Đặc điểm sinh học sâu đục thân mía bốn vạch đầu nâu chilo tumidicostalis (hampson) (lepidoptera: Pyralidae) tại Việt Nam

Trưởng thành cái bắt đầu đẻ trứng vào ngày thứ nhất sau khi vũ hóa, số lượng trứng tăng dần và đạt đỉnh cao vào ngày thứ 3 sau vũ hóa với số trứng trung bình là 115,5 trứng/trưởng thành cái. Vào ngày thứ 4, số trứng đẻ được bắt đầu giảm và đến ngày thứ 5, hầu hết các cá thể trưởng thành cái đều ngừng đẻ trứng. Như vậy, trưởng thành cái đẻ trứng tập trung vào ngày thứ 2 và ngày thứ 3 sau vũ hóa (hình 3). trưởng thành cái có thể đẻ rất biến động, từ 89 đến 339 trứng, trung bình từ 22,57 đến 248,20 trứng/trưởng thành cái (bảng 2). Sức đẻ trứng của trưởng thành cái sâu đục thân mía bốn vạch đầu nâu trong nghiên cứu này cao hơn rất nhiều so với kết quả nghiên cứu của Siriwan (2003). Theo tác giả này, sức đẻ trứng của trưởng thành cái sâu đục thân mía bốn vạch đầu nâu đạt trung bình 123,31 trứng/trưởng thành cái. Sức đẻ trứng của trưởng thành cái sâu đục thân mía bốn vạch đầu nâu tương đương với sức đẻ trứng của trưởng thành cái sâu đục thân mía bốn vạch đầu vàng (trung bình 225 trứng/trưởng thành cái) (Đỗ Ngọc Diệp, 2002).

pdf7 trang | Chia sẻ: hachi492 | Lượt xem: 9 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đặc điểm sinh học sâu đục thân mía bốn vạch đầu nâu chilo tumidicostalis (hampson) (lepidoptera: Pyralidae) tại Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Kết quả nghiên cứu Khoa học BVTV - Số 6/2019 13 (Aulacophora fermoralis Weisei, Epilachna vigintioctopunctata Fabr.), 2 loài thuộc bộ cánh vảy (Spodoptera litura Fabr., Diaphania indica), 4 loài thuộc bộ hai cánh (Bactrocera cucurbitae, Bactrocera dorsalis Hendel, Bactrocera correcta Beizzi, Bactrocera dorsalis complex) và 1 loài thuôc ngành thân mềm (Bradybaena similaris). Trong các loài sâu hại nêu trên, rệp muội, sâu cuốn lá, và ruồi đục quả phương đông là những loài sâu hại chính, xuất hiện với độ phổ biến cao và gây ra những thiệt hại chính về năng suất và chất lượng quả gấc. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, 2010. Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về phương pháp điều tra phát hiện dịch hại cây trồng. QCVN 01-38: 2010/BNNPTNT. 2. Đỗ Tất Lợi, 2003. Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam. NXB Thời đại. 3. Đỗ Huy Bích, Đặng Quang Chung, Bùi Xuân Chương, Nguyễn Thượng Dong, Đỗ Trung Đàm, Phạm Văn Hiển, Vũ Ngọc Lộ, Phạm Duy Mai, Phạm Kim Mãn, Đoàn Thị Nhu, Nguyễn Tập, Trần Toàn, 2003. Cây thuốc và động vật làm thuốc ở Việt Nam tập I. NXB Khoa học và kỹ thuật. 4. Phạm Hoàng Hộ, 1999. Cây cỏ Việt Nam. NXB trẻ. 5. Viện Bảo vệ thực vật, 1997. Phương pháp nghiên cứu bảo vệ thực vật tập III, NXB Nông nghiệp. 