Kết luận
Kinh tế thị trường là một thể chế kinh tế, một
hệ thống các lực lượng kinh tế và các chủ thể kinh
tế, một nền kinh tế mở, xem đó như một thành tố
cấu trúc nền tảng, nội tại của hệ thống kinh tế - xã
hội, tạo thành hệ thống kinh tế - xã hội phát triển
theo hướng đi lên CNXH. Một mặt, vừa khai thác
tính tích cực của kinh tế thị trường. Mặt khác, sử
dụng vai trò của nhà nước cũng cần thấy mặt tích
cực, chủ động của nhà nước, đồng thời phải hết
sức đề phòng mặt “tha hóa” tiêu cực của Nhà
nước. Do vậy, vấn đề cốt lõi ở Việt Nam hiện nay
là phải xây dựng và hoàn thiện hệ thống thể chế
kinh tế thị trường, để đảm phát huy được tính năng
động hiệu quả của nó, đồng thời cũng phải bảo
đảm được tính định hướng XHCN. Về lý luận
kinh tế thị trường định hướng XHCN có những
nét trong Chính sách kinh tế mới (NEP) của
Lênin, lại hoàn toàn phù hợp với xu thế phát triển
kinh tế XHCN ở Việt Nam trong công cuộc đổi
mới. Thành tựu phát triển kinh tế ở Việt Nam thời
gian qua đã chứng minh điều đó.
6 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 18/01/2022 | Lượt xem: 315 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đặc khu kinh tế của Trung Quốc với việc xây dựng thể chế kinh tế thị trường – Bài học kinh nghiệm với Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Chuyên mục: Khoa học xã hội và hành vi - TẠP CHÍ KINH TẾ & QUẢN TRỊ KINH DOANH SỐ 13 (2020)
2
ĐẶC KHU KINH TẾ CỦA TRUNG QUỐC VỚI VIỆC XÂY DỰNG THỂ CHẾ
KINH TẾ THỊ TRƯỜNG – BÀI HỌC KINH NGHIỆM VỚI VIỆT NAM
Hứa Thanh Bình1, Trần Huy Ngọc2,
Lê Chí Trung3
Tóm tắt
Đặc khu kinh tế của Trung Quốc là kết quả của một thời kỳ lịch sử đặc biệt, là quyết sách hàng đầu trong
việc tìm tòi, đổi mới thể chế kinh tế, sáng tạo trong việc phát triển kinh tế thị trường đặc sắc của Trung
Quốc. Từ thực tiễn phát triển đặc khu kinh tế ở Trung Quốc đối với việc chuyển đổi mô hình kinh tế và thực
tiễn xây dựng kinh tế thị trường ở Việt Nam, trên cơ sở lý thuyết về kinh tế thị trường đồng thời tổng hợp kết
quả nghiên cứu bài viết nhằm cung cấp tài liệu tham khảo và một số gợi ý bài học kinh nghiệm cho Việt
Nam trong quá trình xây dựng và hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Từ khóa: Đặc khu kinh tế, kinh tế thị trường, đặc khu kinh tế của Trung Quốc, thể chế kinh tế thị trường
Việt Nam.
CHINA’S SPECIAL ECONOMIC ZONES WITH ESTABLISHING THE INSTITUTIONS
OF A MARKET ECONOMY – A LESSON FOR VIETNAM
Abstract
China's special economic zones are the result of a special historical period, and a priority policy aiming
at seeking and reforming the economic system while enhancing creativity in developing Chinese-style
market economy. Stemming from the experiences of changing economic models in the process of
developing special economic zones in China and from the facts of developing a market economic in
Vietnam, and based on theories of market economy and results of the research, this article provides
references and suggests lessons for Vietnam in the process of building and improving the socialist-
oriented market economy.
Key word: Special economic zones, market economy, China's special economic zone, Vietnamese market
economy institution.
JEL classification: A13, P3.
