối, bãi bồi và trong cát
sạn xây dựng.
Phát tán nhờ con người: Con người
có thể trực tiếp hoặc gián tiếp làm phát tán
cành nhánh và hạt của loài từ nơi này đến
nơi khác làm tăng khả năng phát tán của
loài. Việc làm vệ sinh nương rẫy không
đúng cách, việc sử dụng làm thức ăn cho
động vật và trong một số mục đích khác
như làm dây buộc, trồng cây bóng mát đã
đã làm tăng khả năng nhân giống của loài
cũng như di chuyển loài đến các vị trí khác
nhau. Trong các hoạt động dân sinh, xây
dựng nhà cửa, đường sá, cầu cống cũng là
cách làm phát tán nguồn hạt giống từ nơi
này đến nơi khác trong nguồn cát sạn xây
dựng.
Tự phát tán: Với đặc thù quả nang,
vỏ hạt cứng nhẵn, cây lại vươn lên tán cây
rừng nên khi quả khô tự giải phóng hạt ra
ngoài. Với lợi thế độ cao hạt có thể rơi
cách xa vị trí gốc ban đầu, kết hợp với hình
dạng hơi có hình cầu, vỏ cứng nhẵn nên có
thể tự lăn hoặc nảy xa thêm đến những nơi
thuận lợi cho cây con phát triển mà không
bị ảnh hưởng bởi chính cây mẹ. Đây cũng
là cách làm tăng nhanh khả năng lây lan
nhanh của loài trong thực tế.
4. KẾT LUẬN
Đề tài đã xác định được 12 loài
thuộc nhóm ngoại lai xâm hại (5 loài) và
thực vật xâm lấn (7 loài) có mức độ phân
bố nhiều. Trong đó, xét mức độ đe dọa đến
tài nguyên rừng và sản xuất lâm nghiệp, thì
Bìm bôi hoa vàng được xác định là có tác
động ảnh hưởng xấu hàng đầu.
Bìm bôi hoa vàng phân bố hầu hết
trên các dạng sinh cảnh, từ đất trống đến
rừng tự nhiên phục hồi sau nương rẫy và
TẠP CHÍ KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ NÔNG NGHIỆP ISSN 2588-1256 Tập 4(2)-2020:1960-1969
1969
chỉ không thấy xuất hiện ở sinh cảnh rừng
giàu. Mức độ phân bố của loài phụ thuộc
vào đặc điểm sinh cảnh và sự tác động của
con người. Ở các sinh cảnh ít khi bị tác
động thì phân bố nhiều, hơn ở những sinh
cảnh bị tác động thường xuyên. Xuất hiện
chủ yếu là cây trưởng thành, đường kính
gốc bình quân 4 - 5 cm và chiều dài thân
chính 20 - 30 m. Nơi có Bìm bôi hoa vàng
phân bố, có sự suy giảm đáng kể về lượng
cây gỗ tái sinh triển vọng. Số lượng cây gỗ
tái sinh triển vọng phân bố với mật độ vào
khoảng 350 cây/ha bằng 1/3 nơi không có
bìm bôi phân bố là 1.008 cây/ha. Độ che
phủ của vật rơi rụng chiếm đến 95% gấp
hai lần so với nơi không bị bìm bôi che
phủ; sự chênh lệch về biên độ ánh sáng
cũng rất lớn 3.271,25 lux so với 1.243 lux
nơi không bị che phủ lân cận. Sự xuất hiện
của loài này kéo theo sự gia tăng rất lớn tỷ
lệ các sinh vật phụ sinh như rêu, địa y hay
các sinh vật phân hủy hữu cơ như kiến,
mối, giun tỷ lệ xuất hiện của nhóm này
cao gấp 3 – 4 lần so với những nơi không
bị che phủ tại các vị trí lân cận. Chúng có
thể là tác nhân gây bệnh hay làm ảnh
hưởng đến khả năng nảy mầm của hạt
giống hoặc làm tăng khả năng ảnh hưởng
tiêu cực đến cây tái sinh. Bìm bôi hoa vàng
là loài có khả năng tự phát tán. Ngoài ra
chúng còn phát tán nhờ gió, nhờ nước, nhờ
động vật và cả con người.
Mặc dù là loài này đang phát triển
rất mạnh và có tác động bất lợi rất lớn đến
chất lượng rừng và đa dạng sinh học như
vậy, nhưng hiện vẫn chưa được liệt vào
danh sách các loài xâm lấn nguy hại hoặc
có các giải pháp phòng trừ hiệu quả. Do
đó, cần có nghiên cứu đánh giá trên phạm
vi rộng hơn để từ đó có cơ sở cập nhật các
văn bản pháp quy có liên quan, trong đó
cần đưa loài Bìm bôi hoa vàng vào nhóm
loài xâm lấn có nguy cơ rất cao và có các
giải pháp phòng trừ hiệu quả.
LỜI CẢM ƠN
Nhóm nghiên cứu xin chân thành cảm
ơn sự hỗ trợ kinh phí cho hoạt động nghiên cứu
của dự án FTVIET (R4D project 400440-
169430: "Assessing the 'nature ' of a 'forest
transition' in Vietnam: ecosystem services and
social-ecological resilience in locally managed
forest landscapes).
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Võ Thị Minh Phương và Lê Thị Hoàng Huy.
(2013). Thực trạng xâm lấn của 2 loài Bìm
bôi hoa vàng (Merremia boiaaiana) và Bìm
bôi hoa trắng (Merremia eberhardtii) tại
bán đảo Sơn Trà thành phố Đà Nẵng. Hà
Nội: Nhà xuất bản Nông nghiệp.
Thông tư 35/2018/TT-BTNMT của Bộ Tài
Nguyên và Môi trường năm 2018. Quy định
tiêu chí xác định loài ngoại lai xâm hại và
ban hành danh mục loài ngoại lai xâm hại.
Khai thác từ
https://luatminhkhue.vn/thong-tu-35-2018-tt-
btnmt-tieu-chi-xac-dinh-va-ban-hanh-danh-
muc-loai-ngoai-lai-xam-hai.aspx
Wu, L., Liang, Y., Chen, K., Li, Zh., Cao, H.
(2007). Damage and Prevention of
Merremia boisiana in Hainan Province,
China. Guangdong Forestry Science and
Technology.
Li, MG., Cheng, X. Y., Liu, B., Yu, H. (2006).
Fast growth and high photosynthesis rate
Merremia boisiana (Gagn.) Ooststr. Acta
Scientiarum Naturalium Universitatis
Sunyatseni, 45(3), 70-72.
Wang, B. S., Li, M. G., Liao, W. B., Su, J.,
Qiu, H. X., Ding, M. Y. (2005). Geography
Distribution of Merremia boisiana. Ecology
and Environment Journal.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
dac_diem_phan_bo_muc_do_tac_dong_va_con_duong_phat_tan_cua_l.pdf