Following the article “The Role of topo-geographical conditions of Northern Central Region Vietnam and the
difference of heavy rains between North and South Ngang Pass” [Journal of Sciences of the Earth T.34, N°1/2012], this
paper present the reseach results of the resonant influences of topo-geographic conditions in heavy rains patterns in
Coastal Central Region of Vietnam, those divided into some areas along N-S direction by E-W orientation mountain
ranges (Ngang, Hai Van, Ca passes).
Base on the weather situation maps, daily rainfall data (1987-2006) over Coastal Central territory (from Thanh Hoa
to Khanh Hoa), the count and frequencies of heavy rains occurrence (during this timeline) corresponding to 7 types of309
Synoptic Weather Situation (SWS) - major factor leading to heavy rain - have been analised and evaluated. The results
of analysing simultaneously topo-geographic conditions of 4 areas: Northern Ngang Pass (KV1), Ngang Pass to Hai Van
Pass (KV2), Hai Van Pass to Ca Pass (KV3) and Southern Ca Pass (KV4) together with SWS show that:
- For the heavy rain caused purely by cold air mass (CAM): in KV1: there are only 7 waves equivalent 10,4% of total
number of SWS, while in KV2 there are 41 waves - accupeid 36,9%, in KV3: 11 weves ∼ 19,3%, and in KV4 there are 13
waves ∼ 38,2%.
- For the heavy rain caused by CAM and combination of CAM with other SWS: in KV1 there are 8 waves (11,9% of
total number of SWS), in KV2: 51 waves (accounts for 45,9%), in KV3: 37 weves (64,9%) and in KV4 there are 24 weves
(70,6%). It meens the sounthern areas have higher havy rain frequence.
- The differences in topo-geographic condition of 4 areas, especially the directions of mountain ranges,
characteristics of major mountain ranges, the directions of coast line and the presence of some mountain passes
(Ngang, Hai Van, Ca), are the main reason leading to the increasing convergence and as the consequently the
noticeable increase of heavy rains frequence those relative to CAM.
- The study on the heavy rain differences based on topo-geographical analyse will be a source of valuable
information, contributing to more precisely forecast of heavy rains in different areas of Coastal Central Region of
Vietnam.
The above approach of geographic climatology to examine the topo-geographical conditions and heavy rains is a
new and reasoable approach, it allows to solve the natural disaster problem more effective and more useful at difference
areas in Coastal Central Region of Vietnam.
The study was supported by 2 projects of Vietnam Academy of Science and Technology [7, 8], Science brench
"Preventing Disaster Reduction", performed in the years 2008-2009 and 2012-2013.
9 trang |
Chia sẻ: honghp95 | Lượt xem: 670 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đặc điểm phân hóa mưa lớn vùng ven biển trung bộ từ Thanh Hóa đến Khánh Hòa trên cơ sở phân tích hình thái địa hình, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
301
35(4), 301-309 Tạp chí CÁC KHOA HỌC VỀ TRÁI ĐẤT 12-2013
ĐẶC ĐIỂM PHÂN HÓA MƯA LỚN VÙNG
VEN BIỂN TRUNG BỘ TỪ THANH HÓA ĐẾN
KHÁNH HÒA TRÊN CƠ SỞ PHÂN TÍCH
HÌNH THÁI ĐỊA HÌNH
NGUYỄN KHANH VÂN, TỐNG PHÚC TUẤN,
VƯƠNG VĂN VŨ, NGUYỄN MẠNH HÀ
E-mail: ngkhvan@gmail.com
Viện Địa lý, Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam
Ngày nhận bài: 10 - 9 - 2013
1. Mở đầu
Những năm gần đây dải ven biển Trung Bộ
Việt Nam liên tục phải hứng chịu rất nhiều thiên tai
do thời tiết khí hậu bất lợi, trong đó có thiên tai do
mưa lớn. Mưa lớn sinh lũ lụt, lũ ống, lũ quét làm
sạt lở đường sá, bờ sông, gây ngập lụt nhà cửa,
ruộng, vườn, hoa màu của người dân, hủy hoại các
công trình công cộng, làm biến đổi môi trường tự
nhiên, môi trường sống, ảnh hưởng đến các hoạt
động kinh tế của cả một khu vực rộng lớn.
Nghiên cứu điều kiện hoàn lưu khí quyển và
các tác nhân gây mưa lớn ở vùng ven biển Miền
Trung đã được đề cập đến trong một số bài báo [2,
4-6]. Hình thế thời tiết (HTTT) gây mưa lớn ở đây
là bão, áp thấp nhiệt đới (ATNĐ), hội tụ nhiệt đới
(HTNĐ), hội tụ kinh hướng (HTKH), không khí
lạnh (KKL), và hoạt động đồng thời hoặc gối
tiếp nhau của tổ hợp hai hoặc ba HTTT đó.
Tuy nhiên, nghiên cứu sự cộng hưởng của hình
thái địa hình (HTĐH) khu vực với những tác nhân
gây mưa nêu trên cho đến nay chỉ mới được đề cập
đến trên những khu vực cụ thể (bắc đèo Ngang và
nam đèo Ngang) [9]. Dọc theo bờ biển Miền
Trung, với chế độ mưa “thu đông”, xuất hiện liên
tục những đợt mưa lớn, rất lớn và vai trò của địa
thế dải Trường Sơn (ở phía tây), sự chuyển hướng
đường bờ biển (ở phía đông), cũng như vị thế khá
đặc biệt của các nhánh núi chạy ra sát biển (đèo
Ngang, đèo Hải Vân, đèo Cù Mông, đèo Cả,)
cho đến nay vẫn còn là vấn đề rất lý thú cần được
nghiên cứu tiếp.
