ĐẶC ĐIỂM TRIẾT HỌC PHẬT GIÁO ẤN ĐỘ CỔ ĐẠI
Nếu gọi Phương đông là chiếc nôi của văn minh nhân loại thì Ấn Độ là một trong những trung tâm văn hoá và triết học cổ xưa, rực rỡ, phong phú nhất của nền văn minh ấy - nó có một vị trí quan trọng trong lịch sử tư tưởng của Châu Á. Giống như triết học Trung Quốc, triết học Ấn Độ ra đời sớm và chứa đựng nhiều tư tưởng sâu sắc về thế giới, trong đó có vấn đề phạm trù triết học
Có thể nói, trong đời sống tinh thần của người Ấn Độ, bên cạnh tôn giáo, triết học có một vai trò khá quan trọng. Chính vì sự gần gũi đó mà triết học Ấn Độ gắn liền với các tôn giáo. Đúng như lời nhận xét của Radhakrishnan:"Triết học Ấn Độ mang đượm màu sắc chủ nghĩa duy linh, chính chủ nghĩa duy linh đã cho Ấn Độ khả năng chống lại các cuộc chiến tranh của thù trong giặc ngoài. Hết người Hy Lạp, người Mông Cổ, đến người Pháp, người Anh đã muốn tàn phá và huỷ diệt nền văn minh của đất nước này, nhưng người dân Ấn Độ vẫn ngẩng cao đầu. Trong suốt quá trình lịch sử của mình, đất nước Ấn Độ tồn tại vì một mục đích: Đấu tranh cho chân lý và chống lại mọi sai lầm . Lịch sử tư tưởng Ấn Độ đã và đang minh chứng về những cuộc kiếm tìm vô tận của trí tuệ trong quá khứ, hiện tại và tương lai".
Một trong những điểm sáng của tư tưởng triết học Ấn Độ cổ đại đó là sự xuất hiện Đạo Phật, sau này được tôn giáo hoá nhưng đạo Phật là một tôn giáo Phật, đây là một phương pháp giáo hoá con người, một phương pháp tu dưỡng dạy cho con người một triết lý sống, một cuộc sống có đạo lý, có lý tưởng cao cả và đầy lòng vị tha. Chính vì vậy mà ngày nay Phật giáo vẫn tồn tại và ngày càng phát triển trên thế giới.
Sau đây, chúng ta cùng tìm hiểu những đặc điểm triết học Phật giáo Ấn Độ cổ đại, nhưng trước hết ta cùng điểm qua một đôi dòng về đặc điểm triết học Ấn Độ cổ đại.
Ấn Độ cổ đại là một vùng đất thuộc Nam Châu Á với đặc điểm khí hậu, đất đai đa dạng và khắc nghiệt cùng sự án ngữ của vòng cung dãy Hy–Mã-Lạp–Sơn kéo dài trên hai ngàn km. Đây là yếu tố địa lý có ảnh hưởng nhất định tới quá trình hình thành văn hoá, tôn giáo và tư tưởng triết học của người Ấn Độ cổ đại. Tuy nhiên nhân tố có ảnh hưởng lớn nhất tới quá trình đó là nhân tố kinh tế–xã hội, trong đó đặc biệt là sự tồn tại từ rất sớm và kéo dài của kết cấu kinh tế xã hội theo mô hình đặc biệt mà Các Mác gọi là “Công xã nông thôn”. Trong kết cấu này, chế độ quốc hữu về ruộng đất được các nhà kinh tế điển hình là chủ nghĩa Mác coi là “chiếc chìa khoá” để hiểu toàn bộ lịch sử Ấn Độ cổ đại. Chính trong mô hình này đã làm phát sinh chủ yếu không phải là sự phân chia đối kháng giai cấp giữa chủ nô và nô lệ như ở Hy Lạp cổ đại, mà là sự phân biệt hết sức khắc nghiệt và giai dẳng của bốn đẳng cấp lớn trong xã hội: Tăng nữ, quí tộc, bình dân tự do và tiện nô (nô lệ). Thêm vào đó người Ấn Độ cổ đại đã tích luỹ được những tri thức rất phong phú về các lĩnh vực toán học thiên văn, lịch pháp nông nghiệp v.v Tất cả những yếu tố tự nhiên, kinh tế, chính trị và tri thức nói trên đã hợp thành cơ sở hiện thực cho sự phát triển những tư tưởng triết học – tôn giáo Ấn Độ cổ đại.
Triết học Ấn Độ cổ đại chia làm hai giai đoạn:
Giai đoạn thứ nhất: (Từ giữa thiên niên kỷ III tr.CN đến khoảng giữa thiên niên kỷ II tr.CN). Đây là giai đoạn thường được gọi là “Nền văn hoá Harappa” (hay nền văn minh sống Ấn) – Khởi đầu của nền văn hoá Ấn Độ, mà cho tới nay người ta còn biết quá ít về nó ngoài những tư liệu khảo cổ học vào những thập kỷ đầu thế kỷ XX.
Giai đoạn thứ hai: (Tiếp nối giai đoạn thứ nhất tới thế kỷ thứ VII tr.CN). Đây là thời kỳ có sự thâm nhập của người Arya (gốc Ấn- Âu) vào khu vực của người Dravida (người bản địa). Đây là sự kiện quan trọng về lịch sử, đánh dấu sự hoà trộn giữa hai nền văn hoá -tín ngưỡng của hai chủng tộc khác nhau. Chính qúa trình này đã làm xuất hiện một nền văn hoá mới của người Ấn Độ: nền văn hoá Véda.
Giai đoạn thứ ba: Trong khoảng 5 – 6 thế kỷ (Từ thế kỷ thứ VI tr.CN tới thế kỷ I tr.CN) đây là thời kỳ Ấn Độ cổ đại có những biến động lớn cả về kinh tế, chính trị, xã hội và tư tưởng, cũng là thời kỳ hình thành các trường phái triết học – tôn giáo lớn. Đó là 9 hệ thống tư tưởng lớn, được chia làm hai phái: chính thống và không chính thống. Thuộc phái chính thống có Sàmkhuy, Mimasa, Védanta. Yoga, Nỳaya và Vasêsika. Thuộc phái không chính thống có Jaina, Lokayata và Phật giáo (Buddha).