6. Võ Văn Chi, 2004. Từ điển cây thuốc Việt Nam tập I. NXB Khoa học vã kỹ thuật Hà Nội. 7. Janejira Namee, Suvarin Bumroongsook, 2018. Bactrocera sp. nr.tau, New Fruit Fly Reported as Pest Attacking Spiny Bitter Cucumber Seeds (Momordica cochinchinensis) in Thai Lan. Tạp chí Nông nghiệp của vua Mongkut (2018):36(1):70-76 8. Sangvorn Kitthavee, Jean – Pierre Dujardin, 2010. The geometric approach to explore the Bactrocera tau complex (Diptera: Tephritidae) in Thai Lan. Zoology Journal 113(2010) 243-249. Phản biện: TS. NCVCC. Nguyễn Văn Liêm ĐẶC ĐIỂM SINH HỌC SÂU ĐỤC THÂN MÍA BỐN VẠCH ĐẦU NÂU Chilo tumidicostalis (Hampson) (Lepidoptera: Pyralidae) TẠI VIỆT NAM Biological Characteristics of Sugarcane Moth Borer Chilo tumidicostalis (Hampson) (Lepidoptera: Pyralidae) in Viet Nam Mai Văn Quân, Nguyễn Ti n Quân, Nguyễn Thị Hoài Thƣơng, Trần Văn Bình, Nguyễn Văn Liêm & Trịnh Xuân Hoạt Viện Bảo vê thực vật Ngày nhận bài: 8.10.2019 Ngày chấp nhận: 31.10.2019 Abstract Sugarcane moth borer Chilo tumidicostalis (Hampson) (Lepidoptera: Pyralidae), a new pest of Viet Nam, has invaded into Viet Nam since 2014. At laboratory condition (28.3°C, 85% RH), eggs are laid in batches on both sides of leaf, the egg period is 8.5±0.1 days. The female lays 248.2±62.83 eggs with the highest number on the second and third days after adult was emerged. The larva is creamy white with big dark sports on the body and a dark brown head. The larva period is 37.3±2.2 days with five instars. The pupa period is 9.5±0.3 days. The total life cycle of C. tumidicostalis is 61.3±2.2 days. Keywords: Biological characteristics, Chilo tumidicostalis, Sugarcane moth borer, Kết quả nghiên cứu Khoa học BVTV - Số 6/2019 14 1. ĐẶT VẤN ĐỀ Sâu đục thân mía bốn vạch đầu nâu Chilo tumidicostalis (Hampson) (Lepidoptera: Pyralidae) là loài sâu hại quan trọng ở khu vực Nam Á, Đông Nam Á và Đông Phi (Khanna et al., 1957). Ở khu vực Đông Nam Á, C. tumidicostalis phân bố chủ yếu ở Myanmar và Thái Lan (Bleszynski, 1970; Siriwan, 2003; Williams et al., 1969). Thiệt hại kinh tế do loài này gây ra cho cây mía dao động từ 8,2 đến 48,6%. Khi cây mía bị hại, độ Brix, độ Pol, sucrose, glucose, phẩm chất và giá trị thương phẩm của cây mía giảm mạnh (Gupta, 1960). Mặc dù loài C. tumidicostalis đã được ghi nhận gây hại trên mía ở Nam Á, Đông Nam Á từ nhiều năm trước; tuy nhiên, những nghiên cứu về tác hại, đặc điểm sinh học, sinh thái của loài này còn khá khiêm tốn (Khanna et al., 1957). C. tumidicostalis là loài sinh vật ngoại lai xâm nhập vào Việt Nam từ năm 2014, tại huyện Châu Thành, tỉnh Tây Ninh. Tại đây, loài đã nhanh chóng gia tăng quần thể. Chỉ trong 6 tháng đầu năm 2014, diện tích mía bị hại đã lên tới 1.630 ha (Cao Anh Đương, 2014). Từ đó cho đến nay, C. tumidicostalis tiếp tục gây hại từ vụ này sang vụ khác, gây thiệt hại không nhỏ cho sản xuất mía và ngành công nghiệp chế biến đường của Việt Nam. Bài viết này cung cấp dẫn liệu về đặc điểm hình thái học, sinh học, đặc điểm gây hại của sâu đục thân mía bốn vạch đầu nâu C. tumidicostalis thực hiện trong giai đoạn 2016 - 2017 tại Tây Ninh. 2. VẬT LỆU VÀ PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 2.1 Vật liệu nghiên cứu Giống mía KK3 2.2 Phƣơng pháp nghiên cứu Nuôi để theo dõi đặc điểm sinh học của sâu đục thân mía bốn vạch đầu nâu được thực hiện dựa theo phương pháp của Siriwan (2003). a) Tạo nguồn sâu thí nghiệm Các thân mía bị sâu đục thân được thu từ các ruộng mía bị hại mang về phòng thí nghiệm. Tại đây, dùng dao nhẹ nhàng chẻ dọc thân mía để xác định loài gây hại và thu nhộng hoặc sâu non tuổi cuối của sâu đục thân mía bốn vạch đầu nâu. Nếu là sâu non sâu đục thân mía bốn vạch đầu nâu, đoạn mía có sâu sẽ được đặt vào hộp nhựa hình trụ có đường kính 23 cm cao 10 cm. Hàng ngày bổ sung đoạn thân mía bổ làm đôi dài 8 - 10 cm để làm thức ăn cho sâu non. Công việc này thực hiện liên tục cho đến khi sâu non hóa nhộng. Nhộng được đặt trong đĩa petri đường kính 9 cm đã lót giấy giữ ẩm để nhộng vũ hóa trưởng thành. Hàng ngày theo dõi sự phát dục của nhộng. Khi trưởng thành vũ hóa, tiến hành ghép 5 - 10 cặp, thả mỗi cặp (gồm 1 đực, 1 cái) trong hộp hình trụ (đường kính 20 cm, cao 30 cm) có sẵn lá mía tươi cùng bông tẩm dung dịch mật ong 10% để trưởng thành ăn thêm và đẻ trứng. Hàng ngày thay mới lá mía cũng như thức ăn cho trưởng thành, thu trứng mới được đẻ làm nguồn vật liệu thí nghiệm. b) Theo dõi đặc điểm sinh học của sâu đục thân mía bốn vạch đầu nâu Thu riêng 1 - 2 ổ trứng (khoảng 100 trứng) được đẻ vào ngày thứ 2 của trưởng thành cái để theo dõi thời gian phát dục và tỷ lệ nở của trứng. Khi trứng nở ra sâu non tuổi 1 , đợi một vài giờ đến khi sâu non bắt đầu phân tán mới dùng bút lông ướt nhẹ nhàng chuyển từng cá thể sâu non vào hộp nhựa (kích thước 11 × 11 × 7 cm) có sẵn đoạn lá mía non để làm thức ăn cho sâu. Lá mía non được cắt từng đoạn dài 5-7 cm, được quấn bông giữ ẩm. Hàng ngày, thay lá mía mới, quan sát sự phát triển của sâu. Khi sâu non tuổi 1 lột xác sang tuổi 2 nguồn thức ăn lá mía được thay bằng đoạn thân cây mía. Các đoạn thân cây mía còn nguyên bẹ được cắt dài 20 cm và chẻ làm 2 - 3 phần (cho sâu non dễ dàng tiếp cận thức ăn) được đặt vào trong hộp nuôi sâu. Hàng ngày vệ sinh hộp nuôi, bổ sung thức ăn và theo dõi thời điểm sâu non lột xác chuyển tuổi. Sâu non đẫy sức (ngừng ăn) được chuyển sang hộp nuôi sâu có sẵn miếng bìa carton 3 lớp (kích thước 7 × 7 cm) với 1 - 3 lỗ đục để sâu