Bài báo này tập trung phân tích sự khác biệt
của đặc điểm HTĐH, sự chuyển hướng đường bờ
(so với hướng xâm nhập của hoàn lưu gió mùa
Đông Bắc - một trong những tác nhân chính hình
thành nên chế độ mưa “thu đông” đặc thù của lãnh
thổ), sự hiện diện của các đèo Ngang, Hải Vân và
đèo Cả - xem đó như những tác nhân quan trọng
dẫn tới sự phân hóa các đợt mưa lớn (liên quan đến
hoạt động của các HTTT KKL) ở dải ven biển từ
Thanh Hóa đến Khánh Hòa, đặc biệt là sự phân
hóa về mưa lớn giữa các khu vực trước và sau
các đèo.
2. Vùng nghiên cứu, dữ liệu và phương pháp
nghiên cứu
2.1. Vùng nghiên cứu
Vùng nghiên cứu là dải ven biển thuộc Trung
Bộ Việt Nam bao gồm 12 tỉnh và thành phố kéo
dài từ Thanh Hoá đến Khánh Hòa, có diện tích tự
nhiên là 95.956,48 km² (chiếm 28,93% diện tích cả
nước), dân số năm 2011 là 17657,2 nghìn người
(chiếm 20,1% dân số cả nước). Đây là khu vực nổi
tiếng nhiều thiên tai mưa lớn, bão lũ, điều kiện khí
hậu khắc nghiệt, là khu vực có điều kiện kinh tế -
xã hội khó khăn, khả năng phòng chống thiên tai
thấp kém hơn các khu vực khác. Điểm nổi bật của
địa hình dải ven biển từ Thanh Hóa đến Khánh
Hòa là lãnh thổ kéo dài, hẹp (nơi rộng nhất khoảng
200 km, nơi hẹp nhất chưa tới 50 km), thống trị bởi
các dãy, khối núi thuộc dải Trường Sơn và cao
nguyên Lâm Viên ở phía tây, phía đông là biển, địa
hình dốc và nghiêng từ tây sang đông là chủ yếu.
302
Không như những vùng khí hậu khác ở nước ta
(Tây Bắc, Đông Bắc, Đồng bằng Bắc Bộ, Tây
Nguyên, Nam Bộ) có chế độ mưa mùa hè, chủ yếu
do gió mùa Tây Nam, vùng ven biển Miền Trung
(trong đó có khu vực nghiên cứu) có chế độ mưa
do gió mùa Đông Bắc chi phối là chính [1]. Do sự
kết hợp giữa các tác nhân gây mưa và địa hình, địa
thế khu vực, mùa mưa ở Miền Trung thường bao
gồm 2 thời kỳ: mưa tiểu mãn (từ giữa tháng V đến
tháng VI) và mưa chính vụ (từ tháng VIII đến
tháng XI, XII). Trong mùa mưa chẳng những tổng
lượng mưa cao, số ngày mưa nhiều mà còn tập
trung rất nhiều ngày mưa lớn (≥ 50 mm/ngày) và
mưa rất lớn (≥ 100 mm/ngày) thành từng đợt.
Phân tích sơ bộ đặc điểm HTĐH dải ven biển
từ Thanh Hóa đến Khánh Hòa cho thấy từ bắc vào
Nam qua hơn 8 vỹ độ địa lý, vùng nghiên cứu có
thể phân chia bởi các nhánh núi chạy ngang ra sát
biển thành 4 khu vực lớn. Nếu quan niệm những
khác biệt đặc thù riêng của điều kiện địa hình ở
từng khu vực là những tác nhân quan trọng dẫn đến
sự cộng hưởng của HTĐH với các HTTT gây mưa
lớn thì các khu vực này lần lượt là: Khu vực 1
(KV1) từ Thanh Hóa đến bắc đèo Ngang; Khu vực
2 (KV2) từ nam đèo Ngang đến bắc đèo Hải Vân;
Khu vực 3 (KV3) từ nam đèo Hải Vân đến bắc đèo
Cả và khu vực 4 (KV4) từ nam đèo Cả đến hết địa
phận tỉnh Khánh Hòa.
2.2. Cơ sở dữ liệu và phương pháp nghiên cứu
2.2.1. Cơ sở dữ liệu
Nghiên cứu sự phân hoá mưa lớn trên cơ sở
phân tích HTĐH các khu vực ở dải ven biển từ
Thanh Hóa đến Khánh Hòa đã sử dụng:
- Các dữ liệu trắc lượng hình thái địa hình vùng
nghiên cứu trên bản đồ địa hình, tỷ lệ 1:250.000:
hướng sơn văn, độ cao trung bình của đường đỉnh,
độ dài của các dãy núi, độ chia cắt sâu, đặc điểm
địa hình, hướng đường bờ các khu vực ven biển
(nơi tiếp xúc đầu tiên của các khối khí nóng ẩm từ
biển vào).
- Các số liệu khí hậu bao gồm số liệu thống kê
phân loại tần suất hoạt động của các HTTT gây
mưa lớn trên không gian từ Thanh Hóa đến Khánh
Hòa, thời kỳ 1987-2006 và các số liệu lượng mưa
ngày (tích lũy 24 giờ) của các trạm khí tượng, điểm
đo mưa trên toàn vùng nghiên cứu [7, 8].
2.2.2. Các phương pháp nghiên cứu
Nghiên cứu sự phân hoá của mưa lớn với
HTĐH các khu vực ven biển bài báo đã sử dụng
các phương pháp sau:
- Phương pháp thống kê phân loại khí tượng
synop: phân tích và phân loại các HTTT và tổ hợp
các HTTT gây mưa lớn trên các bản đồ synop;
Thống kê tần suất hoạt động các HTTT gây mưa
lớn và tổ hợp của chúng.
- Phương pháp thống kê khí hậu: phân tích diễn
biến, thời gian kéo dài của các đợt mưa lớn, xác
định phạm vi không gian ảnh hưởng của các đợt
mưa lớn.