Triết học Ấn Độ có nhiều nét đặc thù về tư tưởng. So với các nền triết học cổ đại khác, nền triết học Ấn Độ biểu hiện ra là một nền triết học chịu ảnh hưởng lớn của những tư tưởng tôn giáo. Trừ trường phái Lokayata, các trường phái còn lại đều có sự thống nhất giữa tư tưởng triết học và những tư tưởng tôn giáo. Ngay cả hai trường phái: Jaina và Phật giáo, tuy tuyên bố đoạn tuyệt với truyền thống văn hóa Véda (truyền thống tôn giáo) nhưng trong thực tế nó vẫn không thể vượt qua truyền thống ấy. Tuy nhiên tính tôn giáo của Ấn Độ cổ đại có xu hướng “hướng nội” mà không phải “hướng ngoại” như nhiều tôn giáo phương Tây. Cũng bởi vậy, xu hướng chú giải và thực hành những vấn đề nhân sinh quan dưới góc độ tâm linh tôn giáo nhằm đạt tới sự “giải thoát” là xu hướng trội của nhiều học thuyết triết học – tôn giáo Ấn Độ cổ đại.
Đó chỉ là những nét đặc thù của tư tưởng triết học Ấn Độ cổ đại trong tương quan so sánh với các nền triết học cổ đại khác, cái làm nên thiên hướng riêng của nó. Còn về nội dung tư tưởng, nền triết học Ấn Độ cũng giống như nhiều nền triết học cổ đại khác, nó đã đặt ra và giải quyết nhiều vấn đề về triết học: Bản thể luận, nhận thức luận v.v
Chúng ta đi xét những đặc điểm triết học cơ bản của trường phái Phật giáo. Phật giáo là một trường phái triết học – tôn giáo điển hình của nền tư tưởng ấn Độ cổ đại và có nhiều ảnh hưởng rộng rãi, lâu dài trên phạm vi thế giới. Ngày nay với tư cách là một tôn giáo, Phật giáo là một trong ba tôn giáo lớn nhất trên thế giới. Người sáng lập Phật giáo là Thích – Đạt - Đa, vào khoảng thế kỷ thứ V Itr.CN. Sau này ông được tôn xưng với nhiều danh hiệu khác nhau: Như Lai, Phật Tổ, Đức Thế Tôn nhưng khá phổ biến là “Thích Ca Mu ni” (Sakyamuni – nghĩa là “bộc hiền giả dòng Sakya”). Sau Sakyamuni một vài thế kỷ, Phật giáo được phân chia thành tông phái lớn là tiểu thừa giáo và đại thừa giáo (nghĩa là“cỗ xe nhỏ” và “cỗ xe lớn”). Tiểu thừa giáo phát triển về phía Nam Ấn Độ rồi truyền bá sang Xêrilanca, Philippin, Lào, Campuchia, Nam Việt Nam Đại thừa giáo phát triển mạnh ở Bắc Ấn Độ, truyền bá vào Tây Tạng, Trung Hoa, Nhật Bản, Bắc Việt Nam Kinh điển của Phật giáo gồm: Kinh – Luật – Luận (gọi là “Tam tạng” – tức “ba kho kinh điển”). Mà về mặt triết học thì quan trọng nhất là “kinh” và “luận”.
Những tư tưởng triết học cơ bản của Phật giáo Ấn Độ cổ đại gồm những vấn đề lớn sau:
Thứ nhất: Thế giới quan Phật giáo là một thế giới quan có tính duy vật và vô thần, đồng thời có chứa đựng nhiều yếu tố biện chứng sâu sắc.
15 trang |
Chia sẻ: thanhnguyen | Lượt xem: 9320 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đặc điểm triết học Phật giáo Ấn Độ cổ đại, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ĐẶC ĐIỂM TRIẾT HỌC PHẬT GIÁO ẤN ĐỘ CỔ ĐẠI
Nếu gọi Phương đông là chiếc nôi của văn minh nhân loại thì Ấn Độ là một trong những trung tâm văn hoá và triết học cổ xưa, rực rỡ, phong phú nhất của nền văn minh ấy - nó có một vị trí quan trọng trong lịch sử tư tưởng của Châu Á. Giống như triết học Trung Quốc, triết học Ấn Độ ra đời sớm và chứa đựng nhiều tư tưởng sâu sắc về thế giới, trong đó có vấn đề phạm trù triết học
Có thể nói, trong đời sống tinh thần của người Ấn Độ, bên cạnh tôn giáo, triết học có một vai trò khá quan trọng. Chính vì sự gần gũi đó mà triết học Ấn Độ gắn liền với các tôn giáo. Đúng như lời nhận xét của Radhakrishnan:"Triết học Ấn Độ mang đượm màu sắc chủ nghĩa duy linh, chính chủ nghĩa duy linh đã cho Ấn Độ khả năng chống lại các cuộc chiến tranh của thù trong giặc ngoài. Hết người Hy Lạp, người Mông Cổ, đến người Pháp, người Anh đã muốn tàn phá và huỷ diệt nền văn minh của đất nước này, nhưng người dân Ấn Độ vẫn ngẩng cao đầu. Trong suốt quá trình lịch sử của mình, đất nước Ấn Độ tồn tại vì một mục đích: Đấu tranh cho chân lý và chống lại mọi sai lầm... Lịch sử tư tưởng Ấn Độ đã và đang minh chứng về những cuộc kiếm tìm vô tận của trí tuệ trong quá khứ, hiện tại và tương lai".
Một trong những điểm sáng của tư tưởng triết học Ấn Độ cổ đại đó là sự xuất hiện Đạo Phật, sau này được tôn giáo hoá nhưng đạo Phật là một tôn giáo Phật, đây là một phương pháp giáo hoá con người, một phương pháp tu dưỡng dạy cho con người một triết lý sống, một cuộc sống có đạo lý, có lý tưởng cao cả và đầy lòng vị tha. Chính vì vậy mà ngày nay Phật giáo vẫn tồn tại và ngày càng phát triển trên thế giới.
Sau đây, chúng ta cùng tìm hiểu những đặc điểm triết học Phật giáo Ấn Độ cổ đại, nhưng trước hết ta cùng điểm qua một đôi dòng về đặc điểm triết học Ấn Độ cổ đại.