non chui vào hóa nhộng. Theo dõi sự phát dục của nhộng đến khi trưởng thành xuất hiện (giữ đủ độ ẩm trong hộp nuôi bằng bông thấm nước). Khi có trưởng thành, tiến hành ghép cặp (10 - 15 cặp). Mỗi cặp (một đực và một cái) được nuôi trong một hộp nuôi sâu có thức ăn thêm cho trưởng và lá mía để chúng đẻ trứng. Theo dõi khả năng đẻ trứng của trưởng thành cho đến khi cá thể trưởng thành cuối cùng chết. Chỉ tiêu theo dõi gồm: Tỷ lệ sống sót các pha trước trưởng thành, thời gian phát dục các pha, Kết quả nghiên cứu Khoa học BVTV - Số 6/2019 15 vòng đời, thời gian sống và sức đẻ trứng của trưởng thành. Thí nghiệm được bố trí trong phòng thí nghiệm với nhiệt độ trung bình là 28,3°C và độ ẩm trung bình 85%. 3. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN 3.1 Đặc điểm hình thái của sâu đục thân mía bốn vạch đầu nâu C. tumidicostalis a) Pha trứng Trứng được đẻ thành ổ, mỗi ổ có 3 - 5 hàng xếp hơi chồng lên nhau giống hình vảy cá. Trứng mới được đẻ có màu trắng sữa, bề mặt trơn bóng, sau đó chuyển dần sang màu nâu. Trước khi nở khoảng 1 ngày, trứng chuyển dần sang màu đen (hình 1). b) Pha sâu non - Sâu non tuổi 1: Cơ thể sâu non màu trắng sữa đến trắng đục, thân dài 1,6 - 2,3 mm, các chấm trên cơ thể màu nâu nhạt, mảnh đầu màu nâu nhạt trơn bóng (hình 1). - Sâu non tuổi 2: Cơ thể màu trắng đục đến trắng vàng, thân dài 3,9 - 7,9 mm, các vân ngang và chấm đen trên lưng nổi rõ. Khi mới lột xác, mảnh đầu màu trắng đục sau chuyển sang màu nâu đen (hình 1). - Sâu non tuổi 3: Sâu non có thân dài 8,0 - 13,9 mm, màu sắc tương tự như sâu non tuổi 2, mảnh đầu có xu hướng hơi nhọn về phía trước, xuất hiện các u lông trên mặt lưng. - Sâu non tuổi 4: Cơ thể dài 14,0 - 16,3 mm, màu trắng vàng hoặc màu trắng đục, các u trên cơ thể to, màu xám mờ, mảnh lưng ngực trước có màu nâu đậm (hình 1). - Sâu non tuổi 5: Cơ thể dài 18,4 - 24,2 mm, màu sắc tương tự như sâu non tuổi 4, nhưng các u xám trên cơ thể đậm màu hơn. Trước khi hóa nhộng 1 - 2 ngày, cơ thể sâu non chuyển dần từ màu trắng đục sang vàng nhạt (hình 1). c) Pha nhộng Khi sâu non vừa mới hóa nhộng, nhộng mới có màu vàng nhạt, sau 4 - 5 tiếng dần chuyển sang vàng bóng, rồi nâu đậm, trước khi vũ hóa trưởng thành, nhộng có màu nâu bóng. Nhộng cái có kích thước lớn hơn nhộng đực (hình 1). d) Trưởng thành - Trưởng thành cái: Cánh trước màu trắng vàng đến vàng nhạt, đỉnh cánh trước mỗi bên có 6 chấm nâu nhỏ, cánh ngắn hơn phần bụng, các đốt bụng có đai lông ngăn cách. Phần gốc râu đầu có dạng răng cưa, phần roi râu dạng sợi chỉ (hình 1). - Trưởng thành đực: Cơ thể nhỏ hơn và có màu thẫm màu hơn trưởng thành cái, cánh trước có hai sọc đen chạy dài từ gốc cánh đến đỉnh cánh, phần bụng thon dài trông rõ các đốt. Râu đầu ngắn