- Phương pháp phân tích hình thái địa hình:
nghiên cứu định tính (mô tả diện mạo) và định
lượng (đo đạc, phân tích các thông số trắc lượng -
hình thái) địa hình vì HTĐH có ý nghĩa quan trọng
đối với sự phân bố lại vật chất và năng lượng tự
nhiên (trong đó có nguồn năng lượng của mưa -
mưa lớn) trên bề mặt Trái đất.
- Phương pháp phân loại địa lý - hình thái: phân
loại địa lý - HTĐH các khu vực với những đặc
điểm sơn văn, hướng sườn, thế núi, hướng đường
bờ biển, trong mối tương tác với hướng chuyển
động của các HTTT gây mưa lớn, nhằm xác định
các khu vực có tiềm năng mưa lớn và mưa rất lớn.
3. Kết quả nghiên cứu và thảo luận
3.1. Đặc điểm HTĐH và tiềm năng sinh mưa lớn
ở Trung Bộ
Để làm sáng tỏ sự phân hoá của HTĐH đối với
mưa lớn vùng ven biển từ Thanh Hóa đến Khánh
Hòa trước tiên chúng tôi nghiên cứu, phân tích hai
nhóm yếu tố sau:
- Nhóm địa hình cấu trúc có ảnh hưởng lớn đến
sự hình thành các khu vực mưa lớn, bao gồm
hướng sơn văn (độ cao địa hình, hướng, tính liên
tục của các dãy núi, độ cao trung bình đường phân
thủy) và đặc điểm hình thái các dãy núi chính.
- Nhóm địa hình mặt đệm có những ảnh hưởng
nhất định đối với sự tương tác khối khí - địa hình,
bao gồm mức độ chia cắt sâu, chia cắt ngang, hình
thái các lưu vực sông, hình thái các kiểu đồng bằng
và hướng đường bờ biển.
Hướng sơn văn: dải Trường Sơn với hướng sơn
văn thống trị là TB-ĐN, hình thành nên bức tường
chắn ở phía tây. Một số nơi, trước một dải núi cao
ở phía tây là một hoặc hai dải núi thấp hơn ở phía
gần biển, điển hình là ở khu vực Hà Tĩnh.
303
Ngoài hướng thống trị TB-ĐN của dãy núi lớn,
một số nơi cũng phát triển các dãy núi chạy ngang
ra biển như Hoành Sơn và Bạch Mã, Đèo Cả và
một số đèo thấp hơn khác. Chính những dãy núi
này kết hợp với dải núi chính (Trường Sơn) có
hướng TB-ĐN ở Bắc Trung Bộ, hướng B-N ở Nam
Trung Bộ và chuyển sang dạng gần như khối tảng
ở Khánh Hòa đã tạo nên những “bẫy mưa” quan
trọng của vùng nghiên cứu.
Hướng sơn văn, độ cao trung bình của đường
đỉnh, độ dài của các dãy núi được thống kê theo 4
cấp độ: >1300m; 800-1300m; 400-800m; dưới
400m và trình bày ở bảng 1, hình 1.
Bảng 1. Chiều dài (km) và tỷ lệ các đường chia nước của các dải núi chính
Đặc điểm đường chia nước Độ cao trung bình của
đường chia nước (m) Tổng số đường Tổng chiều dài (km) Chiều dài trung bình (km)
% tổng chiều dài đường chia nước (ở các
cấp độ cao) so với chiều dài tổng cộng
>1300 59 1.155,0 19,6 22,0
800-1300 154 1.821,8 11,8 34,7
400-800 147 1.480,3 10,1 28,2
<400 70 786,6 11,2 15,0
Tổng cộng 430 5.243,7 12,2 100
* Nguồn: Báo cáo chuyên đề các đề tài [7] và [8]
Kết quả thống kê một số đặc điểm sơn văn cho
ta những nhận xét ban đầu như sau:
Các dải núi cao nhất (> 1300m) tuy có tổng số
đường chia nước ít nhất nhưng lại có chiều dài
trung bình lớn nhất (19,6km), điều đó cho thấy hệ
thống núi cao này khá liên tục và đồ sộ. Tiếp theo,
nhóm các dải núi có độ cao trung bình 800-1300m
vừa có tổng số đường, vừa có tổng chiều dài các
đường đều rất cao (154 đường và 1.821,8km). Các
dải núi có độ cao trong khoảng 400-800m cũng có
số lượng đường lớn - 147 đường. Nhìn chung hai
nhóm núi này (800-1300m và 400-800m) đều có số
đường nhiều nhất (xấp xỉ 150 đường đối với mỗi
cấp), vượt trội lên hẳn so với các nhóm còn lại.
Điều này có ý nghĩa rất quan trọng đối với sự hình
thành các khu vực mưa địa hình, các nhóm núi có
độ cao tương đối đáng kể trên đã “ngăn chặn”
chuyển động của các khối khí và các tác nhân gây
mưa (chủ yếu là từ biển vào), làm gia tăng chuyển
động thăng ở bên phía sườn đón gió, gia tăng
lượng mưa,...
- Đặc điểm hình thái các dãy núi chính: sau
hướng sơn văn, đặc điểm hình thái các dãy núi
chính cũng đóng vai trò cộng hưởng khá quan
trọng trong sự hình thành mưa lớn.
Khối núi chính Trường Sơn, kéo dài theo
hướng TB-ĐN có độ cao tương đối trên 1000m,
thường bao gồm một số dải núi song song (độ rộng
trung bình 10-20km) và các thung lũng hẹp giữa
núi (độ rộng trung bình 5-10km), độ dốc sườn của
các dải núi này trong khoảng 25-30°, một số khu
vực núi đá vôi còn có độ dốc lớn hơn, hoặc dựng
đứng, điển hình như khu vực Phong Nha-Kẻ Bàng.
