KẾT LUẬN
Qua phân tích nêu trên cho thấy, hoạt
động chứng minh của luật sư trong tố
tụng hình sự là hoạt động thực hiện
chức năng bào chữa để nhận thức về
sự thật của vụ án, tuân thủ pháp luật
và quy chế trách nhiệm nghề nghiệp,
mang tính độc lập, tự chịu trách
nhiệm cá nhân. Cơ sở phát sinh hoạt
động chứng minh của luật sư là sự
buộc tội và hoạt động này bắt đầu từ
khi có sự buộc tội cho đến khi bản
án, quyết định của Tòa án có hiệu lực
pháp luật. Nội dung hoạt động chứng
minh của luật sư được thực hiện dựa
trên cơ sở quyền và nghĩa vụ của
người bào chữa thông qua các hoạt
động thu thập, kiểm tra, đánh giá
chứng cứ để chứng minh về sự vô tội
hoặc giảm nhẹ trách nhiệm hình sự
cho người bị buộc tội, góp phần làm
sáng tỏ sự thật khách quan của vụ
án. Hoạt động chứng minh của luật
sư chịu sự tác động, chi phối bởi
chức năng bào chữa và phạm vi buộc
tội của cơ quan tiến hành tố tụng.
Ngoài ra, hoạt động này có mối quan
hệ gắn bó với một số nguyên tắc của
tố tụng hình sự, đặc biệt là nguyên
tắc tranh tụng và nguyên tắc suy
đoán vô tội. Hoạt động chứng minh
của luật sư bào chữa mang tính phản
biện, đối trọng với hoạt động chứng
minh của bên buộc tội nhằm bảo đảm
sự cân bằng giữa lợi ích công, quyền
con người, quyền công dân trong tố
tụng hình sự.
13 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 21/01/2022 | Lượt xem: 280 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đặc điểm về hoạt động chứng minh của luật sư trong tố tụng hình sự Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TẠP CHÍ KHOA HỌC XÃ HỘI số 3 (247) 2019
37
ĐẶC ĐIỂM VỀ HOẠT ĐỘNG CHỨNG MINH
CỦA LUẬT SƯ TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM
NGUYỄN VĂN MINH*
Chứng minh là hoạt động cơ bản, quan trọng nhất được thực hiện trong suốt
tiến trình tố tụng hình sự với sự tham gia của nhiều chủ thể tố tụng khác nhau
để xác định sự thật khách quan của vụ án. Hoạt động chứng minh của các chủ
thể thực hiện các chức năng cơ bản của tố tụng hình sự như chủ thể buộc tội,
bào chữa và xét xử có vai trò, vị trí và đặc điểm khác nhau. Hoạt động chứng
minh của luật sư trong tố tụng hình sự để thực hiện chức năng bào chữa, bảo vệ
quyền lợi cho người bị buộc tội. Bài viết phân tích một số đặc điểm về hoạt động
chứng minh của luật sư trong tố tụng hình sự, qua đó đặt ra một số vấn đề cần
khắc phục nhằm nâng cao hiệu quả bào chữa, góp phần làm sáng tỏ sự thật
khách quan của vụ án.
Từ khóa: luật sư, hoạt động chứng minh, tố tụng hình sự, bào chữa
Nhận bài ngày: 15/10/2018; đưa vào biên tập: 2/12/2018; phản biện: 15/1/2019;
duyệt đăng: 24/4/2019
1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Hoạt động chứng minh trong tố tụng
hình sự là quá trình hoạt động để
nhận thức về vụ án của các cơ quan,
người có thẩm quyền tiến hành tố
tụng, những người tham gia tố tụng
được thực hiện thông qua các hoạt
động thu thập, kiểm tra, đánh giá, sử
dụng chứng cứ theo trình tự, thủ tục
do pháp luật tố tụng hình sự quy định
để làm sáng tỏ sự thật khách quan
của vụ án, bảo đảm cho việc giải
quyết đúng đắn vụ án hình sự theo
quy định của pháp luật (Võ Khánh
Vinh, 2002).
Hoạt động chứng minh của luật sư là
một trong những bộ phận hợp thành
của quá trình chứng minh nên nó
mang đặc điểm chung của hoạt động
chứng minh trong tố tụng hình sự.
Hoạt động chứng minh trong tố tụng
hình sự nói chung và hoạt động
chứng minh của luật sư nói riêng là
quá trình nhận thức chân lý khách
quan về vụ án trên cơ sở phương
pháp luận về nhận thức của chủ nghĩa
duy vật biện chứng, theo quy luật
chung của quá trình nhận thức “Từ
trực quan sinh động đến tư duy trừu
tượng và từ tư duy trừu tượng đến
thực tiễn. Đó là con đường biện
chứng của nhận thức chân lý, của sự
nhận thức thực tại khách quan” (V.I.
Lênin, 1991: 179).
Trong quá trình hành nghề, luật sư có
thể tham gia tố tụng với nhiều tư cách
*
Đoàn Luật sư tỉnh Long An.
NGUYỄN VĂN MINH – ĐẶC ĐIỂM VỀ HOẠT ĐỘNG CHỨNG MINH
38
khác nhau để bào chữa, bảo vệ quyền
và lợi ích hợp pháp cho người bị buộc
tội. Tuy nhiên, trong phạm vi bài viết
này chúng tôi chỉ đề cập, nghiên cứu
luật sư với tư cách là người bào chữa
cho người bị buộc tội.
Hoạt động chứng minh của luật sư
phát sinh trên cơ sở thực hiện quyền
bào chữa của người bị buộc tội, khi
tham gia vào hoạt động tố tụng, luật
sư thực hiện quyền chứng minh của
mình bằng việc thu thập, đánh giá, sử
dụng chứng cứ để bào chữa cho
người bị buộc tội, đây là quyền chứ
không phải nghĩa vụ của người bào
chữa. Sự tham gia tích cực của luật
sư vào quá trình chứng minh không
chỉ để bảo vệ quyền lợi cho người bị
buộc tội, mà còn là sự phản biện cần
thiết đối với hoạt động chứng minh
của cơ quan buộc tội, giúp cơ quan
này cẩn trọng hơn để hạn chế những
sai lầm có thể làm oan cho người vô
tội, đồng thời sẽ là động lực thúc đẩy,
nâng cao chất lượng hoạt động điều
tra, truy tố, xét xử.