hơn râu đầu của trưởng thành cái (hình 1). Trứng Sâu non tuổi 1 Sâu non tuổi 2 Sâu non tuổi 3 Sâu non tuổi 4 Sâu non tuổi 5 Kết quả nghiên cứu Khoa học BVTV - Số 6/2019 16 Nhộng (A: nhộng đực; B: nhộng cái) Trưởng thành (A: tr.thành đực; B: tr.thành cái) Trưởng thành Hình 1. Các pha phát dục của sâu đục thân bốn vạch đầu nâu 3.2 Đặc điểm sinh học của sâu đục thân mía bốn vạch đầu nâu C. tumidicostalis a) Tập tính hoạt động sống và triệu chứng gây hại Trưởng thành cái loài C. tumidicostalis đẻ trứng thành ổ ở mặt dưới lá mía, gần nõn hoặc trên bề mặt thân cây mía (vị trí thân trơn nhẵn). Sâu non tuổi 1 sống tập trung, ăn nhu mô những lá mía non gần ngọn. Thời gian đầu tuổi 2, sâu non vẫn ăn nhu mô lá mía non. Từ tuổi 3 trở đi, sâu non bắt đầu đục vào trong thân cây mía, ăn phần mô cây. Trước khi hóa nhộng 1 - 2 ngày, sâu non tuổi cuối ngừng ăn, ít hoạt động. Triệu chứng gây hại của loài C. tumidicostalis khá điển hình, dễ dàng phân biệt với triệu chứng gây hại của các loài sâu đục thân khác như sâu đục thân mình tím (Phragmataecia castaneae), sâu đục thân cú mèo (Sesamia inferens), sâu đục thân mía bốn vạch đầu vàng (Chilo sacchariphangus), sâu đục thân mình trắng (Scirpophaga excesptalis). Cây mía bị C. tumidicostalis gây hại, thường bị hại theo từng chòm sau đó mới lan rộng ra cả ruộng. Ngọn cây mía bị khô héo do sâu non đục xuyên qua nhiều lóng. Trên các đốt gần ngọn cây mía xuất hiện nhiều lỗ đục, tại miệng các lỗ đục có phân sâu non nhỏ như mạt cưa, kết dính với nhau, vón cục màu nâu đến nâu đỏ, sau chuyển dần sang màu đen (hình 2). Hình 2. Triệu chứng gây hại của sâu đục thân 4 vạch đầu nâu A B Kết quả nghiên cứu Khoa học BVTV - Số 6/2019 17 b) Thời gian phát dục các pha, vòng đời của sâu đục thân mía bốn vạch đầu nâu Đã nuôi sâu đục thân mía bốn vạch đầu nâu C. tumidicostalis ở điều kiện phòng thí nghiệm (28,3°C, ẩm độ 85,3%). Pha trứng có thời gian phát triển trung bình 8,5 ngày. Sâu non có 5 tuổi. Sâu non tuổi 1 có thời gian phát triển ngắn nhất (trung bình 6,0 ngày). Thời gian phát triển trung bình của sâu non các tuổi tăng dần, đến sâu non tuổi 4, tuổi 5 chỉ tiêu này đã đạt (tương ứng) là 8,1 ngày và 10,2 ngày. Thời gian phát triển của cả pha sâu non trung bình là 37,3 ngày. Thời gian nhộng biến động từ 8 đến 12 ngày, trung bình 9,5 ngày. Thời gian tiền đẻ trứng là 2,1 ngày. Thời gian vòng đời trung bình là 61,3 ngày. Tuổi thọ trung bình của trưởng thành cái là 4,5 ngày và của trưởng thành đực là 3,7 ngày (bảng 1, hình 1). Bảng 1. Thời gian phát dục các pha và vòng đời của sâu đục thân mía bốn vạch đầu nâu (huyện Châu Thành, tỉnh Tây Ninh, 2017) Pha phát dục Số cá thể theo dõi (con) Thời gian phát dục (ngày) Ngắn nhất Dài nhất Trung bình