- Mức độ chia cắt của địa hình: chia cắt sâu (thể
hiện mức độ mấp mô của bề mặt địa hình) và chia
cắt ngang (thể hiện mức độ dày hoặc thưa của
mạng lưới sông suối) ở chừng mực nhất định thể
hiện độ nhám, vai trò ma sát của mặt đệm, góp
phần làm tăng hoặc giảm các chuyển động thăng,
nhiễu gây mưa của các khối khí nóng và ẩm.
Độ phân cắt sâu và chia cắt ngang có sự phân
hóa rõ rệt trên vùng ven biển Trung Bộ, cả theo
phương từ bắc vào nam, cả theo chiều từ tây sang
đông. Trên cơ sở phân tích độ phân cắt sâu trung
bình của 4 khu vực nghiên cứu, với giá trị ở vùng
núi 300-400m/km2 đến 600-700m/km2 (bảng 2) có
thể thấy về phía nam vùng nghiên cứu, độ phân cắt
sâu chẳng những lớn hơn so với phía bắc mà còn
có những đột biến đáng kể có khả năng chi phối
tạo nên các bẫy mưa địa hình.
- Hình thái bề mặt: đối với các khu vực tiếp
giáp với biển, các kiểu đia hình dạng dải cồn cát
ven biển (điển hình cho dải ven biển Trung Bộ) với
những độ cao, độ rộng khác nhau cũng là những
tác nhân đáng kể của yếu tố mặt đệm tham gia vào
quá trình gia tăng các chuyển động thăng, tạo nên
sự cộng hưởng của địa hình với mưa lớn. Cụ thể,
đối với KV1 các lưu vực sông và đồng bằng mở
rộng sang phía tây, dải cồn cát ven biển hẹp và
thấp. KV2 dải cồn cát phát triển rộng và cao hơn cả
so với các khu vực khác, trong khi đó lưu vực sông
thu hẹp và dốc. KV3 dải cồn cát giảm đi đáng kể,
304
lưu vực sông Thu Bồn mở rộng về phía nam với
địa bàn Trà My (Quảng Nam) có vị trí khá đặc biệt
- phía tây là Nam Trường Sơn liền một dải, phía
nam và phía đông là một số dãy núi thấp hơn, tất cả
đã tạo nên bẫy mưa địa hình nổi tiếng Trà My.
Sang KV4 hình thái bề mặt nổi trội ở đây là các
khối và dãy núi ăn sát ra biển làm cho các thung
lũng sông rất ngắn và dốc (bảng 2).
Hình 1. Sơ đồ hướng sơn văn dải ven biển từ Thanh Hóa đến Khánh Hòa
* Nguồn: Báo cáo chuyên đề các đề tài [7] và [8]
305
Bảng 2. Những phân hóa chính của điều kiện HTĐH giữa 4 khu vực chính của vùng nghiên cứu
Đặc trưng HTĐH KV1 KV2 KV3 KV4
Đặc điểm các dãy
núi và khối núi phía
Tây
Cao hơn ở phía bắc vùng Thấp dần về phía nam vùng
BTB
Tập trung nhiều khối cao ở
phía bắc và giảm chiều
cao đáng kể ở phía nam
Dạng khối cao chiếm ưu
thế
Vị trí, độ cao của
các nhánh núi chạy
ra sát Biển Đông
Dãy Hoành Sơn chạy
ngang ra biển, cao trung
bình khoảng 600-800 m
Dãy Bạch Mã chạy ngang ra
sát biển, cao trung bình
khoảng 800-1000m, hướng
phần lõm về phía ĐB
Dãy Vọng Phu - Tam
Phong, khá thẳng, hướng
kéo dài ĐB-TN, cao trung
bình 800-1200m.
Dãy Núi Chúa Ninh Thuận
gần như dạng khối ở ĐN
Khánh Hòa, cao trung bình
1200-2000m.
Đặc điểm phân cắt
sâu (PCS) của địa
hình
Vùng núi PCS: 300-
400m/km2
Vùng đồi, núi sót (rộng 20-
30km) PCS: 100-
200m/km2
Vùng đồng bằng ven biển
PCS: 10-50m/km2.
Vùng núi (sơn nguyên xen
kẽ thung lũng khoét sâu,
hẻm vực) PCS: 300-400
m/km2
Vùng đồi hẹp hơn, nhưng
PCS đạt 150-250m/km2
Đồng bằng ven biển hẹp
(10-15km) và có các đồi,
núi sót.
Vùng núi Quảng Nam PCS
lớn, đạt tới 500-600m/km2,
khu vực núi còn lại có độ
PCS 300-400m.
Trên bề mặt đồng bằng có
một số khối núi, núi sót.
Địa hình núi chiếm ưu thế
lớn hơn hẳn so với các khu
vực khác. Độ PCS trung
bình 300-400m/km2, cá biệt
đạt tới 600-700m/km2.
Hình thái các lưu
vực sông (LVS).
Các LVS rộng lớn về phía
tây, có LVS sang cả lãnh
thổ vùng Tây Bắc,
CHDCND Lào.
Các LVS tương đối hẹp,
ngắn, dốc phần lớn nằm trọn
trên lãnh thổ Việt Nam.
LVS Thu Bồn lớn nhất, có
hình thái biến đổi mạnh
theo địa hình. Các lưu vực
khác thẳng, hẹp, ngắn,
dốc.
Chủ yếu là LVS Cái (Nha
Trang). Các LVS rất ngắn,
dốc, tập trung nước rất
nhanh và ít bồi tích.
Hình thái các kiểu
đồng bằng và các
cồn cát khu vực
ven biển.
Các kiểu đồng bằng rộng
ở Thanh Hóa, Nghệ An.
Dải cồn cát ven biển cao
5- 10m.