1. Đặt vấn đề
Đặc khu kinh tế là khu vực có địa giới xác
định, thường với diện tích rộng hơn khu công
nghiệp, khu chế xuất thuộc lãnh thổ quốc gia, trong
đó, áp dụng các ưu đãi đặc biệt về chế độ hải quan,
ngoại hối, thuế, thị thực cho các nhà đầu tư trong
nước và nước ngoài. Hiện nay, trên thế giới có
khoảng hơn 200 đặc khu kinh tế ở hơn 60 quốc gia.
Các nước khác nhau có cách gọi đặc khu kinh tế
khác nhau như: Đặc khu kinh tế, khu vực kinh tế tự
do, khu vực công nghiệp tự do, khu vực khuyến
khích xuất khẩu. Việc thành lập các đặc khu kinh
tế nhằm đẩy mạnh hoạt động kinh tế đối ngoại, thu
hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài, tiếp nhận công
nghệ hiện đại và kinh nghiệm quản lí kinh tế tiên
tiến, giảm bớt chi phí xuất nhập khẩu, tăng tính
cạnh tranh của sản phẩm trên thị trường quốc tế.
Ở Trung Quốc trong quá trình đổi mới kinh
tế - một quyết sách trọng đại nhằm thực hiện các
chính sách và biện pháp linh hoạt đối với việc mở
cửa, phát triển kinh tế thị trường là thành lập đặc
khu kinh tế. Nhờ thử nghiệm căn nguyên này đã
tạo nên đà khởi động cho sự bùng nổ của kinh tế
Trung Quốc, đó là những “đầu tàu” lần đầu dấn
thân vào nền kinh tế thị trường. Do vậy, việc
nghiên cứu vấn đề đặc khu kinh tế và con đường
phát triển của Trung Quốc thực chất cũng là
nghiên cứu con đường thay đổi thể chế kinh tế,
thực hiện việc xây dựng và phát triển nền kinh tế
thị trường hiện đại mang đặc tính Trung Quốc.
Ở Việt Nam xuất phát từ việc cần kíp phải đổi
mới tư duy, trước hết là tư duy kinh tế, Đảng và
Nhà nước ta đã chủ trương xóa bỏ nền kinh tế kế
hoạch hóa, tập trung, bao cấp chuyển sang nền kinh
tế thị trường và hội nhập quốc tế. Từ Đại hội Đảng
lần thứ VI (1986) đến Đại hội Đảng lần thứ XII
(2016), thể chế kinh tế thị trường định hướng xhcn
ngày càng hoàn thiện và được chứng minh tính
đúng đắn trên thực tế. Đến Đại hội XII, mô hình
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
Chuyên mục: Khoa học xã hội và hành vi - TẠP CHÍ KINH TẾ & QUẢN TRỊ KINH DOANH SỐ 13 (2020)
3
(XHCN) ở nước ta đã được khắc họa rõ nét và đầy
đủ hơn. Báo cáo do Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng
trình bày tại phiên khai mạc Đại hội XII của Đảng
sáng 21-1-2016 đã nhấn mạnh: “Thống nhất nhận
thức nền kinh tế thị trường định hướng XHCN Việt
Nam là nền kinh tế vận hành đầy đủ, đồng bộ theo
các quy luật của kinh tế thị trường; đồng thời, bảo
đảm định hướng XHCN phù hợp với từng giai đoạn
phát triển của đất nước” [5].