Ấn Độ cổ đại là một vùng đất thuộc Nam Châu Á với đặc điểm khí hậu, đất đai đa dạng và khắc nghiệt cùng sự án ngữ của vòng cung dãy Hy–Mã-Lạp–Sơn kéo dài trên hai ngàn km. Đây là yếu tố địa lý có ảnh hưởng nhất định tới quá trình hình thành văn hoá, tôn giáo và tư tưởng triết học của người Ấn Độ cổ đại. Tuy nhiên nhân tố có ảnh hưởng lớn nhất tới quá trình đó là nhân tố kinh tế–xã hội, trong đó đặc biệt là sự tồn tại từ rất sớm và kéo dài của kết cấu kinh tế xã hội theo mô hình đặc biệt mà Các Mác gọi là “Công xã nông thôn”. Trong kết cấu này, chế độ quốc hữu về ruộng đất được các nhà kinh tế điển hình là chủ nghĩa Mác coi là “chiếc chìa khoá” để hiểu toàn bộ lịch sử Ấn Độ cổ đại. Chính trong mô hình này đã làm phát sinh chủ yếu không phải là sự phân chia đối kháng giai cấp giữa chủ nô và nô lệ như ở Hy Lạp cổ đại, mà là sự phân biệt hết sức khắc nghiệt và giai dẳng của bốn đẳng cấp lớn trong xã hội: Tăng nữ, quí tộc, bình dân tự do và tiện nô (nô lệ). Thêm vào đó người Ấn Độ cổ đại đã tích luỹ được những tri thức rất phong phú về các lĩnh vực toán học thiên văn, lịch pháp nông nghiệp v.v… Tất cả những yếu tố tự nhiên, kinh tế, chính trị và tri thức nói trên đã hợp thành cơ sở hiện thực cho sự phát triển những tư tưởng triết học – tôn giáo Ấn Độ cổ đại.
Triết học Ấn Độ cổ đại chia làm hai giai đoạn:
Giai đoạn thứ nhất: (Từ giữa thiên niên kỷ III tr.CN đến khoảng giữa thiên niên kỷ II tr.CN). Đây là giai đoạn thường được gọi là “Nền văn hoá Harappa” (hay nền văn minh sống Ấn) – Khởi đầu của nền văn hoá Ấn Độ, mà cho tới nay người ta còn biết quá ít về nó ngoài những tư liệu khảo cổ học vào những thập kỷ đầu thế kỷ XX.
Giai đoạn thứ hai: (Tiếp nối giai đoạn thứ nhất tới thế kỷ thứ VII tr.CN). Đây là thời kỳ có sự thâm nhập của người Arya (gốc Ấn- Âu) vào khu vực của người Dravida (người bản địa). Đây là sự kiện quan trọng về lịch sử, đánh dấu sự hoà trộn giữa hai nền văn hoá -tín ngưỡng của hai chủng tộc khác nhau. Chính qúa trình này đã làm xuất hiện một nền văn hoá mới của người Ấn Độ: nền văn hoá Véda.
Giai đoạn thứ ba: Trong khoảng 5 – 6 thế kỷ (Từ thế kỷ thứ VI tr.CN tới thế kỷ I tr.CN) đây là thời kỳ Ấn Độ cổ đại có những biến động lớn cả về kinh tế, chính trị, xã hội và tư tưởng, cũng là thời kỳ hình thành các trường phái triết học – tôn giáo lớn. Đó là 9 hệ thống tư tưởng lớn, được chia làm hai phái: chính thống và không chính thống. Thuộc phái chính thống có Sàmkhuy, Mimasa, Védanta. Yoga, Nỳaya và Vasêsika. Thuộc phái không chính thống có Jaina, Lokayata và Phật giáo (Buddha).
Triết học Ấn Độ có nhiều nét đặc thù về tư tưởng. So với các nền triết học cổ đại khác, nền triết học Ấn Độ biểu hiện ra là một nền triết học chịu ảnh hưởng lớn của những tư tưởng tôn giáo. Trừ trường phái Lokayata, các trường phái còn lại đều có sự thống nhất giữa tư tưởng triết học và những tư tưởng tôn giáo. Ngay cả hai trường phái: Jaina và Phật giáo, tuy tuyên bố đoạn tuyệt với truyền thống văn hóa Véda (truyền thống tôn giáo) nhưng trong thực tế nó vẫn không thể vượt qua truyền thống ấy. Tuy nhiên tính tôn giáo của Ấn Độ cổ đại có xu hướng “hướng nội” mà không phải “hướng ngoại” như nhiều tôn giáo phương Tây. Cũng bởi vậy, xu hướng chú giải và thực hành những vấn đề nhân sinh quan dưới góc độ tâm linh tôn giáo nhằm đạt tới sự “giải thoát” là xu hướng trội của nhiều học thuyết triết học – tôn giáo Ấn Độ cổ đại.
Đó chỉ là những nét đặc thù của tư tưởng triết học Ấn Độ cổ đại trong tương quan so sánh với các nền triết học cổ đại khác, cái làm nên thiên hướng riêng của nó. Còn về nội dung tư tưởng, nền triết học Ấn Độ cũng giống như nhiều nền triết học cổ đại khác, nó đã đặt ra và giải quyết nhiều vấn đề về triết học: Bản thể luận, nhận thức luận v.v…
Chúng ta đi xét những đặc điểm triết học cơ bản của trường phái Phật giáo. Phật giáo là một trường phái triết học – tôn giáo điển hình của nền tư tưởng ấn Độ cổ đại và có nhiều ảnh hưởng rộng rãi, lâu dài trên phạm vi thế giới. Ngày nay với tư cách là một tôn giáo, Phật giáo là một trong ba tôn giáo lớn nhất trên thế giới. Người sáng lập Phật giáo là Thích – Đạt - Đa, vào khoảng thế kỷ thứ V Itr.CN. Sau này ông được tôn xưng với nhiều danh hiệu khác nhau: Như Lai, Phật Tổ, Đức Thế Tôn … nhưng khá phổ biến là “Thích Ca Mu ni” (Sakyamuni – nghĩa là “bộc hiền giả dòng Sakya”). Sau Sakyamuni một vài thế kỷ, Phật giáo được phân chia thành tông phái lớn là tiểu thừa giáo và đại thừa giáo (nghĩa là“cỗ xe nhỏ” và “cỗ xe lớn”). Tiểu thừa giáo phát triển về phía Nam Ấn Độ rồi truyền bá sang Xêrilanca, Philippin, Lào, Campuchia, Nam Việt Nam … Đại thừa giáo phát triển mạnh ở Bắc Ấn Độ, truyền bá vào Tây Tạng, Trung Hoa, Nhật Bản, Bắc Việt Nam … Kinh điển của Phật giáo gồm: Kinh – Luật – Luận (gọi là “Tam tạng” – tức “ba kho kinh điển”). Mà về mặt triết học thì quan trọng nhất là “kinh” và “luận”.