Kiểu đồng bằng hẹp (10-
20km) ở Bình Trị Thiên, dải
cồn cát cao 10-50m và một
dải đầm phá ven biển lớn
nhất cả nước (dài 70km,
rộng ≈ 10km, sâu ≈ 10m).
Đồng bằng Quảng Nam có
diện tích đáng kể, những
nơi khác rất hẹp. Các đồng
bằng nguồn gốc biển (cao
10-20m) có ý nghĩa đáng kể
cho sản/xuất nông nghiệp.
Cồn cát ít phát triển hơn so
với KV2.
Diện tích đồng bằng hầu
như không có, chủ yếu
phát triển các vũng vịnh và
bồi tích ven bờ.
Các đụn cát phát triển
không liên tục, điển hình ở
khu vực bán đảo Hòn
Gốm, Dốc Lết.
Hướng đường bờ
(theo ý nghĩa
phương tiếp cận
của lục địa đối với
hướng gió gây mưa
chủ đạo)
Đường bờ biển phía đông
chạy chủ yếu theo hướng
bắc nam
Đường bờ biển phía đông
chủ yếu theo hướng tây bắc
- đông nam
Đường bờ biển chuyển từ
Tây Bắc (phía bắc KV3)
sang Bắc Nam (phía nam
KV3).
Đường bờ biển chủ yếu có
hướng Bắc Nam. Bờ biển
chủ yếu là đá gốc và có
nhiều vũng vịnh.
- Hướng đường bờ: vai trò của đường bờ biển
trong sự hình thành mưa địa hình từ lâu đã được đề
cập đến trong rất nhiều nghiên cứu, đặc biệt là
nghiên cứu về cơ chế hoạt động của gió mùa Đông
Nam Á [10, 11]. Ở Việt Nam đặc biệt là ở ven biển
Miền Trung với sự xuất hiện của kiểu mùa mưa
“thu đông” (không điển hình cho vùng nhiệt đới),
đường bờ biển, đặc biệt là khi đường bờ có hướng
vuông góc với chuyển động của các khối không khí
giầu ẩm từ biển Đông tràn vào có tác dụng cộng
hưởng với điều kiện địa hình khu vực làm gia tăng
chuyển động thăng gây nên các khu vực có mưa
địa hình (bảng 2) và hệ quả cuối cùng là sự dịch
chuyển của mùa mưa dần sang cuối thu đầu đông ở
ven biển Trung Bộ [4].
3.2. Sự phân hóa về HTĐH và mưa lớn giữa các khu
vực ở dải ven biển từ Thanh Hóa đến Khánh Hòa
3.2.1. Phân hóa HTĐH giữa các khu vực
Những thống kê, phân tích sự khác biệt về đặc
điểm HTĐH trên 4 khu vực vùng nghiên cứu được
trình bày trên bảng 2.
Tóm lại trên một không gian khoảng trên 8 vĩ
độ địa lý, các khu vực có những khác biệt chính về
HTĐH sau:
- Ở KV1 các bộ phận thuộc dãy núi Trường Sơn
cao hơn ở KV2 và có tính liền mạch hơn. Chuyển
sang KV3 và KV4 tính chất tuyến dần bị thay thế
bằng tích chất khối của các dải núi.
- Ở KV1 vùng đồi núi có phân cắt sâu nhỏ hơn so
với KV2. Các KV3 và KV4, diện tích đồi hầu như
tiêu biến, chỉ còn có các khối và nhánh núi với mức
độ phân cắt sâu cao.
- Ở KV1 các lưu vực sông lớn và mở rộng hơn,
trong khi ở KV2 các lưu vực sông hẹp, ngắn và dốc.
Sang đến KV3, KV4 các sông hầu hết có dạng cắt sẻ
lòng, nhiều nơi đáy sông trơ lộ đá gốc.
- KV1 có đồng bằng ven biển rộng hơn so với
KV2. Các đồng bằng ở KV3 và KV4, ngoài đồng
bằng Quảng Nam thì đều có diện tích rất nhỏ.
306
- Những cồn cát ven biển có ảnh hưởng lớn nhất
tới chế độ thủy văn ở KV2 và tiếp đến là KV1 nhưng
giá trị tiềm năng phát triển KT-XH lại cao hơn hẳn ở
KV4 và KV3.
- Hướng đường bờ chủ đạo của KV1 là B-N, của
KV2 là TB-ĐN, của KV3 là TB-ĐN (ở phía bắc) và
B-N (ở phía nam), của KV4 là hướng B-N.
3.2.2. Phân hóa của các HTTT mưa lớn và tần suất
mưa lớn có liên quan đến hoạt động của KKL
Mưa lớn và rất lớn trên diện rộng là hệ quả
tương tác giữa hoạt động của các HTTT gây mưa
có tính hệ thống với điều kiện địa hình từng khu
vực. Các khu vực được phân chia này một mặt phải
“đủ rộng” để không làm “mờ nhạt” tính hệ thống
của bản thân hiện tượng mưa lớn, mặt khác cũng
“không thể quá hẹp”, đủ để “làm sáng tỏ” được sự
khác biệt của tác nhân HTĐH cộng hưởng với các
HTTT gây nên mưa lớn trên từng khu vực.
Theo các kết quả nghiên cứu về mưa lớn đã
được tiến hành [4, 6] với các tiêu chí để xác định
mưa lớn và mưa rất lớn1 được đề xuất trong [7], kết
quả phân loại và thống kê số đợt mưa lớn và tần
suất xuất hiện mưa lớn của từng loại HTTT trên 4
khu vực vùng nghiên cứu được thể hiện trong
bảng 3.