2. Khái quát tiến trình xây dựng, phát triển đặc
khu kinh tế ở Trung Quốc
2.1. Từ 1978 - 1985 giai đoạn đặt nền móng cho
sự phát triển
Tháng 7/1979 Đảng Cộng sản Trung Quốc đã
phê duyệt báo cáo của tỉnh Phúc Kiến và Quảng
Đông về các biện pháp linh hoạt trong hoạt động
kinh tế đối ngoại và quyết định thực hiện sáng lập
đặc khu kinh tế Thâm Quyến, Chu Hải, Sán Đầu,
Hạ Môn. Từ đây đặc khu kinh tế đầu tiên Thâm
Quyến bắt tay vào thời kỳ xây dựng kết cấu hạ
tầng cả phần cứng và phần mềm với phương châm
cải cách táo bạo, thử nghiệm và khám phá; chế
định quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế xã hội,
thể chế xây dựng cơ bản, thể chế giá cả (1982);
định hướng nhu cầu của thị trường, thể chế doanh
nghiệp (1983); xây dựng cảng nước sâu shekou
(1979), mở cửa khu Shatoujiao để thu hút đầu tư
nước ngoài; xây dựng liên doanh điện hạt nhân
Dayawan giữa Quảng Đông và Hông Kông (Liên
doanh lớn nhất với nước ngoài thời đó); tự do hóa
ngành tài chính, cho thành lập một số ngân hàng
nước ngoài [6]... Đặc điểm chủ yếu của thời kỳ
này là cải cách từng bộ phận, đột phá từng hạng
mục, vì mở cửa để thúc đẩy cải cách. Những cải
cách này đã phá vỡ sự trói buộc của thể chế kinh
tế kế hoạch truyền thống, nó là sự cải cách mang
tính hiệu ứng, làm mẫu để cải cách kinh tế thành
thị toàn quốc.
2.2. Từ 1986 - 1992 giai đoạn thúc đẩy chuyển
hình hướng ngoại
Các đặc khu kinh tế bước vào giai đoạn phát
triển mới, thực chất đây là thời kỳ thúc đẩy mạnh
mẽ cải cách thể chế kinh tế thị trường hướng ngoại.
Thâm Quyến đi đầu trong kế hoạch chuyển hướng
thể chế kinh tế: Lợi dụng nguồn vốn và khoa học
công nghệ nước ngoài xây dựng cảng chiwan, xây
dựng các doanh nghiệp “Tam vốn” “Tam hợp nhất
lợi” (công ty liên doanh với tư bản nước ngoài, với
hoa kiều, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài),
đồng thời tích cực hợp tác, liên kết nội địa, xây
dựng các doanh nghiệp nội địa nhằm đối ứng liên
doanh. Kiên trì “Lấy công nghiệp là chủ, công –
thương – kỹ kết hợp; nỗ lực trở thành khu vực tập
trung tri thức, tập trung công nghiệp, khoa học công
nghệ và định hướng xuất khẩu” [6].
Các đặc khu bắt đầu thực hiện cổ phần hóa
doanh nghiệp nhà nước (1986); cho ngân hàng
nước ngoài vào kinh doanh (1986); thành lập
trung tâm điều tiết ngoại tệ (1988); thành lập sở
giao dịch chứng khoán (1990); đột phá thể chế
truyền thống để thành lập thị trường đấu giá bất
động sản (1987)... Thông qua những điểm cải cách
cơ bản này, bước đầu đã hình thành được thể chế
điều tiết cơ chế vận hành của kinh tế thị trường.
Thâm Quyết đã bắt đầu cất cánh, GDP bình quân
hàng năm tăng trưởng 30%. Năm 1987 Thâm
Quyến đã đảo ngược tình trạng nhập siêu, năm
1992 Thâm Quyến đã trở thành thành phố xuất
khẩu thương mại đứng đầu Trung Quốc [7].