Những tư tưởng triết học cơ bản của Phật giáo Ấn Độ cổ đại gồm những vấn đề lớn sau:
Thứ nhất: Thế giới quan Phật giáo là một thế giới quan có tính duy vật và vô thần, đồng thời có chứa đựng nhiều yếu tố biện chứng sâu sắc.
Tính duy vật và vô thần thể hiện rõ nét nhất ở quan niệm về tính tự thân sinh thành, biến đổi của vạn vật, không do sự chi phối quyết định của một lực lượng thần linh hay thượng đế tối cao nào. Trái lại vạn vật đều tuân theo tính tất định và phổ biến của luật nhân – quả. Điều này được quán triệt trong việc lý giải những vấn đề của cuộc sống nhân sinh như: Hạnh phúc, đau khổ, giàu nghèo, thọ, yểu …
Tính biện chứng sâu sắc của triết học Phật giáo đặc biệt thể hiện rõ qua việc luận chứng về tính chất “vô ngã” và “vô thường” của vạn vật:
Phạm trù “vô ngã” bao hàm tư tưởng cho rằng, vạn vật trong vũ trụ vốn không có tính thường hằng nó chỉ là sự “giả hợp” do sự hội đủ nhân duyên nên thành ra “có” (tồn tại). Vô ngã tức là không có cái ta. Thực ra làm gì cũng có cái ta trường tồn, vĩnh cữu vì cái ta nó biến đổi không ngừng, biến chuyển từng phút, từng giờ. Một câu hỏi được đặt ra vậy cái ta ở giây phút nào là cái ta chân thực, cái ta bất biến? Cái ta mà Phật nói trong thuyết vô ngã gồm có hai phần:
Cái ta sinh tức thân.
Cái ta tâm lý tức tâm.
Theo kinh Trung Quốc Ahàm, cái ta sinh lý chỉ là kết hợp của bốn yếu tố của bốn đại là: địa , thuỷ, hoả , phong.
Địa đại là cái đặc cứng như tóc, răng, móng chân, móng tay, da , thịt, các cơ, xương, tủy, tim gan, thận,...
Thủy đại là những chất lỏng như mật ở trong gan, máu, mồ hôi, bạch huyết, nước mắt,...
Hoả đại là những rung động của cơ thể như hơi thở, chất hơi ở trong dạ dầy, ở ruột.
Những thứ đó không phải là ta, ta không phải là nhưng thứ đó, những thứ đó không thuộc về ta.
Cái mà ta gọi là cái ta sinh lý chỉ là một khoảng không gian giới hạn bởi sự kết hợp của da thịt, cũng như cái mà ta gọi là túp lều chỉ khoảng không gian giới hạn bởi gỗ, tranh, bùn để trát vách mà thôi.
Tứ đại (địa, thuỷ, hoả, phong) nêu trên thoáng là của ngoại cảnh, thoáng là của ta. Vậy thực sự nó là của ai ? Vả lại khi bốn yếu tố này rời nhau trở về thể của nó thì không có gì ở lại để có thể gọi là cái ta được nữa. Cho nên cái mà ra gọi là cái ta sinh lý chỉ là một giả tưởng, một nhất hợp sinh lý mà thôi.
Còn cái ta tâm lý gồm : thụ, tưởng, hành, thức. Bốn ấm này cùng với sắc ấm che lấp trí tuệ làm cho ta không nhận thấy được cái ta chân thực cái ta Phật tính, cái chân ngã của chúng ta. Cái chân lý gồm những nhận thức, cảm giác, suy tưởng, là sự kết hợp của thất tỉnh: Hỷ, nộ, ai, lạc, ái , nỗ, dục.
Thuyết vô ngã làm cho người ta không còn ai tin là có một linh hồn vĩnh cửu, tồn tại kiếp này sang kiếp khác, đời này qua đời khác. Sự tin có một linh hồn dẫn dắt đến sự cúng tế linh hồn là hành động của sự mê tín.
Quan niệm có một linh hồn bất tử, một cái ta vĩnh cửu là nguồn gốc sinh ra những tình cảm, những tư tưởng ích kỷ, những tham dục vô bờ của những kẻ dựa vào sức mạnh phi nghĩa để làm lợi cho mình, tức là cho cái ta mà họ coi là thường còn, bất biến. Còn đối với những người bị hà hiếp, bị bóc lột thì sự mê tín có cái ta vĩnh cửu dẫn đến tư tưởng tiêu cực, chán đời phó mặc cho số mệnh, hy vọng làm lại cuộc đời ở kiếp sau.
Phạm trù “vô thường” gắn liền với phạm trù “vô ngã”. Vô thường là không thường còn, là chuyển biến thay đổi. Luật vô thường chi phối vũ trụ, vạn vật, thân và tâm ta. Sự vật luôn luôn biến đổi không có gì là thường trụ, bất biến. Với ngũ quan thô thiển của ta, ta lầm tưởng sự vật là yên tĩnh, là bất động nhưng thật ra là nó luôn luôn ở thể động, nó chuyển biến không ngừng. Sự chuyển biến ấy diễn ra dưới hai hình thức:
Hình thức Sátna (Kshana) vô thường: là một sự chuyển biến rất nhanh, trong một thời gian hết sức ngắn, ngắn hơn cả một nháy mắt, một hơi thở, một niệm, một sự chuyển biến vừa khởi lên đã chấm dứt. Phật dùng danh từ Satna để chỉ một khoảng thời gian hết sức ngắn.
Hình thức nhất kỳ vô thường: Là sự chuyển biến trong từng giai đoạn. Sự vô thường thứ nhất là trạng thái chuyển biến nhanh chóng, liên tiếp, ngắn ngủi, thường là ta không nhận ra mà kết quả là gây ra sự vô thường thứ hai. Nhất kỳ vô thường là trạng thái chuyển biến rõ rệt, kết thúc một trạng thái cũ, chuyển sang một trạng thái mới. Vạn vật trong vũ trụ đều tuân theo luật: Thành - Trụ - Hoại - Không.
Vạn vật được cấu thành, trụ một thời gian, sau đó chuyển đến diệt, thành, hoại, không.
Các sinh vật đều tuân theo luật: Sinh, trụ, di, diệt.