Bảng 3. Thống kê số đợt mưa lớn và tần suất xuất hiện các HTTT gây mưa lớn ở 4 khu vực vùng nghiên cứu,
giai đoạn 1987-2006
Tần số (đợt) Tần suất (%)
Hình thế thời tiết
KV1 KV2 KV3 KV4 KV1 KV2 KV3 KV4
1. Bão hoặc ATNĐ 12 13 10 3 17,9 11,7 17,5 8,8
2. HTNĐ 20 17 3 1 29,8 15,3 5,3 2,9
3. KKL 7 41 11 13 10,4 37,0 19,3 38,2
4. Bão (hoặc ATNĐ) và KKL - 7 12 3 - 6,3 21,1 8,8
5. HTNĐ và Bão (hoặc ATNĐ) 13 10 2 3 19,5 9,0 3,5 8,8
6. HTNĐ và KKL 1 3 14 8 1,5 2,7 24,6 23,5
7. Rãnh thấp và gió SE; gió NE; gió SW; Nhiễu
động trong đới gió Đông trên cao 14 20 5 3 20,9 18,0 8,8 8,8
Tổng số 67 111 57 34 100,0 100,0 100,0 100,0
* Nguồn: Báo cáo chuyên đề các đề tài [7] và [8]
Phân tích số liệu thống kê bảng 3 cho thấy
những khác biệt như sau:
Tần số và tần suất xuất hiện của các HTTT gây
mưa lớn:
- Về các HTTT gây mưa lớn: trên lãnh thổ
nghiên cứu tổng cộng có 7 loại HTTT gây mưa
lớn, trong đó chỉ riêng ở KV1, qua 20 năm chưa
quan sát thấy đợt mưa lớn nào liên quan đến HTTT
số 4: tổ hợp thời tiết Bão (hoặc ATNĐ) và KKL.
- Về tổng số đợt mưa lớn: trên các khu vực tổng
số đợt mưa lớn lần lượt là: KV1: 67 đợt; KV2: 111
đợt (gấp 1,66 lần so với KV1); KV3: 57 đợt (chiếm
0,85 số lần so với KV1) và KV4: 34 đợt (chiếm 0,51
số lần so với KV1). Nói cách khác, càng về phía nam
tổng số đợt mưa lớn càng ít đi: tính trung bình nếu
như hàng năm ở KV1 có khoảng 3,4 đợt mưa
lớn/năm thì ở các khu vực khác lần lượt là KV2: 5,6
đợt/năm, KV3: 2,85 đợt/năm và KV3: 1,7 đợt/năm.
- Về tần suất xuất hiện cao nhất của các HTTT
gây mưa lớn trên từng khu vực: đối với KV1 đó là
HTNĐ, chiếm tới 29,8% tổng số đợt. Ở KV2 là
KKL, chiếm 37,0%. Ở KV3 là HTNĐ và KKL,
chiếm tới 24,6% và ở KV4 lại là KKL, chiếm tới
38,2%. Nhìn chung, ¾ khu vực có tần suất HTTT
xuất hiện cao đều có liên quan đến KKL hoặc tổ hợp
của KKL với các HTTT khác.
- Đáng lưu ý có HTTT số 7 (XT hoặc RT và gió
SE; HTKH: Dải thấp, vùng thấp phía tây) chiếm
tần suất khá cao ở KV1 (20,9%), KV2 (18,0%) nhưng
lại có tần suất không cao (8,8%) ở KV3 và KV4.
1Mưa lớn: lượng mưa ≥50mm/ngày, kéo dài từ 2 ngày trở lên, diện mưa chiếm ≥ 50% số trạm trong khu vực;
Mưa rất lớn: lượng mưa ≥100mm/ngày, kéo dài từ 2 ngày trở lên, diện mưa chiếm ≥ 50% số trạm trong khu vực.
307
Nghiên cứu mưa lớn và vai trò của HTĐH tương
tác với mưa lớn là một vấn đề phức tạp, trong lúc
những dữ liệu phân tích chi tiết còn hạn chế, chúng
tôi lựa chọn những loại HTTT (được xem là) có
hướng chuyển động của các tác nhân gây mưa tương
đối rõ ràng, đó là các HTTT số 3: KKL, số 4: KKL
với Bão (hoặc ATNĐ), số 6: KKL với HTNĐ và tiến
hành phân tích thành 2 trường hợp riêng trước khi
tổng hợp lại, cụ thể như sau:
Mưa lớn do hoạt động đơn thuần của KKL sau
các front lạnh:
Các đợt xâm nhập KKL theo hướng ĐB-TN
(HTTT số 3), với sự tiềm ẩn của các tác nhân gây
mưa bên trong bề mặt front lạnh là nguyên nhân
quan trọng gây mưa và mưa lớn ở các khu vực ven
biển vùng nghiên cứu: Có 7 đợt mưa lớn do KKL
(∼10,4% tổng số đợt) ở KV1; 41 đợt (∼36,9%) ở
KV2; 11 đợt (∼19,3%) ở KV3 và 13 đợt (∼38,2%)
ở KV4 (bảng 4). Có thể thấy KV2 và KV4 là
những khu vực có tần suất mưa lớn liên quan đến
KKL đơn thuần cao vượt trội, đạt 36,9% và 38,2%
tổng số đợt mưa lớn tương ứng trên từng khu vực.