2.3. Từ 1993 - 2002 giai đoạn phát triển “vượt
qua” và tự lực đổi mới, sáng tạo
Đây là thời kỳ vượt qua sự “ỷ lại” ưu đãi của
nhà nước, để chuyển sang giai đoạn dựa vào việc
tiến hành đề cao năng lực sáng tạo tự thân. Một là,
các đặc khu kinh tế là khu vực đi tiên phong đề
xuất xây dựng mục tiêu của thể chế kinh tế , đi đầu
trong việc thành lập hệ thống doanh nghiệp hiện
đại, cải thiện hệ thống thị trường, chuyển đổi công
năng của chính phủ, xây dựng hệ thống pháp luật
thích ứng với kinh tế thị trường XHCN. Hai là,
thực hiện chế độ đãi ngộ quốc dân đối với thương
nhân nước ngoài và Hoa kiều đầu tư. Ba là, thực
hiện chiến lược hướng ngoại để mở rộng thị
trường, ưu tiên hàng đầu là thu hút các doanh
nghiệp nước ngoài có công nghệ cao. Các chính
sách được quyết tâm thực hiện triệt để như: Tiếp
tục cải cách sâu sắc thể chế quản lý tài sản thuộc
sở hữu nhà nước (1992); tăng cường cải cách
doanh nghiệp nhà nước để thiết lập hệ thống
doanh nghiệp hiện đại (1994); phát triển thị trường
khoa học công nghệ (1994); tăng cường xây dựng
hệ thống tín dụng (2002) Trong thời gian này,
đặc khu kinh tế Thâm Quyến đạt được bước phát
triển nhảy vọt, các ngành công nghệ cao hình
Chuyên mục: Khoa học xã hội và hành vi - TẠP CHÍ KINH TẾ & QUẢN TRỊ KINH DOANH SỐ 13 (2020)
4
thành. GDP liên tục tăng trưởng cao, năm 1994
đạt 100 tỷ nhân dân tệ; 1998 đạt 200 tỷ nhân dân
tệ; và đạt 300 tỷ nhân dân tệ vào năm 2002 [1].
2.4. Từ 2003 - 2008 giai đoạn thách thức “đối
diện” với khoa học công nghệ phát triển
Năm 2003, chính quyền các đặc khu đã đề
xuất mục tiêu chiến lược xây dựng thành phố
mang tính quốc tế hóa, như ở Thâm Quyến năm
2005 đề xuất mục tiêu xây dựng “Hexie
shenzhen” (Thâm Quyên hài hòa). Thực hiện
chiến lược “Tự chủ sáng tạo” như: Thúc đẩy tái
sản xuất mọi mặt nền kinh tế; hoàn thiện cơ cấu
sở hữu, thúc đẩy kinh tế tư nhân phát triển (2003);
cải cách 3 chế độ phân phối (2006); đề xuất hệ
thống chi tiêu phúc lợi dân sinh (2006);...Đối với
đầu tư nước ngoài: Thực hiện xúc tiến thương mại
và đa dạng hóa thị trường xuất khẩu; thúc đẩy việc
mở cửa thu hút các công ty đa quốc gia có công
nghệ cao vào các dự án lớn mang tính cốt lõi của
Quốc gia; thúc đẩy hoạt động quốc tế của công ty
trong nước, nhằm đào tạo các kỹ năng của công ty
đa quốc gia bản địa; đẩy mạnh hợp tác Thâm
Quyến – Hồng Kông như ký Điều ước hiệp tác
“1+8” (2004); Thỏa thuận “1+6” (2007) [1]
Đến nay, sự phát triển đặc khu kinh tế của
Trung Quốc đã đạt được thành tựu to lớn, tạo ra
sự nổi tiếng mà thế giới thường gọi “tốc độ Thâm
Quyến”. Ví như đặc khu Thâm Quyến từ 1979 đến
2007 mức tăng trưởng GDP từ 196 triệu nhân dân
tệ lên 676.541 tỷ nhân dân tệ, tốc độ tăng trưởng
hàng năm đạt 31,20%, GDP bình quân đầu người
tăng từ 606 nhân dân tệ lên đến 79221 nhân dân tệ
(10628 USD), tổng số xuất khẩu thương mại từ 17
triệu USD lên đến 287.533 tỷ USD, tốc độ tăng
trưởng bình quân đạt 38,34% cao nhất cả nước;