Trứng 100 8 9 8,5 ± 0,10 Sâu non Tuổi 1 83 4 9 6,0 ± 0,30 Tuổi 2 65 4 10 7,0 ± 0,30 Tuổi 3 59 6 11 6,8 ± 0,30 Tuổi 4 55 6 10 8,1 ± 0,30 Tuổi 5 54 8 13 10,2 ± 0,40 Cả pha sâu non 28 53 37,3 ± 2,23 Nhộng 48 8 12 9,5 ± 0,30 Thời gian tiền đẻ trứng 1 3 2,1 ± 0,70 Thời gian vòng đời 45 76 61,3 ± 2,20 Tuổi thọ trưởng thành cái 17 2 6 4,5 ± 1,30 Tuổi thọ trưởng thành đực 17 1 5 3,7 ± 0,60 Ghi chú: Nhiệt độ trung bình 28,3°C, ẩm độ là 85%. Thời gian phát triển trung bình của trứng trong nghiên cứu của Siriwan (2003) ngắn hơn rất nhiều so với kết quả trong nghiên cứu này (5,28 ngày so với 8,5 ngày). Sự phát triển của sâu non sâu đục thân mía bốn vạch đầu nâu trong nghiên cứu này tương đối đồng đều, các cá thể sâu non lột xác chuyển tuổi khá tập trung (sai số thí nghiệm khá thấp). Trong nghiên cứu này chưa phát hiện được cá thể sâu non nào có nhiều hơn 5 tuổi. Đây là sự khác biệt so với kết quả nghiên cứu của Siriwan (2003) tại Thái Lan. Theo Siriwan (2003), sâu non sâu đục thân mía bốn vạch đầu nâu có 5 - 7 tuổi. Sự khác nhau về số tuổi sâu non đã dẫn đến thời gian phát triển của pha sâu non khá biến động từ 24,67 ngày (đối với sâu non có 5 tuổi) đến 37,3 ngày (đối với sâu non có 7 tuổi). Trong nghiên cứu này, thời gian phát triển của sâu non (có 5 tuổi) dài hơn rất đáng kể so với sâu non có 5 tuổi ở Thái Lan (tương ứng là 37,3 và 24,67 ngày) và tương đương với thời gian phát triển của sâu non có 7 tuổi trong nghiên cứu của Siriwan (2003) và Pitaksa (1999). Theo các tác giả này, thời gian phát triển của sâu non có 7 tuổi kéo dài 37,3 ngày. Trong nghiên cứu này, thời gian vòng đời của sâu đục thân 4 vạch đầu nâu (61,3 ngày) dài hơn so với trong nghiên cứu của Siriwan (2003) và Pitaksa (1999). Theo Siriwan (2003), thời gian vòng đời của sâu đục thân 4 vạch đầu nâu kéo dài từ 45,87 ngày (khi Kết quả nghiên cứu Khoa học BVTV - Số 6/2019 18 sâu non có 5 tuổi) đến 58,13 ngày (khi sâu non có 7 tuổi). Còn theo Pitaksa (1999), thời gian vòng đời của sâu đục thân mía bốn vạch đầu nâu kéo dài 37 - 49 ngày. Tuổi thọ của trưởng thành đực và cái sâu đục thân mía bốn vạch đầu nâu trong nghiên cứu này tương đồng với kết quả của Siriwan (2003). Theo tác giả này, trưởng thành đực và cái có thể sống 2-5 ngày, trung bình là 4 ngày. c) Sức đẻ trứng của trưởng thành cái sâu đục thân mía bốn vạch đầu nâu Ở điều kiện 27±2°C và ẩm độ 84±5%, mỗi trưởng thành cái đẻ 1 - 2 ổ trứng, một số ít trưởng thành cái đẻ đến 3 ổ trứng. Số trứng mỗi trưởng thành cái có thể đẻ rất biến động, từ 89 đến 339 trứng, trung bình từ 22,57 đến 248,20 trứng/trưởng thành cái (bảng 2). Sức đẻ trứng của trưởng thành cái sâu đục thân mía bốn vạch đầu nâu trong nghiên cứu này cao hơn rất nhiều so với kết quả nghiên