Một hành tinh, một ngôi sao có thời kỳ vũ trụ kéo dài hàng triệu năm, một cây có thể trụ hàng ngàn năm, một sinh vật có thể trụ được hàng trăm năm, bông hoa phù dung chỉ trụ trong một ngày - sớm nở, chiều tàn. Xung quanh ta sự vật chuyển biến không ngừng. Theo luật vô thường, thì “có có” – “không không” luân hồi bất tận: “thoáng có”, “thoáng không” cái còn mà chẳng còn, cái mất mà chẳng mất. Không phải khi sinh ra mới gọi là sinh, khi vạn vật diệt mới gọi là diệt mà từng phút, từng dây, từng Satna, vạn vật sống để mà chết và chết để mà sống. Sống, chết tiếp diễn liên tục với nhau bất tận như một vòng tròn.
Không những thân ta chuyển biến không ngừng mà tâm ta cũng không ngừng chuyển biến. Như dòng nước thác, như bọt bể, trong Satna này, trong tâm ta nổi lên một ý niệm thiện, chỉ trong Satna sau, trong tâm ta đã có thể khơi lên một ý niệm ác. Tâm ta luôn luôn chuyển biến như thế Phật gọi là tâm phan duyên. Trong kinh Thủ năng Nghiệm quyển một Phật gọi cái tâm phan duyên ấy là cái tâm biết cái này, nghĩ cái khác, cái tâm vọng động do duyên với tiền trần mà có, theo cách trần mà luôn luôn thay đổi, chuyển biến mà không Satna nào ngừng.
Không những tâm, thân ta chuyển biến mà các hình thái xã hội theo thời gian cũng chuyển biến: Xã hội công xã nguyên thuỷ --> Xã hội chiếm hữu nô lệ --> Xã hội phong kiến --> Xã hội tư bản --> Xã hội XHCN. Đó là quy luật xã hội và cũng không phù hợp với thuyết vô thường của Đạo Phật.
Thuyết vô thường là một trong những thuyết cơ bản trong giáo lý Phật, là cơ sở của lý luận cho phương thức sống, cho triết lý sống của những con người tu dưỡng theo giáo lý phật.
Trong thế gian có những người không biết lý vô thường của Phật, có những nhận thức sai lầm về sự vật là thường còn, là không thay đổi, không chuyển biến. Nhận thức sai lầm như thế phật giáo gọi là ảo giác hay huyễn giác. Vì nhận thức thân ta là thường còn nên nảy ra ảo giác muốn kéo dài sự sống để hưởng thụ, để thoả mãn mọi dục vọng. Khi luật vô thường tác động đến bản thân thì sinh ra phiền não đau khổ.
Ngược lại, nếu thấu lý vô thường một cách nông cạn, cho chết là hết, đời người ngắn ngủi, phải mau mau tận hưởng những thú vui vật chất, phải sống gấp, sống vội. Cuộc sống như thế là sống trụy lạc, sa đọa trong vũng bùn của ngũ dục, sống phiền não đau khổ trước sự chuyển biến của sự vật, trước sự sinh- trụ, dị diệt, trước sự thành, trụ hoại không nó diễn ra hàng ngày.
Hai phạm trù vô thường, vô ngã là hai phạm trù cơ bản trong giáo lý Phật. Chấp ngã chấp có cái ta thường còn là nguồn gốc của vô minh mà vô minh là đầu mối của luân hồi sinh tử, sinh ra đau khổ cho con người. Căn cứ trên hai thuyết vô thường và vô ngã Phật đã xây dựng cho đệ tử một phương thức sống, một triết lý sống lấy vị tha làm lý tưởng cao cả cho cuộc sống của mình, hay nói một cách khác một cuộc sống một người vì mọi người, mọi người vì một người.
Thứ hai là Nhân sinh quan Phật giáo đây là phần trọng tâm của triết học này. Cũng như nhiều trường phái khác của triết học Ấn Độ cổ đại, Phật giáo đặt vấn đề tìm kiếm mục tiêu cứu cánh nhân sinh ở sự “giải thoát” (Moksa) khỏi vòng luân hồi, nghiệp báo để đạt tới trạng thái tồn tại Niết bàn (Nirvana). Tính quần chúng của luận điểm nhân sinh Phật giáo thể hiện ở chỗ nêu cao tinh thần “bình đẳng giác ngộ”, tức là quyền thực hiện sự giải thoát là cho tất cả mọi người mà cao hơn nữa là của mọi “chúng sinh”. Điều này mang tính nhân bản sâu sắc, vượt qua giới hạn đẳng cấp khắc nghiệt vốn là một truyền thống chính trị Ấn Độ cổ đại. Nó nói lên khát vọng “tự do cho tất cả mọi người”, không thể là độc quyền của một đẳng cấp nào, dù đó là đẳng cấp tăng lữ hay quý tộc, bình dân hay tiện nô.
Vậy thì đối với nhân sinh quan Phật giáo: Con người là gì? Từ đâu mà sinh ra? Chết rồi đi đâu? Vị trí của con người trong Đạo Phật như thế nào? Quan niệm của Phật về các vấn đề: bình đẳng, tự do, dân chủ.... ra sao? Có phải cuộc sống chỉ toàn là đau khổ? và vấn đề giải thoát trong Đạo Phật là gì?
Trước khi trả lời các câu hỏi trên chúng ta sẽ tìm hiểu và phân tích bốn luận điểm trong triết học nhân sinh của Phật giáo (gọi là “Tứ diệu đế”) - đây là giáo lý kinh điển của Phật giáo bao quát toàn bộ các vấn đề trên.
“Tứ diệu đế” hay còn gọi là tứ chân đế hay tứ thánh đế, là bài thuyết pháp đầu tiên của Phật. Tứ đế là đạo lý căn bản của Thanh Văn Thừa, đồng thời cũng là cơ sở của các thuyết khác trong giáo lý Phật. Tứ đế gồm có: Khổ đế, Tập đế, Diệt đế, Đạo đế:
Một là, Khổ đế - Trong tứ đế, Phật đưa ra đầu tiên vấn đề khổ, rồi giảng cho ta thấy vì sao mà khổ, phương pháp diệt khổ và con đường đi đến diệt khổ.
Nói như thế có người hiểu lầm cho rằng đạo Phật chủ trương cuộc đời chỉ toàn là khổ, và đạo Phật là đạo yếm thế. Thực ra, đạo Phật nhìn cuộc đời một cách khách quan, không ru người ta vào một giấc mơ Niết Bàn hay cực lạc và cũng không làm cho người ta sợ hãi, chán nản bởi những đau khổ trong cuộc sống. Phật chỉ cho chúng ta nhận thức sự vật, cuộc đời theo chân tướng của nó và chỉ dẫn cho chúng ta đi đến giải thoát.
Danh từ Dukkha của tiếng Xantít ta thường dịch là khổ là chưa thật hết nghĩa nên mới dẫn đến những hiểu lầm trên.