năm 2009, Thâm Quyến đã đạt mức GDP đầy ấn
tượng: 820.123 tỷ nhân dân tệ, gấp 979 lần so với
năm 1979, còn GDP tính theo đầu người đạt
13.600 USD/người, đứng đầu Trung Quốc [1].
3. Từng bước nhận thức kinh tế thị trường định
hướng XHCN ở Việt Nam
Quá trình nhận thức về kinh tế thị trường định
hướng XHCN là quá trình hoàn thiện tư duy lý luận
về kinh tế và tổng kết thực tiễn phát triển đất nước
của Đảng. Từ Cương lĩnh năm 1991 đến nay, Đảng
ta đã nhiều lần nêu rõ cần phải tiếp tục làm sáng tỏ
mô hình CNXH trong đó có cốt lõi đó là mô hình
kinh tế thị trường. Trước hết, từ xây dựng nền kinh
tế trong thời kỳ quá độ là nền kinh tế chỉ có thành
phần XHCN (dưới hai hình thức kinh tế quốc
doanh và kinh tế tập thể) đã đi đến xây dựng một
nền kinh tế nhiều thành phần. Mỗi thành phần kinh
tế đều là một bộ phận của nền kinh tế quốc dân, đều
bình đẳng trước pháp luật. Đại hội Đảng toàn quốc
lần thứ VII đã khẳng định: “Phát huy thế mạnh của
các thành phần kinh tế, vừa cạnh tranh vừa hợp tác,
bổ sung cho nhau trong nền kinh tế quốc dân thống
nhất” [2]. Vận dụng kinh tế tư bản nhà nước, tiến
tới thừa nhận kinh tế tư nhân là một thành phần
kinh tế trong nền kinh tế quốc dân (kinh tế tư nhân
đang chiếm tỉ trọng lớn nhất trong cơ cấu các thành
phần kinh tế của Việt Nam, sử dụng 83,6% tổng số
lao động, đóng góp 37,99% GDP so với 28,63%
của khu vực kinh tế nhà nước) có khả năng góp
phần quan trọng vào công cuộc xây dựng đất nước
– đây là bước tiến lớn trong đổi mới tư duy kinh tế
cũng như thực tiễn thực hiện.
Cơ chế chỉ huy bao cấp tuyệt đối hóa vai trò
của kinh tế kế hoạch, kỳ thị kinh tế thị trường. Cơ
chế mới đã thừa nhận kinh tế thị trường, vận dụng
cơ chế thị trường điều tiết cung cầu, giá cả, sản
xuất kinh doanh, từng bước hình thành đồng bộ
các loại thì trường, xây dựng một nền kinh tế mở
hội nhập khu vực và quốc tế. Tại Đại hội Đảng
toàn quốc lần thứ VIII, Đảng đã đưa ra quan niệm
mới, và khẳng định: “Sản xuất hàng hóa không đối
lập với CNXH, mà là thành tựu phát triển của nền
văn minh nhân loại, tồn tại khách quan, cần thiết
cho công cuộc xây dựng CNXH và cả khi CNXH
đã được xây dựng” [3].
Trước đổi mới, theo mô hình cũ là cải tạo
nhanh kinh tế tư bản tư nhân và kinh tế cá thể, tiểu
chủ, hạn chế, tiến tới xóa bỏ nhanh kinh tế hàng
hóa. Ngày nay thừa nhận và thực hiện quá trình cải
tạo ấy diễn ra trong suốt thời kỳ quá độ và tất yếu
sử dụng kinh tế thị trường. Đối với quan hệ sản
xuất, trước đây quan niệm và thực hiện chỉ có một
chế độ sở hữu duy nhất là chế độ công hữu về tất
cả các tư liệu sản xuất (bao gồm sở hữu toàn dân và
sở hữu tập thể). Bước sang thời kỳ đổi mới đã đi
đến thực hiện nhiều chế độ, hình thức sở hữu trong
nền kinh tế quốc dân, sở hữu tư nhân về tư liệu sản
xuất được thừa nhận. Chế độ công hữu theo mô
hình mới không phải là công hữu về tất cả tư liệu
Chuyên mục: Khoa học xã hội và hành vi - TẠP CHÍ KINH TẾ & QUẢN TRỊ KINH DOANH SỐ 13 (2020)
5
sản xuất, mà chỉ là công hữu về tư liệu sản xuất chủ
yếu để làm nền tảng cho nền kinh tế quốc dân. Do
vậy, Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX đã khẳng
định: “Phát triển kinh tế thị trường định hướng
XHCN là đường lối chiến lược nhất quán, là mô
hình kinh tế tổng quát trong suốt thời kỳ quá độ đi
lên CNXH ở Việt Nam” [4]. Mặt khác, ngay chế độ
công hữu nếu vận dụng sự tách biệt tương đối giữa
quyền sở hữu và quyền quản lý kinh doanh thì vẫn
tạo nên sự tồn tại độc lập tương đối giữa các chủ
thể kinh tế. Đó là cơ sở kinh tế của kinh tế hàng
hóa, kinh tế thị trường nằm ngay trong quan hệ sản
xuất cơ bản của CNXH.