2. ĐẶC ĐIỂM VỀ HOẠT ĐỘNG CHỨNG
MINH CỦA LUẬT SƯ TRONG TỐ
TỤNG HÌNH SỰ
2.1. Hoạt động chứng minh của luật
sư dựa trên cơ sở pháp luật và quy
chế trách nhiệm nghề nghiệp, mang
tính độc lập, trung thực tôn trọng
sự thật khách quan, tự chịu trách
nhiệm cá nhân về hoạt động của
mình
Hoạt động nghề nghiệp luật sư, trong
đó có hoạt động chứng minh trong tố
tụng hình sự, đòi hỏi luật sư phải
tuyệt đối tuân thủ pháp luật và quy
chế trách nhiệm nghề nghiệp của
mình. Nguyên tắc hành nghề luật sư
được quy định như sau: “Tuân thủ
Hiến pháp và pháp luật; tuân theo
Quy tắc đạo đức và ứng xử nghề
nghiệp luật sư Việt Nam; độc lập,
trung thực, tôn trọng sự thật khách
quan; sử dụng các biện pháp hợp
pháp để bảo vệ tốt nhất quyền, lợi ích
hợp pháp của khách hàng; chịu trách
nhiệm trước pháp luật về hoạt động
nghề nghiệp luật sư” (Quốc hội nước
Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam,
2012: 133). Pháp luật về luật sư
được coi như là “hành lang” đối với
hoạt động của luật sư, còn quy chế
trách nhiệm nghề nghiệp luật sư như
là “khuôn mẫu chung” để điều chỉnh
hành vi ứng xử của luật sư, là chuẩn
mực, thước đo phẩm chất đạo đức
và trách nhiệm nghề nghiệp mà mỗi
luật sư phải rèn luyện để giữ gìn
thanh danh của mình xứng đáng với
sự tôn vinh của xã hội. Sự tác động
cộng hưởng qua lại giữa pháp luật và
các quy chế trách nhiệm nghề nghiệp
trong hoạt động hành nghề luật sư là
minh chứng cho mối quan hệ giữa
pháp luật và đạo đức với mục đích
điều chỉnh các hành vi trong xã hội.
Đối với nghề luật sư ngoài những đòi
hỏi về kiến thức và trình độ chuyên
môn, luật sư còn phải tuân thủ quy
tắc đạo đức và ứng xử nghề nghiệp
luật sư.
Hoạt động nghề nghiệp luật sư mang
tính độc lập trên cơ sở tuân thủ pháp
luật, đạo đức nghề nghiệp, tự quyết
định các hoạt động của mình mà
TẠP CHÍ KHOA HỌC XÃ HỘI số 3 (247) 2019
39
không phải chịu sự chi phối chủ quan
của bất kỳ cá nhân, tổ chức nào tác
động đến quan điểm bào chữa và
quyền tự do hành nghề của luật sư.
Tính độc lập là nét đặc thù của nghề
luật sư, là điều kiện giúp cho luật sư
phát huy trí tuệ, tài năng, kinh nghiệm
và bản lĩnh của mình ở mức cao nhất
để phục vụ cho khách hàng. Hoạt
động độc lập với cơ quan nhà nước là
cơ sở để luật sư bảo vệ quyền lợi cho
khách hàng, còn độc lập với khách
hàng là cơ sở để đảm bảo sự tuân thủ
pháp luật và quy tắc nghề nghiệp của
luật sư. Có thể nói, nghề luật sư là
nghề nghiệp của những người hoạt
động liên quan đến pháp luật, luật sư
không phải là công chức, không phải
là một chức vụ được bầu hay bổ
nhiệm, mà là một danh xưng được đặt
ra để thực hiện theo chức năng và sự
phân công của xã hội, luật sư với
phương thức hành nghề tự do, phải tự
chịu trách nhiệm cá nhân trong hoạt
động nghề nghiệp của mình, với mục
tiêu bảo vệ công lý, công bằng xã hội
dựa trên cơ sở pháp luật.
2.2. Hoạt động chứng minh của luật
sư trong tố tụng hình sự là hoạt
động thực hiện chức năng bào chữa
Chức năng bào chữa là một dạng
hoạt động tố tụng được pháp luật quy
định và bảo đảm cho bên bị buộc tội
được quyền bác bỏ sự buộc tội, kết tội
oan của cơ quan tiến hành tố tụng,
thông qua việc sử dụng chứng cứ và
lập luận để chứng minh về sự vô tội
hoặc giảm nhẹ trách nhiệm hình sự.
Chức năng bào chữa có vai trò, ý
nghĩa quan trọng để bảo vệ quyền con
người, quyền công dân trong tố tụng
hình sự, góp phần bảo vệ công lý,
giúp cho Tòa án giải quyết đúng đắn
vụ án trên cơ sở xác định sự thật
khách quan của vụ án. Mặt khác, hoạt
động chứng minh của luật sư thông
qua chức năng bào chữa còn góp
phần hạn chế sự lạm quyền và vi
phạm pháp luật của cơ quan công
quyền nhằm bảo vệ tốt nhất quyền lợi
cho người bị buộc tội.
Quyền chứng minh của luật sư phát
sinh từ quyền bào chữa của người bị
buộc tội. Vì vậy, chủ thể thực hiện
chức năng bào chữa có thể là người
bị buộc tội hoặc người bào chữa cho
họ. Chức năng bào chữa được thể
hiện thông qua hoạt động chứng minh
của luật sư và thông qua hoạt động
này để bảo đảm cho quyền bào chữa
của người bị buộc tội được thực thi
trong tố tụng hình sự. Hoạt động
chứng minh của luật sư là nhằm cụ
thể hóa quyền bào chữa của người bị
buộc tội và là biểu hiện rõ nét nhất
của thực hiện chức năng bào chữa.
Trong quá trình tố tụng, hoạt động
thực hiện chức năng bào chữa của
luật sư tồn tại đồng thời với hoạt động
chứng minh của chủ thể buộc tội như
một nhu cầu khách quan xuất phát từ
mục đích, nhiệm vụ chung là tìm ra sự
thật khách quan của vụ án.