Trong phép tướng duy thức có nói đến ba loại thụ: khổ thụ, lạc thụ, xả thụ. Như vậy không phải chỉ có khổ thụ mà còn có lạc thụ. Đối với cảnh nghịch sinh ra khổ thụ nhưng đối với cảnh thuận thì sinh ra lạc thú. Các cảnh có thể làm cho người ta vui hoặc khổ hoặc không vui, không khổ. Đạo phật không phủ nhận những cảm giác vui (lạc thú ) của cuộc đời mà còn phân tích ra nhiều hình thức vui. Nhưng những cái vui ấy, cũng như những cái khổ ấy đều bao gồm trong danh từ Dukkha, vì những cái vui, cũng như những cái khổ ấy đều là vô thường hư giả.
Dù người tu hành chứng được những trạng thái thiền định cao siêu thì những lạc thú siêu thoát ấy vẫn là Dukkha vì những người tu hành ấy chưa thoát khỏi tam giới vô thường, hư giả.
Khổ thụ và lạc thụ đều là Dukkha cả, do đó chúng ta phải diệt là diệt cái Dukkha ấy chứ không phải là tránh khổ, tìm vui như thế gian thường hiểu, thường lầm.
Theo cách phân tích khác Phật chia cái khổ ra làm 8 loại:
1, Sinh khổ: Đã có sinh là có khổ vì đã sinh nhất định có diệt, bị luật vô thường chi phối nên khổ.
2, Lão khổ: người ta mong muốn trẻ mãi nhưng cái già theo thời gian vẫn cứ đến. Cái già vào mắt thì mắt bị mờ đi, cái già vào lỗ tai thì tai bị điếc, vào da, xương tủy thì da nhăn nheo, xương tủy mệt mỏi. Cái già tiến đến đâu thì suy yếu đến ấy làm cho người ta phiền não.
3, Bệnh Khổ: Trong cuộc sống, thân thể thường ốm đau, nhất là khi già yếu, thân thể suy nhược, bệnh tật dễ hoành hành làm cho người ta đau khổ.
4, Tử khổ : Là cái khổ khi người ta chết. Chứng sinh do nghiệp báo chịu cái thân nào thì gắn bó với cái thân ấy coi như cái thân duy nhất của mình thì khi chết thì phiền não vô cùng.
5, Cầu bất đắc khổ: Người ta thường chạy theo những điều mình ưa thích, mong cầu hết cái này đến cái khác. Khi chưa cầu được thì phiền não, khi cầu được rồi thì phải lo giữ nó, nếu nó mất đi thì lại luyến tiếc.
6, Ái biệt ly khổ: nỗi khổ khi phải chia ly.
7, Oán tăng hội khổ: những điều mình chán ghét thì nó cứ tiến đến bên mình.
8, Ngũ ấm xí thịnh khổ: ngũ ấm ấy là sắc ấm, thụ ấm, tưởng ấm, hành ấm, thức ấm. Ngũ ấm ấy che lấp trí tuệ, phải chịu cái khổ luân hồi trong vô lượng kiếp.
Hai là, Tập đế - Tập đế còn gọi là nhân đế, là những nguyên nhân tạo thành sự khổ. Những nguyên nhân đó không phải tìm đâu xa mà ở ngay trong mỗi chúng ta. Nguyên nhân thì có nhiều nhưng có thể tóm lại như sau:
Tham lam.
Giận dữ.
Si mê.
Kiêu mạn.
Nghi ngờ.
Thân kiến ( tưởng thân thể là thực có là trường tồn).
Biên kiến ( sự hiểu biết một mặt như chấp đoạn, chấp thưởng ).
Tà kiến ( sự hiểu biết không đúng ).
Kiến thử ( chấp trí hiểu biết của riêng mình là đúng).
Giới cấm tu ( tu hành không chính đạo ).
Ba nguyên nhân chính (tham, sân, si) Phật còn gọi là tam độc, là nguồn gốc của mọi sự khổ. Nguyên nhân của tam độc là do ái dục và vô minh được thể hiện trong công thức sau:
Nghiệp
Ái dục + Vô minh ® Sự khổ.
Ái dục: là tham ái, yêu thích do cảm thụ đi đến suy đắm trước những cảnh yêu thích, vừa lòng, chán ghét cảnh trái ý. Vì say đắm với những cảnh nên rong ruổi theo cảnh, bám lấy cảnh hình thành nên tham vọng và ước muốn.
Vô minh: là mê lầm, không sáng suốt. Đối với những hiện tượng trụ không nhận rõ chân tướng, thực tướng của nó là sự chuyển biến không ngừng, là vô thường mà lại lầm tưởng các hiện tượng đó là thực có, là thường còn. Vô minh che lấp ta không nhận thấy được chân tâm mà luôn luôn chạy theo vọng tâm, làm ta thấy có thân, có cảnh, có ta, có người của ta và thấy quý thân ta, không quan tâm đến người sống quanh ta.
Nghiệp là những hoạt động về thân thể, về lời nói ý nên Phật gọi là thân nghiệp, khẩu nghiệp và ý nghiệp.
Kết quả của hành động ấy gọi là nghiệp báo. Không phải hoạt động nào của ta cũng gây nghiệp báo. Những việc như : đi, đứng, nhìn, ngồi,... thì không gây nghiệp báo.
Nghiệp có hai loại: Nghiệp thiện và nghiệp ác.
Nghiệp thiện : là những việc có lợi cho người và đem lại quả báo tốt cho mình.
Nghiệp ác: là những việc làm hại cho ngươi và đem lại quả báo xấu cho mình.
Như vậy, Phật đặt số mệnh của con người trong chính tay họ. Tự con người đã gây nên nỗi khổ cho mình. Do đó, Phật đưa ra lý thuyết thập nhị nhân duyên để thấy được nguồn gốc của sự vật trong thế gian. 12 nhân duyên là sợi dây liên tục nối tiếp con người trong vòng sinh tử luân hồi đó là:
1.Vô minh 5. Lục nhập 9. Thù
2.Hành 6. Xác 10. Hữu
3.Thức 7.Thụ 11.Sinh
4.Danh sắc 8.Ái 12. Lão tử.