Bảng 4. Số đợt mưa lớn và tần suất xuất hiện các HTTT mưa lớn có liên quan đến hoạt động của KKL
ở 4 khu vực vùng nghiên cứu, giai đoạn 1987 - 2006
Tần số (đợt) Tần suất (%)
Hình thế thời tiết
KV1 KV2 KV3 KV4 KV1 KV2 KV3 KV4
Tổng số 67 111 57 34 100,0 100,0 100,0 100,0
KKL (HTTT số 3) 7 41 11 13 10,4 36,9 19,3 38,2
Tổ hợp KKL với các HTTT khác (số 4 + số 6) 1 10 26 11 1,5 9,0 45,6 32,4
Tổng hợp các HTTT có liên quan đến KKL (số
3 + số 4 + số 6) 8 51 37 24 11,9 45,9 64,9 70,6
Các HTTT mưa lớn còn lại 59 60 20 10 88,1 54,1 35,1 29,4
Mưa lớn do tổ hợp KKL và các HTTT khác:
Các đợt xâm nhập KKL theo hướng TB-ĐN ở
phía bắc (với sự tiềm ẩn của các tác nhân gây mưa
bên trong bề mặt front lạnh) kết hợp với vai trò hội
tụ các khối không khí trong bão, ATNĐ hoặc
HTNĐ (trong HTTT số 4 và số 6) là nguyên nhân
gây nên 1 đợt mưa lớn (∼1,5%) ở KV1; 10 đợt mưa
lớn (∼9,0%) ở KV2; 26 đợt mưa lớn (∼45,6%) ở
KV3 và 11 đợt mưa lớn (∼32,4%) ở KV4.
Tổng hợp mưa lớn do các HTTT có liên quan đến
KKL:
Thống kê tổng số đợt mưa lớn và tần suất xuất
hiện các HTTT mưa lớn có liên quan đến yếu tố KKL
cho thấy: trong cùng một thời kỳ 1987-2006, nếu như
ở KV1 mưa lớn có liên quan đến KKL chỉ chiếm
11,9% tổng số đợt, thì ở KV2 tỷ trọng này là 45,9%,
và ở KV3, KV4 chúng lần lượt là 64,9% và 70,6%.
Điều này cho thấy trong khi tổng số đợt mưa lớn có
xu thế tăng dần từ KV1 đến KV2, giảm từ KV2 qua
KV3 đến KV4 thì vai trò cộng hưởng của các đợt
KKL, tổ hợp KKL và bão (hoặc ATNĐ) hay KKL
với HTNĐ lại chiếm một tỷ trọng ngày càng tăng:
11,9% ở KV1; 45,9% ở KV2; 64,9% ở KV3 và
70,6% ở KV4.
Phải chăng sự khác biệt rõ nét về đặc điểm HTĐH
(hướng sơn văn, đặc điểm hình thái những dãy núi
chính,...), hướng đường bờ biển (bảng 2) trong sự
tương tác với hướng chuyển dịch của KKL là nguyên
nhân quan trọng, làm tăng tỷ trọng của số đợt mưa
lớn liên quan đến KKL ở 3 khu vực phía nam vùng
nghiên cứu?!.
4. Kết luận
Sự phân hoá của mưa lớn và điều kiện HTĐH là
một vấn đề phức tạp. Mưa lớn và rất lớn là những
hiện tượng thời tiết mang tính hệ thống, khi xuất
hiện ở vùng ven biển Trung Bộ, thời tiết đặc biệt
này lại được cộng hưởng thêm bởi vai trò phân dị
vừa có tính hệ thống (các hệ thống núi) vừa có tính
khá cục bộ, địa phương (các dãy núi đơn lẻ) của
HTĐH khu vực.
Thống kê số liệu mưa mặt đất và phân loại các
HTTT gây mưa lớn, kết hợp đồng thời với phân tích
tương tác mưa lớn - đặc điểm HTĐH các khu vực
cho thấy tại các khu vực KV2, KV3 và KV4, đặc
điểm HTĐH có thuận lợi hơn cho hình thành mưa
lớn liên quan đến KKL (hướng sơn văn, đặc điểm
hình thái các dãy núi chính, sự hiện diện của các dãy
núi chạy ra sát biển, hướng đường bờ biển,...). Ở các
khu vực phía nam vùng nghiên cứu, mưa lớn do
KKL đơn thuần và do KKL kết hợp với các HTTT
khác đã chiếm một tỷ trọng rất cao: 45,9% ở KV2;
64,9% ở KV3 và tới 70,6% ở KV4.
Nghiên cứu, phân tích đồng thời mưa lớn và địa
hình như trên đã phác họa một cách cụ thể hơn đặc
308
điểm chế độ mưa vùng ven biển Trung Bộ. Sự gia
tăng tần suất các đợt mưa lớn liên quan đến yếu tố
KKL trên tổng số đợt ở các khu vực phía nam chỉ rõ
trong nguyên nhân mưa lớn ở đây có vai trò quan
trọng của sự tương tác giữa địa hình với nhân tố KKL
(bao gồm KKL đơn thuần, tổ hợp KKL với các
HTTT khác (số 4, số 6).
Kết quả nghiên cứu này một mặt rất thiết thực cho
công tác dự báo mưa, mưa lớn ở các khu vực dải ven
biển Trung Bộ, mặt khác cũng cho thấy cách tiếp cận
nghiên cứu thiên tai mưa lớn của địa lý khí hậu là hợp
lý và đặc biệt. Công trình được hoàn thành trong
khuôn khổ 2 đề tài cấp Viện Hàn lâm KHCN Việt
Nam [7, 8], hướng “Phòng tránh giảm nhẹ thiên tai”,
thực hiện trong các năm 2008-2009 và 2012-2013.
TÀI LIỆU DẪN
[1] Nguyễn Đức Ngữ, Nguyễn Trọng Hiệu,
1985: Phân vùng Khí hậu Việt Nam, Tổng cục
KTTV. Hà Nội.
[2] Lê Văn Thảo, 2000: Mưa lớn ở các tỉnh
miền Trung do tác động không khí lạnh với nhiễu
động sóng đông trong đới gió đông cận nhiệt đới.
Tuyển tập báo cáo hội nghị “Khoa học, công nghệ
dự báo phục vụ dự báo khí tượng thủy văn”, Hà
Nội 26 - 27/12/2000, Tổng cục KTTV.
[3] Nguyễn Khanh Vân, 2002: Tính đa dạng và
phức tạp trong cơ chế mùa mưa ở dải ven biển Việt
Nam. Tạp chí Các Khoa học về Trái Đất, T.24, 3, TT
KHTN&CNQG, 209-215.