Để thực hiện chức năng bào chữa
trong tố tụng hình sự phải thông qua
hoạt động bào chữa, nhưng hoạt
động bào chữa thực chất là hoạt động
chứng minh của người bào chữa và
luật sư là một trong những chủ thể
NGUYỄN VĂN MINH – ĐẶC ĐIỂM VỀ HOẠT ĐỘNG CHỨNG MINH
40
đóng vai trò rất quan trọng trong hoạt
động chứng minh của người bào chữa.
Hoạt động chứng minh của luật sư
được thực hiện bằng các hoạt động
thu thập, đánh giá, sử dụng chứng cứ
để chứng minh về sự vô tội hoặc giảm
nhẹ trách nhiệm hình sự cho người bị
buộc tội. Chức năng bào chữa được
thể hiện thông qua hoạt động chứng
minh của luật sư và chính hoạt động
này sẽ bảo đảm quyền bào chữa của
người bị buộc tội một cách hiệu quả
nhất.
Phiên tòa xét xử vụ án hình sự là nơi
hội tụ của ba chức năng với sự có mặt
tham gia đầy đủ của các chủ thể thực
hiện các chức năng, trong đó Tòa án
giữ vai trò trung tâm, quyết định sẽ
đưa ra phán quyết về vụ án trên cơ sở
các chứng cứ và lập luận của bên
buộc tội và bào chữa. Vì vậy, trong
giai đoạn này nếu chỉ thừa nhận hoạt
động buộc tội của Viện Kiểm sát mà
không thừa nhận đối trọng của nó là
hoạt động thực hiện chức năng bào
chữa của luật sư thì chân lý khách
quan khó đạt được. Chân lý sẽ không
xuất hiện nếu trong tố tụng hình sự chỉ
đơn thuần có buộc tội hoặc bào chữa,
sự thống nhất và đấu tranh giữa hai
mặt đối lập (buộc tội và bào chữa)
chính là nơi hội tụ chân lý, đó là sự
thật khách quan của vụ án.
2.3. Phạm vi hoạt động chứng minh
của luật sư chịu sự tác động, chi
phối bởi phạm vi buộc tội của cơ
quan tiến hành tố tụng
Tố tụng hình sự luôn tồn tại ba chức
năng cơ bản là: chức năng buộc tội,
chức năng bào chữa và chức năng
xét xử, trong đó chức năng buộc tội
xuất hiện sớm nhất, làm động lực đầu
tiên kéo theo sự xuất hiện của các
chức năng khác, là trục chính làm đòn
bẩy đưa guồng máy tố tụng vào hoạt
động. “Chức năng buộc tội còn gọi là
chức năng truy cứu trách nhiệm hình
sự là một dạng hoạt động tố tụng
nhằm phát hiện kẻ tội phạm, chứng
minh lỗi của người đó, bảo đảm phán
xử và hình phạt đối với người đó.”
(Nguyễn Thái Phúc, 1999: 22). Như
vậy, sự tồn tại và phát triển của ba
chức năng này là bắt buộc mang tính
khách quan, vì nếu không tồn tại chức
năng buộc tội thì không có chức năng
bào chữa và tất nhiên cũng không có
chức năng xét xử.
Phạm vi hoạt động chứng minh của
luật sư được bắt đầu từ khi có sự
buộc tội và kết thúc khi bản án, quyết
định của Tòa án có hiệu lực pháp luật.
Cơ sở phát sinh quyền bào chữa là
sự buộc tội, không có buộc tội thì
không có tố tụng hình sự, không có
người bào chữa (luật sư). Chức năng
bào chữa nói chung và hoạt động
chứng minh của luật sư nói riêng xuất
phát từ sự buộc tội và chịu sự chi phối
bởi quyết định buộc tội. Mục đích
tham gia tố tụng của luật sư bào chữa
là do có sự buộc tội, từ chức năng
buộc tội. Nội dung và phạm vi buộc tội
chính là đối tượng chứng minh, là
những vấn đề phải chứng minh trong
vụ án hình sự. Do đó, trong quá trình
chứng minh, luật sư phải căn cứ, theo
đuổi và bám sát vào phạm vi buộc tội.
Theo nguyên tắc, ở đâu có buộc tội thì
TẠP CHÍ KHOA HỌC XÃ HỘI số 3 (247) 2019
41
ở đó có bào chữa và “buộc tội đến
đâu, bào chữa đến đó”. Tuy nhiên,
phạm vi chứng minh của luật sư có
thể vượt ra ngoài giới hạn buộc tội
của Viện Kiểm sát với mục đích làm
giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị
cáo. Bởi vì, trong quá trình chứng
minh có những tình tiết giảm nhẹ trách
nhiệm hình sự khác nhưng bên buộc
tội không đề cập để cho bị cáo hưởng
tình tiết giảm nhẹ này thì luật sư có
quyền đưa ra chứng cứ, lập luận đề
nghị xem xét, giảm nhẹ hình phạt cho
bị cáo.
Mục đích của tố tụng hình sự là phát
hiện và xử lý tội phạm. Để đạt được
mục đích đó thì cần thực hiện các
hoạt động tố tụng để xác định làm
sáng tỏ sự thật của vụ án và hoạt
động chứng minh chính là hoạt động
tố tụng để đạt mục đích đó. Nhưng để
hoạt động chứng minh đạt hiệu quả
thì hoạt động tố tụng phải mang tính
tranh tụng, trong đó hoạt động chứng
minh của bên buộc tội và bên bào
chữa như là hai mặt đối lập cùng song
song tồn tại, sự đấu tranh pháp lý
giữa hai chủ thể này trong việc đưa ra
chứng cứ, lập luận để chứng minh
bảo vệ quan điểm buộc tội hoặc gỡ tội.
Trong quá trình này chủ thể buộc tội
sẽ tập trung chứng minh có sự kiện
phạm tội xảy ra, ai là người đã thực
hiện hành vi phạm tội, tức là xác định
các tình tiết của vụ án để làm căn cứ
buộc tội. Ngược lại, chủ thể bào chữa
sẽ sử dụng chứng cứ chứng minh
không có sự việc phạm tội, bị cáo
không thực hiện tội phạm hoặc hành
vi của bị cáo không đủ yếu tố cấu
thành tội phạm hoặc những tình tiết
nhằm giảm nhẹ trách nhiệm hình sự
cho người bị buộc tội.