Tập đế là một chân lý thể hiện tính biểu chứng sâu sắc trong mối quan hệ nhân quả và đã tìm tới các nguyên nhân rất đa dạng, phong phú. Các nguyên nhân ấy quan hệ với nhau, cái nào cũng có thể làm nhân làm duyên cho cái khác, như làn sóng trên mặt biển, lớp trước là lớp nhân là duyên cho lớp sau và cứ thế tiếp diễn. Nhưng cái hạn chế của tập đế là chưa đề cập đến nguyên nhân từ xã hội. Đặc biệt là chưa nhắc tới quan hệ giai cấp, bóc lột trong xã hội. Luận điểm này thể hiện rõ từ trào hướng nội hướng nội trong nhận thức luận Phật giáo.
Ba là, Diệt đế - Diệt đế là tích quả Niết bàn do thực hành tịnh nghiệp mà đạo đế mang lại.
Diệt đế là trừ diệt sự khổ để đi đến chỗ an lạc là chỗ kết nghiệp đã hết không còn luân hồi sinh tử nữa.
Có tịnh nghiệp tất sinh tịnh quả. Ấy là khi diệt đế vọng niệm không còn khởi lên, tâm hồn luôn an trụ trong cảnh vắng lặng là do cảnh giới Niết Bàn.
Niết Bàn có bốn đặc điểm: Thường - Lạc - Ngã - Tịnh.
Thường là thường còn, không biến đổi.
Lạc là an lạc, giải thoát hết phiền não, thâm tâm tự tại.
Ngã là chân ngã, chân thực, thường còn.
Tịnh là thanh tịnh, trong sạch không còn ô nhiễm.
Niết Bàn là sự chấm dứt mọi phiền não được thực hiện không phải ở một nơi nào khác, một cõi nào khác mà thực hiện ngay trong cõi thế gian này, nhờ sự tu hành nghiêm túc mang lại cho ta mọi trạng thái tinh thần đặc biệt: Trạng thái an lạc, siêu thoát, tịnh diệt.
Phật dạy rằng: khi môn đệ làm cho lòng mình sạch hết tham lam, nóng giận và si mê thì môn đệ đã đến được bến giác, tức là cảnh giới Niết Bàn. Do đó, con người phải dày công tu dưỡng, xoá bỏ được lửa dục, lửa sân, lửa si mê để chứng được cảnh giới Niết Bàn ngay trong cõi đời hiện tại.
Bốn là, Đạo đế - Đạo đế là con đường, là môn pháp hướng dẫn cho chúng sinh đạt được đến quả giải thoát, ra khỏi luân hồi sinh tử.
Pháp môn tu dưỡng ra khỏi luân hồi sinh tư rất nhiều, nhưng thường được đề cao là phương pháp 37 đạo phẩm.
Phương pháp này gồm có:
Tứ niệm xứ
Tứ chính cần
Tứ như ý túc
Ngũ cân
Ngũ lực
Bát chính đạo
Thất giác
Trong 37 đạo phẩm, bát chính đạo là quan trọng nhất. Nó là con đường giúp người ta thoát khỏi phiền não, đau khổ đi tới cảnh giới Niết Bàn tự tại, an lạc. Bát chính đạo gồm có:
Chính ngữ : là tu nghiệp thanh tịnh, không phát ra lời nói sai trái.
Chính nghiệp: hành động chân chính, mang lại lợi ích cho mọi người.
Chính mệnh: sống bằng nghề nghiệp chân chính.
Chính tịnh tiến : tiến tới trên con đường đạo, không đi vào các đường tà.
Chính niệm: tâm trí luôn luôn nghĩ đến đạo lý vô ngã, diệt trừ những kiến chấp mê lầm, đoạt trừ những tư tưởng, hành động bất chính.
Chính định : Giữ tâm vắng lặng không một vọng niệm khởi lên để trí tuệ xuất hiện, chứng quả tu đà hoàn.
Chính kiến : kết quả của việc sống, tư duy con người phải có ý biến lấy tiêu biểu là các vị Phật.
Chính tư duy: Sau khi có niệm khởi, con người sẽ tư duy, suy nghĩ một cách chân chính, làm chủ được dòng tư duy.
Để đi qua tám con đường trên thì không ngoài ba nguyên tắc: giới, định, tuệ hay còn gọi là tam học. Các nguyên tắc này có sự liên hệ mật thiết bổ xung cho nhau:
Nguyên tắc thứ nhất là Giới học: là cả một thiên luân lý thực hành của Đạo Phật, mục đích để kiềm chế rồi đi đến diệt lục. Giới gồm những phương tiện để thay đổi lối suy nghĩ, lối sinh hoạt hàng ngày của con người, hướng con người sống theo đạo, thích hợp với đạo, tức là luôn hướng về thiện .
Phật chỉ định ra nhiều giới đạo cho người tu hành tại gia, tu xuất gia, cho nam giới, nữ giới, cho người mới vào đạo và người tu lâu ngày. Người tu hành phải giữ giới nghiêm túc thì mới định được. Nếu không giữ được tất con người luôn bị vọng dộng, bị cảnh chuyển, không vào cảnh định được.
Nguyên tắc thứ hai là Định học là đình chỉ mọi tư tưởng xấu ý nghĩa xấu nguyên nhân phát sinh những hành động xấu đi đến gây nghiệp báo xấu. Định còn là tập trung tư tưởng, suy nghĩ làm những việc lành, từ đó nảy sinh một trạng thái an lạc, tạo điều kiện cho tuệ phát ra.
Nguyên tắc thứ ba là Tuệ học : là trí tuệ sáng suốt của người tu hành đã diệt được dục vọng, đã diệt được tam độc là tham, sân, si, đã thấu được lý vô thường, vô ngã do đó chỉ nghĩ đến làm điều thiện, mưu lợi cho chúng sinh.
Với pháp tứ diệu đế Phật muốn cho chúng sinh thấy 2 cảnh giới khác nhau là Niết Bàn và Thân Lụy: một con đường giác ngộ, an lạc và một con đường mê lầm tội lỗi. Và cùng phương pháp tứ diệu đế, bây giờ chúng ta có thể trả lời được các câu hỏi đã đặt ra ở trên.
Ta có thế thấy trong quan điểm nhân sinh của Phật giáo thì con người là sự kết hợp của ngũ uẩn( sắc, thụ, tưởng, hành, thức) gồm hai yếu tố chính: yếu tố sinh lý( sắc) và yếu tố tinh thần ( thụ, tưởng, hành, thức).
Yếu tố tinh thần chỉ phát huy tác dụng khi nó được gắn với một thân thể. Sắc thân chỉ tồn tại trong một thời gian rồi bị huỷ diệt.