cứu của Siriwan (2003). Theo tác giả này, sức đẻ trứng của trưởng thành cái sâu đục thân mía bốn vạch đầu nâu đạt trung bình 123,31 trứng/trưởng thành cái. Sức đẻ trứng của trưởng thành cái sâu đục thân mía bốn vạch đầu nâu tương đương với sức đẻ trứng của trưởng thành cái sâu đục thân mía bốn vạch đầu vàng (trung bình 225 trứng/trưởng thành cái) (Đỗ Ngọc Diệp, 2002). Bảng 2. Sức đẻ trứng của trƣởng thành cái sâu đục thân mía bốn vạch đầu nâu (Châu Thành, Tây Ninh, 2017) Đợt Số cặp theo dõi Phạm vi bi n động của sức đẻ trứng (trứng/cái) Sức đẻ trứng trung bình (trứng/cái) Nhiệt độ (°C) Ẩm độ (%) 1 2 10 7 105-339 89-301 248,20±62,83 221,57±35,27 27,05±1,08 26,52±1,01 84,1±3,97 89,2±3,45 Ghi chú: thức ăn cho trưởng thành là mật ong 10% Hình 3. Nhịp điệu đẻ trứng của trƣởng thành cái sâu đục thân mía bốn vạch đầu nâu (huyện Châu Thành, tỉnh Tây Ninh, 2017) Trưởng thành cái bắt đầu đẻ trứng vào ngày thứ nhất sau khi vũ hóa, số lượng trứng tăng dần và đạt đỉnh cao vào ngày thứ 3 sau vũ hóa với số trứng trung bình là 115,5 trứng/trưởng thành cái. Vào ngày thứ 4, số trứng đẻ được bắt đầu giảm và đến ngày thứ 5, hầu hết các cá thể trưởng thành cái đều ngừng đẻ trứng. Như vậy, trưởng thành cái đẻ trứng tập trung vào ngày thứ 2 và ngày thứ 3 sau vũ hóa (hình 3). 4. KẾT LUẬN Sâu đục thân mía bốn vạch đầu nâu C. tumidicostalis là loài côn trùng ngoại lai, xâm nhập vào vùng trồng mía ở Tây Ninh từ năm 2014. Trong điều kiện phòng thí nghiệm (28,3°C, ẩm độ 85,3%), sâu non có 5 tuổi, sâu non tuổi 1 có thời gian phát triển ngắn nhất (6,0 ngày), sâu non tuổi 5 có thời gian phát triển dài nhất (10,2 ngày). Thời gian phát triển trung bình của pha trứng, sâu non, nhộng tương ứng là 8,5; 37,3 và 9,5 ngày. Thời gian tiền đẻ trứng là 2,1 ngày. Thời gian vòng đời của sâu đục thân mía bốn vạch đầu nâu là 61,3 ngày. Một trưởng thành cái có thể đẻ được 221,57 - 248,20 trứng, trưởng thành cái đẻ trứng tập trung vào ngày thứ 2 và ngày thứ 3 sau khi vũ hóa. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Đỗ Ngọc Diệp, 2002. Nghiên cứu sâu đục thân mía và biện pháp phòng trừ chúng ở miền Đông Nam bộ, Luận án Tiến sĩ Nông nghiệp, Trường Đại học Nông nghiệp I, Hà Nội. 2. Cao Anh Đương, 2014. Nguy cơ sâu đục thân Kết quả nghiên cứu Khoa học BVTV - Số 6/2019 19 mía bốn vạch lan rộng. Báo Nông nghiệp Việt Nam, ngày 18.9.2014. 3. Khanna, K. L., Nigam, L. N., Puri, V. D. 1957. Chilo tumidicostalis Hampson - a serious Stem Borer Pest of sugarcane in Bihar Proceedings of the Indian Academy of Sciences, Section B, 46 (2). pp. 75-95. ISSN 0370-0097. 4. Pitaksa C., 1999. Sugarcane moth borer. Journal of Entomology and Zoology, 21(3): 203-206. 