Mục đích của tố tụng hình sự nhằm
xác định sự thật vụ án, việc xác định
này phải có điểm dừng, đó là giới hạn
những vấn đề phải chứng minh. Bởi vì,
“nếu không giới hạn những vấn đề
phải chứng minh thì Tòa án có nguy
cơ trở thành phòng nghiên cứu thực
nghiệm, một câu lạc bộ tranh cãi, một
nhóm thi tài diễn thuyết” (Vấn đề đánh
giá chứng cứ trong tố tụng hình sự Xô
Viết, 1967: 61).
2.4. Mục đích hoạt động chứng
minh của luật sư góp phần làm
sáng tỏ sự thật khách quan của vụ
án, nhưng mục đích chủ yếu vẫn là
nhằm chứng minh về sự vô tội
hoặc giảm nhẹ trách nhiệm hình sự
cho người bị buộc tội
Mục đích hoạt động chứng minh của
luật sư trước hết là nhằm thực hiện
nhiệm vụ chung của tố tụng hình sự là
góp phần làm sáng tỏ sự thật khách
quan của vụ án, giúp cho Tòa án giải
quyết đúng đắn vụ án. Song song với
nhiệm vụ đó thì hoạt động chứng minh
của luật sư còn góp phần bảo vệ công
lý, bảo vệ quyền con người, quyền
công dân trong tố tụng hình sự, cụ thể
là bảo đảm quyền bào chữa, bảo vệ
quyền, lợi ích hợp pháp của người bị
buộc tội trong tiến trình tố tụng.
Quyền bào chữa của người bị buộc tội
và hoạt động chứng minh của luật sư
có mối quan hệ gắn bó chặt chẽ với
nhau. Nếu hoạt động chứng minh của
luật sư càng được thực hiện đầy đủ,
NGUYỄN VĂN MINH – ĐẶC ĐIỂM VỀ HOẠT ĐỘNG CHỨNG MINH
42
hiệu quả thì quyền bào chữa của
người bị buộc tội càng được bảo đảm.
Quyền bào chữa được thể hiện cụ thể
qua hoạt động chứng minh của luật
sư và hoạt động chứng minh của luật
sư nhằm mục đích chủ yếu bảo vệ
quyền lợi cho thân chủ bằng cách đưa
ra lý lẽ và chứng cứ để bác bỏ sự
buộc tội, chứng minh về sự vô tội
hoặc giảm nhẹ trách nhiệm hình sự
cho người bị buộc tội.
Trong quá trình điều tra, truy tố và xét
xử, hoạt động chứng minh của luật sư
nhằm xác định và làm sáng tỏ những
sự kiện, tình tiết của vụ án để đạt
được sự khẳng định đối tượng chứng
minh trong vụ án là đúng, là xác thực,
góp phần làm sáng tỏ những vấn đề
phải chứng minh trong vụ án hình sự.
Như vậy, trong tiến trình tố tụng luật
sư tham gia vào hoạt động chứng
minh không chỉ bảo vệ quyền lợi cho
người bị buộc tội mà còn góp phần
giúp cơ quan tiến hành tố tụng làm
sáng tỏ sự thật khách quan của vụ án.
Nhưng về thực chất và nói chung, suy
cho cùng mục đích chủ yếu và cơ bản
nhất của luật sư trong hoạt động
chứng minh vẫn là nhằm bác bỏ sự
buộc tội, chứng minh về sự vô tội
hoặc giảm nhẹ trách nhiệm hình sự
cho người bị buộc tội, bảo đảm cho
việc giải quyết đúng đắn vụ án hình
sự. Đây chính là nhiệm vụ chủ đạo và
là mục đích chủ yếu của luật sư khi
tham gia vào hoạt động chứng minh
trong tố tụng hình sự.
2.5. Hoạt động chứng minh của
luật sư trong tố tụng hình sự và
mối liên hệ với nguyên tắc tranh
tụng
Hoạt động chứng minh của luật sư
mang tính phản biện. Đây là nét đặc
thù của nghề luật sư so với các nghề
khác trong xã hội. Tính phản biện của
luật sư được thể hiện rõ nét nhất
trong tố tụng hình sự, đặc biệt là trong
giai đoạn tranh tụng tại phiên tòa hình
sự. Trong quá trình tranh tụng tại
phiên tòa, luật sư bào chữa sẽ đưa ra
chứng cứ, lập luận để đấu tranh phản
bác lại ý kiến, quan điểm của bên
buộc tội, chứng minh cho quan điểm
bào chữa là có căn cứ để thuyết phục
Hội đồng xét xử bác bỏ quan điểm
buộc tội, chấp nhận quan điểm và lời
bào chữa của luật sư.
Tố tụng hình sự cần theo hướng mới
là ở đó cần có quan hệ bình đẳng và
đối trọng trong mối quan hệ của các
chủ thể tố tụng, tăng cường tính công
khai, dân chủ trong quan hệ giữa các
chủ thể thực hiện các chức năng cơ
bản trong tố tụng hình sự. Hoạt động
chứng minh của luật sư không chỉ để
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho
người bị buộc tội mà còn là sự phản
biện cần thiết đối với hoạt động chứng
minh của cơ quan tiến hành tố tụng.
Với hoạt động thực hiện chức năng
bào chữa mang tính đối trọng với cơ
quan buộc tội, hoạt động tranh tụng
phản biện của luật sư sẽ tác động
mạnh mẽ đến trách nhiệm của cơ
quan buộc tội, buộc cơ quan này phải
nỗ lực, cố gắng và thận trọng hơn để
bảo đảm tính đúng đắn, khách quan,
toàn diện trong quá trình chứng minh
tội phạm.
TẠP CHÍ KHOA HỌC XÃ HỘI số 3 (247) 2019
43
Quá trình tranh tụng giữa hai bên
buộc tội và gỡ tội thực chất là sự
tranh chấp hình sự về vấn đề có tội
hay không có tội, tội nặng hay tội nhẹ.
Chính từ cuộc đấu tranh pháp lý căng
thẳng, gay cấn, quyết liệt giữa hai
bên buộc tội và gỡ tội tại phiên tòa đã
làm cho hoạt động tố tụng mang tính
tranh tụng. Hoạt động tố tụng có tính
tranh tụng, theo Nguyễn Thái Phúc
(2008: 59), là “hoạt động tố tụng diễn
ra dưới hình thức cùng tồn tại, cùng
vận động và phủ định lẫn nhau giữa
hai chức năng cơ bản là chức năng
buộc tội và bào chữa và khi sự đối
trọng giữa hai chức năng cơ bản này
đã lên đến đỉnh điểm tại phiên tòa sơ
thẩm thì có sự tham gia của Tòa án
với vai trò là trọng tài điều khiển và
đưa ra phán quyết về kết quả đấu
tranh pháp lý giữa hai chức năng cơ
bản đó”.