Trước đây quan niệm về kinh tế quốc doanh
là chủ đạo, thì ngày nay đã đi đến quan niệm kinh
tế nhà nước là chủ đạo. Chủ đạo ở chỗ kinh tế nhà
nước chỉ giữ những vị trí then chốt trong nền kinh
tế. Nhờ đó mà mở đường, hỗ trợ các thành phần
kinh tế khác cùng phát triển, và là lực lượng vật
chất để Nhà nước thực hiện chức năng điều tiết và
quản lý vĩ mô. Mô hình trước đổi mới coi hợp tác
xã thuần túy là kinh tế tập thể, đến nay đã chuyển
sang xác định hợp tác xã là tổ chức kinh tế được
hình thành trên cơ sở giữ đúng nguyên tắc tự
nguyện. Các hợp tác xã là các chủ thể kinh tế độc
lập, hoạt động theo cơ chế thị trường.
Từ thực tiễn và lý luận nêu trên, đến Đại hội
XII Đảng tiếp tục nhấn mạnh và khẳng định:
“Thống nhất nhận thức nền kinh tế thị trường định
hướng XHCN Việt Nam là nền kinh tế vận hành
đầy đủ, đồng bộ theo các quy luật của kinh tế thị
trường; đồng thời, bảo đảm định hướng XHCN
phù hợp với từng giai đoạn phát triển của đất
nước. Đó là nền kinh tế thị trường hiện đại và hội
nhập quốc tế; có sự quản lý của Nhà nước pháp
quyền XHCN, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh
đạo, nhằm mục tiêu "dân giàu, nước mạnh, dân
chủ, công bằng, văn minh”; có quan hệ sản xuất
tiến bộ phù hợp với trình độ phát triển của lực
lượng sản xuất; có nhiều hình thức sở hữu, nhiều
thành phần kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước giữ
vai trò chủ đạo, kinh tế tư nhân là một động lực
quan trọng của nền kinh tế; các chủ thể thuộc các
thành phần kinh tế bình đẳng, hợp tác và cạnh
tranh theo pháp luật; thị trường đóng vai trò chủ
yếu trong huy động và phân bổ có hiệu quả các
nguồn lực phát triển, là động lực chủ yếu để giải
phóng sức sản xuất; các nguồn lực nhà nước được
phân bổ theo chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phù
hợp với cơ chế thị trường. Nhà nước đóng vai trò
định hướng, xây dựng và hoàn thiện thể chế kinh
tế, tạo môi trường cạnh tranh bình đẳng, minh
bạch và lành mạnh; sử dụng các công cụ, chính
sách và các nguồn lực của Nhà nước để định
hướng và điều tiết nền kinh tế, thúc đẩy sản xuất
kinh doanh và bảo vệ môi trường; thực hiện tiến
bộ, công bằng xã hội trong từng bước, từng chính
sách phát triển. Phát huy vai trò làm chủ của nhân
dân trong phát triển kinh tế - xã hội” [5]. Như
vậy, đến Đại hội XII quan điểm lý luận về kinh tế
thị trường định hướng XHCN là nền kinh tế thị
trường hiện đại và hội nhập quốc tế. Đây là luận
điểm khẳng định tính phổ quát, tiến bộ, phù hợp với
xu thế tiến bộ của nhân loại, lấy chuẩn mực, giá trị
chung của kinh tế thị trường thế giới để làm thước
đo cho từng giai đoạn phát triển, đồng thời khẳng
định xu thế hội nhập của nền kinh tế Việt Nam.