Như vậy, con người chỉ là một giả hợp sinh lý tuân theo quy luật: sinh, tục, dị, diệt.Con người là do nhân duyên hoà hợp, không có một đấng tối thượng siêu nhiên tạo ra con người cũng như con người không phải tự nhiên mà sinh ra. Khi nhân duyên hoà hợp thì con người sinh, khi nhân duyên tan rã thì con người chết. Song chết chưa phải là hết, linh hồn cũng không bất tử chuyển từ kiếp này sang kiếp khác. Con người ở kiếp này sinh ra thì con người ở kiếp trước diệt, nhưng con người ở kiếp sau không phải là con người ở kiếp trước nhưng cũng không khác với con người ở kiếp trước. Con người không phải là một thực thể trường tồn mà chỉ là một giả hợp của ngũ uẩn. Trong thời gian ngũ uẩn kết hợp, các việc thiện, ác được thực hiện. Con người gây nghiệp và tạo ra một động lực làm xuất hiện nghiệp báo ở kiếp sau.
Từ nhận thức trên, con người tu Phật lúc nào cũng phải cẩn thận trong một ý nghĩ, lời nói việc làm.
Nhân vị trong Đạo phật thế nào? Có thể thấy đạo Phật là đạo chủ trương tự do, bình đẳng, từ bi, bác ái. Ở một thời đại cổ xưa cách chúng ta trên 25 thế kỷ Phật đã có một quan niệm hết sức tiến bộ đối với vấn đề bình đẳng trong xã hội. Phật đã từng nói:
“ Không có đẳng cấp trong dòng máu đỏ như nhau, trong dòng nước mắt cũng mặn như nhau. Mỗi người sinh ra không phải ai cũng mang sẵn dây chuyền ở cổ hay dấu tica trên trán ( dấu hiệu đẳng cấp của Ấn Độ ) ”.
Và những quan niệm đó được Phật thực hiện ngay trong giáo hội của mình. Phật thu nạp vào giáo hội của Người tất cả mọi đẳng cấp, không phân biệt sang hèn, giàu nghèo. Những người ở tầng lớp dưới sau khi tu đắc đạo đã được các đệ tử khác tôn trọng, cho đến các vua quan khi đến thăm hỏi cũng phải tỏ lòng kính mến.
Không dừng lại ở sự bình đẳng giữa con người với con người mà Phật còn đi xa hơn, nêu lên sự bình đẳng giữa các chúng sinh đều có Phật tính như nhau và đang cùng nhau: người trước, vật sau, tiến bước trên con đường giải thoát.
Tự do theo quan niệm của Phật là con người sống trong an lạc, giải thoát, không có áp bức, nô lệ, cũng không bị chi phối bởi ngũ dục. Con người bị ràng buộc bởi ngoại cảnh và một phần bởi nội tâm. Những sự áp bức, những day dứt gây ra bởi dục vọng còn khắc nghiệt bằng vạn ngoại cảnh. Nhà lao, cường quyền, tham nhũng, tàn ác còn chưa khắc nghiệt bằng cái ta ích kỷ. Từ đó, Phật chú trọng đến giải phóng con người ra khỏi xiềng xích của dục vọng bằng phương pháp tu hành diệt dục. Để sống tự do phật tử phải đấu tranh với bản thân mình để diệt trừ dục vọng và đấu tranh để chống mọi sự áp bức bất công.
Người ta gọi đạo phật là đạo từ bi, người tu hành là người giàu lòng từ bi.
Từ là hiền hoà, cho vui.
Bi là thương xót, cứu khổ.
Từ bi là đen lại an lạc, hạnh phúc cho người khác, cứu khổ, cứu nạn cho chúng sinh, quên đi mọi ích lợi của bản thân mình. Nhưng từ bi không phải là thủ tiêu mọi sự đấu tranh, giữ thái độ tiêu cực, thụ động trước mọi sự bất công, áp bức, tham nhũng. Có sức mạnh hung bạo thì phải có sức mạnh của từ bi để chống lại. Sức mạnh đó thể hiện bằng sự giáo hoá và bằng cả bạo lực, bạo lực từ bi.
Hai chữ từ bi càng đẹp biết bao nhiêu đối với những con người thực tâm tu luyện thì càng xấu xa bao nhiêu đối với những kẻ lợi dụng đạo để mưu cầu lợi ích cho mình. Vấn đề giải thoát là vấn đề cơ bản trong đạo Phật vì mục đích cuối cùng của đạo Phật là giải thoát con người khỏi cuộc sống đau khổ trong vô minh.
Sự giải thoát không chỉ nhằm đấu tranh chống những áp bức về xã hội về kinh tế như lịch sử Phật giáo đã chứng minh mà sự giải thoát nhằm tiêu diệt tận gốc mọi đau khổ là tham lam và dục vọng. Việc giải phóng này là con người phải tự lực đảm nhiệm, không ai có thể làm thay được và mỗi người phải coi sự giải thoát là cứu cánh cuối cùng của cuộc đời.
Như vậy, Đạo Phật đã đặt con người lên một vị trí hết sức quan trọng và cao quý. Hạnh phúc của con người là do con người xây đắp nên. Con người thấm nhuần giáo lý Phật, con người vị tha, từ bi, hỉ, xả sẽ kiến lập một xã hội hoà bình, an lạc, công bằng, mọi người sống vì lợi ích của nhau, của tập thể.
Trái lại, con người ích kỷ chỉ biết mình, hại người, con người sống tàn bạo, độc ác thì cái gì trong tay con người cũng sẽ trở thành khí cụ sát hại và xã hội của những con người ấy là xã hội của địa ngục, xã hội áp bức bóc lột.
Có thể thấy, trong giai đoạn đầu, thế giới quan nhân duyên của Phật giáo đã có những yếu tố duy vật và biện chứng tự phát. Về lĩnh vực chính trị - xã hội, đạo Phật là tiếng nói phản kháng chế độ đẳng cấp khắc nghiệt, tố cáo chế độ xã hội bất công, đòi tự do tư tưởng và bình đẳng xã hội, nêu lên ước nguyện giải thoát con người khỏi nỗi bi kịch cuộc đời, khuyên người ta sống đạo đức, từ bi bác ái. Đó là những ưu điểm của triết lý Phật giáo. Tuy nhiên trong luận thuyết về nhân sinh và con đường giải thoát, tư tưởng Phật giáo vẫn còn hạn chế, mang nặng tính bi quan, yếm thế về cuộc sống, chủ trương "xuất thế", "siêu thoát" có tính duy tâm, không tưởng về những vấn đề xã hội.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- BX069.DOC