2.6. Hoạt động chứng minh của luật
sư trong tố tụng hình sự và mối
quan hệ với nguyên tắc suy đoán
vô tội
Nguyên tắc suy đoán vô tội là nền
tảng, là sự thể hiện quan trọng nhất
cho những bảo đảm pháp lý về quyền
bào chữa. Chức năng bào chữa được
thể hiện thông qua hoạt động chứng
minh của luật sư và chính hoạt động
này bảo đảm hiệu quả về quyền bào
chữa của người bị buộc tội. Nguyên
tắc suy đoán vô tội có mối quan hệ
gắn bó, mật thiết với quyền bào chữa
và hoạt động chứng minh của luật sư.
Vì vậy, quyền bào chữa của người bị
buộc tội cũng như hoạt động chứng
minh của luật sư chỉ có thể thực hiện
đầy đủ và đạt hiệu quả nếu tôn trọng
và tuân thủ triệt để nguyên tắc suy
đoán vô tội.
Nguyên tắc suy đoán vô tội là một sự
bảo đảm pháp lý cần thiết để bảo vệ
quyền con người, quyền công dân, về
tự do và an toàn cá nhân và hoạt
động chứng minh trong tố tụng hình
sự. Dưới góc độ chứng minh thì suy
đoán vô tội là phương pháp chứng
minh hiệu quả và có lợi nhất để bảo
vệ người bị buộc tội trong tố tụng hình
sự. Suy đoán vô tội là phương pháp
chứng minh bằng phản chứng. “Theo
đó, thay vì khẳng định và chứng minh
trực tiếp một người nào đó có tội,
người ta đặt ra một giả thiết ngược lại
bằng một giả định vô tội. Khi giả định
vô tội này chưa bị bác bỏ hoàn toàn
và thuyết phục thì nó vẫn đúng” (Đinh
Thế Hưng, 2013: 75). Trong quá trình
chứng minh tội phạm, cơ quan có
thẩm quyền tiến hành tố tụng trước
tiên phải xác định: Có hành vi phạm
tội xảy ra hay không? Câu hỏi này
mang tính bắt buộc và phải được đặt
ra xuyên suốt tiến trình tố tụng cho
đến khi việc buộc tội được chứng
minh hoàn toàn. Người bị buộc tội
được coi là không có tội cho đến khi
được chứng minh mà không nhất thiết
phải trông chờ vào việc luật sư bào
chữa có bác bỏ được sự buộc tội hay
không. Nói cách khác, khi “tội không
được chứng minh, đồng nghĩa với sự
vô tội được chứng minh”. Trong tố
tụng hình sự, người bị buộc tội, người
bào chữa có quyền chứng minh về sự
NGUYỄN VĂN MINH – ĐẶC ĐIỂM VỀ HOẠT ĐỘNG CHỨNG MINH
44
vô tội, nhưng đây là quyền chứ không
phải nghĩa vụ của họ. Nếu người bị
buộc tội hoặc người bào chữa không
đưa ra được chứng cứ chứng minh về
sự vô tội thì không được coi đó là căn
cứ để buộc tội, vì như vậy là sai lầm
khi đem sự suy đoán vô tội thành suy
đoán có tội.
Quyền bào chữa cũng như quyền
chứng minh của luật sư về sự vô tội
có mối quan hệ mật thiết với nguyên
tắc suy đoán vô tội. “Quyền bào chữa
của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo
chỉ có thể được thực hiện đầy đủ và
hiện thực nếu tuân thủ nguyên tắc
suy đoán vô tội. Vi phạm quyền bào
chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị
cáo luôn luôn là vi phạm nguyên tắc
suy đoán vô tội ở chừng mực nhất
định nào đó, và ngược lại vi phạm
nguyên tắc suy đoán vô tội tất yếu
dẫn đến vi phạm quyền bào chữa của
họ” (Nguyễn Thái Phúc, 2006: 72).
Trách nhiệm của cơ quan tiến hành
tố tụng trước hết phải được thể hiện
thông qua yêu cầu tuân thủ các
nguyên tắc của tố tụng hình sự, đặc
biệt là nguyên tắc suy đoán vô tội.
Việc tôn trọng và tuân thủ nguyên tắc
suy đoán vô tội của các chủ thể tố
tụng nhất là các cơ quan tiến hành tố
tụng sẽ nâng cao hiệu quả hoạt động
chứng minh trong tố tụng hình sự nói
chung và hoạt động chứng minh của
luật sư nói riêng, giúp cho Tòa án giải
quyết đúng đắn, khách quan vụ án
hình sự.
Suy đoán vô tội là một trong những
nguyên tắc cơ bản quan trọng của tố
tụng hình sự nên cần tôn trọng và bảo
đảm thực hiện trong quá trình chứng
minh để góp phần nâng cao nhận
thức về địa vị pháp lý của người bị
buộc tội trong tố tụng hình sự. Nguyên
tắc suy đoán vô tội còn là một quyền,
quyền được suy đoán vô tội, cho nên
tôn trọng quyền suy đoán vô tội phải
là nghĩa vụ của tất cả mọi người, đặc
biệt là đối với cơ quan, người có thẩm
quyền tiến hành tố tụng phải có trách
nhiệm thực hiện đúng đắn nguyên tắc
suy đoán vô tội. Tôn trọng và triệt để
tuân thủ nguyên tắc suy đoán vô tội sẽ
tạo điều kiện cho hoạt động chứng
minh của luật sư, bảo đảm cho luật sư
thực hiện tốt chức năng bào chữa,
giúp cho Tòa án xác định sự thật
khách quan của vụ án để đưa ra phán
quyết đúng người, đúng tội, đúng
pháp luật, không bỏ lọt tội phạm,
không làm oan người vô tội.