5. Siriwan. T., 2003. A thesis submitted in Partial Fulfillment of the Requirements for the Degree of Master of Science. pp 13-46. Phản biện: GS.TS.NCVCC. Phạm Văn Lầm MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM SINH HỌC 2 LOÀI RỆP SÁP GIẢ Pseudococcus jackbeardsleyi và Ferrisia virgata (HEMIPTERA: PSEUDOCOCCIDAE) GÂY HẠI TRÊN THANH LONG RUỘT ĐỎ Some Biological Characteristics of Pseudococcus jackbeardsleyi and Ferrisia virgata (HEMIPTERA: PSEUDOCOCCIDAE) Damaged on Red Dragon Fruit Trƣơng Chí Thanh 1 & Lê Khắc Hoàng 2 Ngày nhận bài: 15.09.2019 Ngày chấp nhận: 20.9.2019 Abstract Recently, dragon fruit becomes a very important exporting fruit and main market is China. However, two mealybug species: Pseudococcus jackbeardsleyi and Ferrisia virgataon dragon fruit were strickly observed by Chinese quarantine office from 2014. Understanding on life history of these pests is needed to defind available controlling measures. Results of study showed that the optimal temperature for both P. jackbeardsleyi and F. virgata development were around 30 0 C. At optimal temperature, P. jackbeardsleyi„s life cycle was 29.2 days and fecundity was 283.6 eggs/female, F. virgata‟s life cycle was completed within 31,3 days and a female laid 338.8 eggs,. At the temperature of 20 0 C, P. jackbeardsleyi could not completed their life cycle, 80% of eggs were dead, the rest were emerged to first instar larve then dead. The species of F. virgata could survive at 20 0 C but the life cycle was increased to 63.5 days and a female laid only 155.1 eggs. The result was indicated that Dragon fruit was kept in cold container (around 2- 6 0 C) for exporting, these results suggested that the product with cold stored management in post harvest process could support for controlling these mealybugs. Keywords: Pseudococcus jackbeardsleyi, Ferrisia virgata, dragon fruit, mealybugs 1. ĐẶT VẤN ĐỀ * Cây thanh long hiện tại được xem là cây “tỷ đô” vì kim ngạch xuất khẩu của thanh long hiện tại có giá trị rất cao. Tổng diện tích trồng thanh long của 3 tỉnh Bình Thuận, Long An và Tiền 1. Học viên Trường Đại học Nông Lâm Tp. Hồ Chí Minh 2. Khoa Nông học –Trường Đại học Nông Lâm Tp. Hồ Chí Minh Giang khoảng 45.500ha chiếm khoảng 82% so với diện tích cả nước là 54.000ha và năng suất hàng năm đạt khoảng 900.000 tấn/năm (Cổng thông tin điện tử Bình Thuận, 2019). Thanh long là cây ăn quả có giá trị xuất khẩu rất lớn của Việt Nam với khoảng 80% sản lượng thanh long được xuất khẩu tới 40 quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế giới, trong đó có cả các thị trường được coi là khó tính như Châu Âu, Mỹ, Nhật Bản.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfdac_diem_sinh_hoc_sau_duc_than_mia_bon_vach_dau_nau_chilo_tu.pdf