[4] Nguyễn Khanh Vân, Bùi Minh Tăng, 2003:
Đặc điểm các hình thế thời tiết gây mưa, lũ, lụt lớn
và đặc biệt lớn ở các tỉnh Quảng Bình, Quảng Trị,
Thừa Thiên - Huế. Tạp chí Các Khoa học về Trái
Đất số đặc biệt kỷ niệm 10 năm thành lập Viện Địa
lý, Viện KH&CN Việt Nam, T.25, 4, 339-345.
[5] Nguyễn Khanh Vân, Bùi Minh Tăng, 2004:
Đặc điểm hình thế thời tiết gây mưa, lũ, lụt lớn và
đặc biệt lớn ở các tỉnh Thanh Hoá, Nghệ An, Hà
Tĩnh, thời kỳ 1997 - 2001. Tạp chí Các Khoa học
về Trái Đất, T. 26, 1, 50-59.
[6] Nguyễn Khanh Vân, Đỗ Lệ Thủy, 2009:
Nguyên nhân và quy luật của thời tiết mưa lớn,
“mưa lớn trái mùa” vùng Bắc Trung Bộ (giai đoạn
1987-2006). Tạp chí Các Khoa học về Trái Đất,
T.31, 3, 279-286.
[7] Nguyễn Khanh Vân (chủ biên), 2008-2009.
Nghiên cứu nguyên nhân và quy luật hoạt động của
thời tiết mưa lớn sinh lũ lụt, “mưa lớn trái mùa” -
cảnh báo và đề xuất các giải pháp phòng tránh
giảm nhẹ thiên tai ở Bắc Trung Bộ Việt Nam. Báo
cáo tổng kết đề tài cấp Viện Khoa học và Công
nghệ Việt Nam.
[8] Nguyễn Khanh Vân (chủ biên), 2012-2013:
Nghiên cứu nguyên nhân, quy luật xuất hiện của
thời tiết mưa lớn gây lũ lụt, lụt liên quan với địa
hình vùng Nam Trung Bộ Việt Nam; cảnh báo và
đề xuất các giải pháp phòng tránh giảm nhẹ thiên
tai". Kết quả đề tài cấp Viện Hàn lâm Khoa học và
Công nghệ Việt Nam. Mã số: VAST05,01/12-13.
[9] Nguyễn Khanh Vân, 2012: Vai trò của hình
thái địa hình đối với mưa lớn ở vùng Bắc Trung Bộ
và sự phân hóa giữa bắc và nam đèo Ngang. Tạp
chí Các Khoa học về Trái Đất, T.34, 1, 10-17.
[10] Yêu Trẩm Sinh, 1960: Nguyên lý Khí hậu
học (tập 2), bản dịch từ tiếng Trung của Vũ Văn
Minh, Phạm Quang Trường. Nxb. Nha Khí tượng,
Hà Nội.
[11] Pамедж K., 1976: Метеорология
муссонов. Перевод с английского на русский
язык. Гидрометеоиздат, Ленинград.
SUMMARY
The heavy rain differences based on topo-geographical analyse at Coastal Central Region,
from Thanh Hoa to Khanh Hoa
Following the article “The Role of topo-geographical conditions of Northern Central Region Vietnam and the
difference of heavy rains between North and South Ngang Pass” [Journal of Sciences of the Earth T.34, N°1/2012], this
paper present the reseach results of the resonant influences of topo-geographic conditions in heavy rains patterns in
Coastal Central Region of Vietnam, those divided into some areas along N-S direction by E-W orientation mountain
ranges (Ngang, Hai Van, Ca passes).
Base on the weather situation maps, daily rainfall data (1987-2006) over Coastal Central territory (from Thanh Hoa
to Khanh Hoa), the count and frequencies of heavy rains occurrence (during this timeline) corresponding to 7 types of
309
Synoptic Weather Situation (SWS) - major factor leading to heavy rain - have been analised and evaluated. The results
of analysing simultaneously topo-geographic conditions of 4 areas: Northern Ngang Pass (KV1), Ngang Pass to Hai Van
Pass (KV2), Hai Van Pass to Ca Pass (KV3) and Southern Ca Pass (KV4) together with SWS show that:
- For the heavy rain caused purely by cold air mass (CAM): in KV1: there are only 7 waves equivalent 10,4% of total
number of SWS, while in KV2 there are 41 waves - accupeid 36,9%, in KV3: 11 weves ∼ 19,3%, and in KV4 there are 13
waves ∼ 38,2%.
- For the heavy rain caused by CAM and combination of CAM with other SWS: in KV1 there are 8 waves (11,9% of
total number of SWS), in KV2: 51 waves (accounts for 45,9%), in KV3: 37 weves (64,9%) and in KV4 there are 24 weves
(70,6%). It meens the sounthern areas have higher havy rain frequence.
- The differences in topo-geographic condition of 4 areas, especially the directions of mountain ranges,
characteristics of major mountain ranges, the directions of coast line and the presence of some mountain passes
(Ngang, Hai Van, Ca), are the main reason leading to the increasing convergence and as the consequently the
noticeable increase of heavy rains frequence those relative to CAM.
- The study on the heavy rain differences based on topo-geographical analyse will be a source of valuable
information, contributing to more precisely forecast of heavy rains in different areas of Coastal Central Region of
Vietnam.
The above approach of geographic climatology to examine the topo-geographical conditions and heavy rains is a
new and reasoable approach, it allows to solve the natural disaster problem more effective and more useful at difference
areas in Coastal Central Region of Vietnam.
The study was supported by 2 projects of Vietnam Academy of Science and Technology [7, 8], Science brench
"Preventing Disaster Reduction", performed in the years 2008-2009 and 2012-2013.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 4113_14551_1_pb_5358_2107845.pdf