2.7. Hoạt động chứng minh của luật
sư nhằm bảo đảm sự cân bằng
giữa lợi ích công và lợi ích cá nhân,
bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con
người, quyền công dân trong tố
tụng hình sự
Đấu tranh phòng chống tội phạm là
hoạt động quản lý của Nhà nước
nhằm duy trì trật tự xã hội, bảo vệ lợi
ích của Nhà nước, quyền và lợi ích
hợp pháp của tổ chức, cá nhân. Mục
đích của tố tụng hình sự được thể
hiện thông qua các hoạt động tố tụng
hình sự nhằm bảo vệ hai nhóm lợi ích
công và lợi ích cá nhân. Trong đó, lợi
ích công thể hiện nhiệm vụ của tố
tụng hình sự là phát hiện chính xác và
TẠP CHÍ KHOA HỌC XÃ HỘI số 3 (247) 2019
45
xử lý công minh mọi hành vi phạm tội,
còn lợi ích cá nhân thể hiện nhiệm vụ
của tố tụng hình sự là bảo vệ, bảo
đảm các quyền và lợi ích hợp pháp
của công dân. Nếu quá đề cao việc
bảo vệ lợi ích công sẽ dẫn đến xem
nhẹ giá trị về quyền con người, quyền
công dân. Và, ngược lại, nếu quá chú
trọng đến lợi ích của cá nhân thì lợi
ích công sẽ bị xâm phạm.
Để xác định sự thật khách quan và
loại trừ những gì không phải là sự thật
của vụ án, chúng ta phải “đổi mới
cách nhìn về mục đích của tố tụng
hình sự theo hướng bình đẳng đối với
các giá trị, lợi ích cần đạt được của tố
tụng hình sự, lợi ích của trật tự pháp
luật và lợi ích của cá nhân của những
con người nằm trong vòng tố tụng”
(Đào Trí Úc, 2017: 33). Các giá trị và
lợi ích cần được đặt ở vị trí ngang
bằng nhau trong quá trình chứng minh
làm sáng tỏ sự thật khách quan của
vụ án. Như vậy, mục đích của tố tụng
hình sự cần được thực hiện theo
hướng bảo đảm lợi ích công và bảo
vệ quyền con người, quyền và lợi ích
hợp pháp của cá nhân trong quá trình
tố tụng hình sự.
3. MỘT SỐ VẤN ĐỀ ĐẶT RA
3.1. Về phạm vi hoạt động chứng
minh của luật sư
Giới hạn xác định sự thật vụ án được
cụ thể hóa bằng giới hạn phạm vi
chứng minh trong tố tụng hình sự,
việc xác định đối tượng chứng minh
luôn đặt ra trong suốt quá trình đi tìm
sự thật của vụ án. Tuy nhiên, quy định
về giới hạn của việc xét xử đang tồn
tại nhiều ý kiến khác nhau về lý luận
và thực tiễn. “Tòa án xét xử những bị
cáo và những hành vi theo tội danh
mà Viện Kiểm sát truy tố và Tòa án đã
quyết định đưa vụ án ra xét xử. Tòa
án có thể xét xử bị cáo theo khoản
khác với khoản mà Viện Kiểm sát đã
truy tố trong cùng một điều luật hoặc
về một tội khác bằng hoặc nhẹ hơn tội
mà Viện Kiểm sát đã truy tố. Trường
hợp xét thấy cần xét xử bị cáo nếu
Viện Kiểm sát vẫn giữ tội danh đã truy
tố thì Tòa án có quyền xét xử bị cáo
về tội danh nặng hơn đó” (Điều 298
Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015).
Theo chúng tôi, quy định này là cần
thiết, nhưng quy định này vẫn có điểm
hạn chế là có thể làm xấu đi tình trạng
của người bị buộc tội hoặc vi phạm
quyền bào chữa của họ trong quá
trình tố tụng.
Trong hoạt động thực hiện chức năng
xét xử, Tòa án phụ thuộc vào hoạt
động truy tố của Viện Kiểm sát, bởi vì
nội dung, phạm vi truy tố sẽ xác định
giới hạn nội dung hoạt động xét xử
của Tòa án và theo đó thì hoạt động
chứng minh của người bào chữa cũng
phụ thuộc vào nội dung, phạm vi truy
tố của bên buộc tội. Như vậy, nội
dung truy tố trong bản cáo trạng sẽ là
đối tượng và phạm vi xét xử của Tòa
án và nó cũng ấn định về nội dung,
phạm vi đối với hoạt động chứng minh
của luật sư bào chữa tại phiên tòa.
Theo ý kiến chúng tôi, quy định về giới
hạn của việc xét xử là cần thiết để
việc xác định sự thật của vụ án phải
có điểm dừng, nhưng giới hạn xét xử
phải bảo đảm cho việc thực hiện đúng
NGUYỄN VĂN MINH – ĐẶC ĐIỂM VỀ HOẠT ĐỘNG CHỨNG MINH
46
đắn chức năng xét xử, không làm ảnh
hưởng đến tính độc lập trong xét xử
và không tạo điều kiện để Tòa án có
thể mở rộng nội dung xét xử ngoài
phạm vi truy tố kéo theo việc thay đổi
về nội dung và phạm vi bào chữa đã
được ấn định trước đó trong quyết
định truy tố, làm xấu tình trạng của bị
cáo. Nói cách khác, Tòa án có thể
vượt qua giới hạn của việc xét xử nếu
như không làm xấu tình trạng của bị
cáo và không vi phạm quyền bào
chữa của bị cáo so với truy tố của
Viện Kiểm sát. Như vậy, hoạt động
chứng minh của luật sư được bắt đầu
từ khi có sự buộc tội và kết thúc khi
bản án, quyết định của Tòa án có hiệu
lực pháp luật. Phạm vi hoạt động
chứng minh của luật sư chịu sự chi
phối và phụ thuộc vào phạm vi truy tố
theo nguyên tắc, có buộc tội thì có
bào chữa, buộc tội đến đâu, bào chữa
đến đó, nếu buộc tội về tội phạm càng
nghiêm trọng bao nhiêu thì đòi hỏi
hoạt động chứng minh của luật sư
bào chữa càng cao bấy nhiêu.
3.2. Về nguyên tắc tranh tụng của
luật sư
Bảo đảm bình đẳng trước pháp luật là
một nguyên tắc cơ bản của tố tụng
hình sự, theo đó phải bảo đảm sự
bình đẳng cho chủ thể buộc tội và chủ
thể bào chữa có quyền ngang nhau
trong quá trình chứng minh. Sự đấu
tranh, phủ định lẫn nhau giữa hai bên
buộc tội và gỡ tội càng dân chủ, công
bằng, bình đẳng bao nhiêu thì quá
trình tìm kiếm chân lý khách quan
càng được bảo đảm bấy nhiêu. Theo
Lê Hữu Thể, Đỗ Văn Đương, Nguyễn
Thị Thủy (2013: 34): với chủ trương
nâng cao chất lượng tranh tụng tại
phiên tòa, nhất là sau khi nguyên tắc
tranh tụng chính thức được Bộ luật Tố
tụng hình sự năm 2015 ghi nhận,
bước đầu đã tạo được không khí bình
đẳng, dân chủ trong các phiên tòa.
Tuy nhiên, xét trên cả phương diện
pháp lý và thực tiễn thì người bị buộc
tội, người bào chữa vẫn chưa thật sự
được xem là một bên tranh tụng bình
đẳng trong quan hệ tố tụng với bên
buộc tội và chưa có cơ chế để bảo
đảm tính thực quyền của người bào
chữa theo quy định của pháp luật.
Như vậy, chỉ có tranh tụng thật sự thì
hoạt động tố tụng nói chung và hoạt
động chứng minh của các chủ thể
thực hiện các chức năng mới có cơ
hội đạt đến chân lý. Tại phiên tòa diễn
ra quá trình chứng minh, tranh tụng
công khai, dân chủ, bình đẳng giữa
hai bên buộc tội và bào chữa. “Từ đó,
các bên sẽ nỗ lực hết mình để bảo vệ
lợi ích, bảo vệ quan điểm, trình bày
chứng cứ, chủ động chứng minh về
các tình tiết của vụ án theo phương
châm “chân lý chỉ tìm thấy trong tranh
luận”. Tố tụng, tranh tụng đòi hỏi tự do
chứng minh và tự do đánh giá chứng
cứ, bảo đảm tính “mở” của chứng cứ
với yêu cầu không một chứng cứ nào
có thể được coi là có giá trị chứng
minh ưu tiên hay có giá trị pháp lý tiên
quyết” (Đào Trí Úc, 2017: 40). Có thể
khẳng định rằng, nếu không có tranh
tụng thật sự thì không thể nói đến
chân lý, không thể nói đến bản án
TẠP CHÍ KHOA HỌC XÃ HỘI số 3 (247) 2019
47
đúng đắn, đúng người, đúng tội, đúng
pháp luật, không bỏ lọt tội phạm,
không làm oan cho người vô tội.
3.3. Về nguyên tắc suy đoán vô tội
Trong hoạt động tố tụng hình sự tấm
lá chắn quan trọng, vững chắc nhất
đối với quyền con người, quyền công
dân, nhằm phòng ngừa những vi phạm
từ phía cơ quan, người có thẩm quyền
tiến hành tố tụng là việc ghi nhận
nguyên tắc suy đoán vô tội. “Người bị
buộc tội được coi là không có tội cho
đến khi được chứng minh theo trình
tự, thủ tục do bộ luật này quy định và
có bản án kết tội của Tòa án đã có
hiệu lực pháp luật” (Quốc hội nước
Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam,
2015: 16). Không nên có định kiến
rằng, hễ người nào bị truy tố là nhất
định có tội mà đối xử như người có tội.
Bị cáo trước khi tuyên án được coi
như vô tội để Tòa án có thái độ hoàn
toàn khách quan. Bởi vì, khi chưa có
bản án kết tội đã có hiệu lực pháp luật
của Tòa án thì bị cáo vẫn chưa phải là
người có tội và không được đối xử với
họ như người đã có tội.
3.4. Về bảo vệ công lý, bảo vệ quyền
con người
Nếu cho rằng tố tụng hình sự là hoạt
động chỉ có tính chất pháp lý công,
được tổ chức và hoạt động trước hết
vì lợi ích chung chứ không phải vì lợi
ích cá nhân và chỉ tập trung hướng tới
mục đích phát hiện, xử lý tội phạm
bằng mọi giá thì sẽ dẫn tới việc xem
nhẹ giá trị quyền con người, như vậy
sẽ không bảo đảm hoặc xâm phạm lợi
ích và vai trò tố tụng của người bị
buộc tội. Như vậy, sự hiện diện của
luật sư bào chữa trong hoạt động
chứng minh nhằm bảo vệ quyền lợi
cho người bị buộc tội sẽ góp phần bảo
đảm sự cân bằng hài hòa giữa lợi ích
công và lợi ích cá nhân.
Trong quá trình tố tụng, hoạt động
chứng minh của ba chủ thể thực hiện
các chức năng cơ bản như buộc tội,
bào chữa và xét xử cùng song song
tồn tại. Mỗi hoạt động chứng minh của
chủ thể tố tụng đều có vị trí độc lập,
tùy theo chức năng, nhiệm vụ, quyền
hạn riêng, thế nhưng giữa chúng có
mối quan hệ, nối tiếp nhau, bổ sung
cho nhau. Cơ quan có thẩm quyền
tiến hành tố tụng có trách nhiệm chứng
minh tội phạm và người phạm tội
nhằm bảo vệ lợi ích công cộng, còn
hoạt động chứng minh của luật sư
nhằm thực hiện chức năng bào chữa
dựa trên quyền chứng minh trong tố
tụng hình sự để bảo đảm quyền lợi
cho người bị buộc tội. Nhiệm vụ cơ
bản và chủ yếu của luật sư là bảo vệ
công lý, bảo vệ quyền con người,
quyền công dân và lợi ích cá nhân của
những người nằm trong vòng tố tụng.
Trong hoạt động chứng minh ngoài
mục đích bảo vệ quyền lợi cho thân
chủ thì luật sư còn góp phần làm sáng
tỏ sự thật vụ án nhằm cân bằng giữa
lợi ích xã hội và lợi ích cá nhân. Có
thể nói, hoạt động chứng minh của
chủ thể thực hiện các chức năng cơ
bản hợp thành một thể thống nhất
được quyết định bởi mục đích chung
của tố tụng hình sự, việc luật sư bào
chữa minh oan cho người vô tội cũng
NGUYỄN VĂN MINH – ĐẶC ĐIỂM VỀ HOẠT ĐỘNG CHỨNG MINH
48
quan trọng và có ý nghĩa xã hội như
việc xử lý nghiêm minh người phạm
tội để bảo vệ lợi ích công cộng, duy trì
trật tự xã hội.
Luật sư tham gia vào hoạt động
chứng minh không chỉ để bảo vệ
quyền lợi cho cá nhân người bị buộc
tội mà còn có nhiệm vụ “góp phần bảo
vệ công lý, các quyền tự do, dân chủ
của công dân, quyền, lợi ích hợp pháp
của cá nhân, cơ quan, tổ chức, phát
triển kinh tế - xã hội, xây dựng Nhà
nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ
nghĩa, xã hội dân chủ, công bằng, văn
minh” (Điều 3 Luật Luật sư). Như vậy,
để bảo vệ có hiệu quả quyền và lợi
ích hợp pháp của cá nhân thì luật sư
phải tôn trọng sự thật khách quan và
tuân thủ pháp luật và ngược lại, muốn
góp phần bảo vệ công lý, xây dựng xã
hội dân chủ, công bằng, văn minh thì
phải thực hiện tốt nhiệm vụ bảo vệ
quyền lợi cho cá nhân người bị buộc
tội. Nói cách khác, vai trò của luật sư
bào chữa khi tham gia hoạt động
chứng minh trong tố tụng hình sự là
sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa việc
bảo vệ quyền lợi cá nhân người bị
buộc tội với việc bảo vệ công lý, lợi
ích công và trật tự pháp luật.
4. KẾT LUẬN
Qua phân tích nêu trên cho thấy, hoạt
động chứng minh của luật sư trong tố
tụng hình sự là hoạt động thực hiện
chức năng bào chữa để nhận thức về
sự thật của vụ án, tuân thủ pháp luật
và quy chế trách nhiệm nghề nghiệp,
mang tính độc lập, tự chịu trách
nhiệm cá nhân. Cơ sở phát sinh hoạt
động chứng minh của luật sư là sự
buộc tội và hoạt động này bắt đầu từ
khi có sự buộc tội cho đến khi bản
án, quyết định của Tòa án có hiệu lực
pháp luật. Nội dung hoạt động chứng
minh của luật sư được thực hiện dựa
trên cơ sở quyền và nghĩa vụ của
người bào chữa thông qua các hoạt
động thu thập, kiểm tra, đánh giá
chứng cứ để chứng minh về sự vô tội
hoặc giảm nhẹ trách nhiệm hình sự
cho người bị buộc tội, góp phần làm
sáng tỏ sự thật khách quan của vụ
án. Hoạt động chứng minh của luật
sư chịu sự tác động, chi phối bởi
chức năng bào chữa và phạm vi buộc
tội của cơ quan tiến hành tố tụng.
Ngoài ra, hoạt động này có mối quan
hệ gắn bó với một số nguyên tắc của
tố tụng hình sự, đặc biệt là nguyên
tắc tranh tụng và nguyên tắc suy
đoán vô tội. Hoạt động chứng minh
của luật sư bào chữa mang tính phản
biện, đối trọng với hoạt động chứng
minh của bên buộc tội nhằm bảo đảm
sự cân bằng giữa lợi ích công, quyền
con người, quyền công dân trong tố
tụng hình sự.
TÀI LIỆU TRÍCH DẪN
1. Đinh Thế Hưng. 2013. “Các thủ tục tiền xét xử tại Việt nam và những vấn đề đặt ra
đối với Bộ luật Tố tụng hình sự Việt Nam”. Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, số 12.
2. Lênin, V.I. 1991. Bút ký triết học. Toàn tập, tập 29. Mátxcơva: Nxb. Tiến bộ.
TẠP CHÍ KHOA HỌC XÃ HỘI số 3 (247) 2019
49
3. Đinh Thị Mai. 2015. “Lý thuyết chức năng và một số vấn đề về đổi mới nhận thức về các
chức
năng của tố tụng hình sự Việt Nam”, trong Hội thảo khoa học Các chức năng của tố
tụng hình sự trong bối cảnh cải cách tư pháp ở Việt Nam hiện nay. Học viện Khoa học
xã hội, ngày 28/11/2015.
4. Nguyễn Thái Phúc. 2006. “Nguyên tắc suy đoán vô tội”. Tạp chí Nhà nước và Pháp
luật, số 11.
5. Nguyễn Thái Phúc. 1999. “Một số vấn đề về quyền công tố của Viện Kiểm sát. Kỷ yếu
Đề tài khoa học cấp Bộ của Viện Khoa học Kiểm sát - Viện Kiểm sát Nhân dân Tối cao,
Hà Nội, tr. 22.
6. Nguyễn Thái Phúc. 2008. “Vấn đề tranh tụng và tăng cường tranh tụng trong tố tụng
hình sự theo yêu cầu của cải cách tư pháp”. Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, số 8.
7. Quốc hội nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam. 2012. Luật Luật sư năm 2006
sửa đổi, bổ sung năm 2012. Hà Nội: Nxb. Chính trị Quốc gia-Sự thật.
8. Quốc hội nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam. 2015. Bộ luật Tố tụng hình sự
năm 2015. Hà Nội: Nxb. Chính trị Quốc gia-Sự thật.
9. Lê Hữu Thể, Đỗ Văn Đương, Nguyễn Thị Thủy (đồng chủ biên). 2013. Những vấn đề
lý luận và thực tiễn cấp bách của việc đổi mới thủ tục tố tụng hình sự đáp ứng yêu cầu
cải cách tư pháp. Hà Nội: Nxb. Chính trị Quốc gia.
10. Đào Trí Úc. 2017. Mô hình tố tụng hình sự Việt Nam theo quy định của Bộ luật Tố
tụng hình sự năm 2015 và những vấn đề đặt ra đối với công tác đấu tranh phòng, chống
tội phạm hiện nay. Kỷ yếu. Hội thảo khoa học, Bộ Công an.
11. Võ Khánh Vinh. 2002. Giáo trình Luật tố tụng hình sự Việt Nam. Hà Nội: Nxb. Công
an Nhân dân.
12. Vưsinxki. 1950. Lý luận về chứng cứ tư pháp trong pháp luật Xô Viết. Mátxcơva:
Nxb. Sách Pháp lý.
13. Vấn đề đánh giá chứng cứ trong tụng hình sự Xôviết. 1967. Mátxcơva: Nxb. Pháp lý,
tr. 61.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- dac_diem_ve_hoat_dong_chung_minh_cua_luat_su_trong_to_tung_h.pdf