4. Bài học kinh nghiệm xây dựng, hoàn thiện
thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa ở Việt Nam
Việc hoàn thiện hệ thống quan điểm lý luận và
việc vận dụng mô hình kinh tế thị trường định
hướng XHCN ở Việt Nam đã đạt được những thành
tựu đáng ghi nhận, tuy nhiên việc hoàn thiện thể
chế thực hiện còn chậm, chưa đồng bộ cả về pháp
luật cũng như cơ chế. Vì vậy, thể chế kinh tế thị
trường định hướng XHCN chưa tạo ra động lực cho
phát triển cao và bền vững. Từ thực tiễn ở Trung
Quốc và Việt Nam thời gian qua, việc hoàn thiện
thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt
Nam cần tập trung vào các vấn đề cốt lõi sau:
Một là, giữ vững định hướng và kiên trì xây
dựng, hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường XHCN.
Từ kinh nghiệm của Trung Quốc, đây là
chiến lược “bubian” (bất biến). Tích cực tìm kiếm
con đường cải cách mở cửa dưới các điều kiện của
kinh tế thị trường để xây dựng văn minh vật chất
và tinh thần của CNXH, thúc đẩy sự phát triển
toàn diện, phát triển hài hòa văn minh sinh thái,
phòng ngừa tất cả các yếu tố có thể ảnh hưởng đến
sự phát triển chung của xã hội. Từ kinh nghiệm
của Trung Quốc và thực tiễn ở Việt Nam có thể
khẳng định: Việc nhận thức đúng đắn về hoàn
thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN
Chuyên mục: Khoa học xã hội và hành vi - TẠP CHÍ KINH TẾ & QUẢN TRỊ KINH DOANH SỐ 13 (2020)
6
là chìa khóa đột phá cho sự phát triển. Nền kinh tế
thị trường định hướng XHCN mà nước ta xây
dựng là nền kinh tế vận hành đầy đủ, đồng bộ theo
các quy luật của kinh tế thị trường, đồng thời bảo
đảm định hướng XHCN phù hợp với từng giai
đoạn phát triển của đất nước; là nền kinh tế thị
trường hiện đại và hội nhập quốc tế; có sự quản lý
của Nhà nước pháp quyền XHCN, do Ðảng Cộng
sản Việt Nam lãnh đạo, nhằm mục tiêu "Dân giàu,
nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh".
Hai là, Việt Nam cần đẩy nhanh việc xây dựng
các đặc khu kinh tế làm nơi thử nghiệm các quyết
sách về thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN.
Kinh nghiệm này là kết tinh, quyết tâm của Đảng
Cộng sản Trung Quốc không ngừng tìm tòi, thực
hiện tư tưởng đổi mới, đặc biệt là sự ủng hộ mạnh
mẽ đối với việc mở cửa đón đầu tư nước ngoài. Từ
tư tưởng đó để đề ra những quyết sách ưu đãi, đó là
những khâu quan trọng nhất. Trong đó, việc nhà
nước trao quyền tự chủ cho các đặc khu được xem
như biện pháp mấu chốt, cho phép hoàn toàn độc lập
về tài chính với Trung ương và có quyền đề ra những
ưu đãi riêng đối với các nhà đầu tư.
Ba là, kiên trì giữ vững phương thức mở cửa
và thực nghiệm, hoàn thiện thể chế về kinh tế đối
ngoại, hội nhập kinh tế quốc tế. Đối với Việt Nam
cần rà soát, điều chỉnh, bổ sung hệ thống pháp luật
và các thiết chế, cơ chế liên quan đáp ứng yêu cầu
thực hiện các cam kết quốc tế. Thực hiện nhất
quán chủ trương đa phương hóa, đa dạng hóa
trong hợp tác kinh tế quốc tế, không để lệ thuộc
vào một số ít thị trường. Nâng cao năng lực cạnh
tranh quốc gia, tiềm lực của các doanh nghiệp
trong nước. Quá trình đẩy mạnh mở cửa tiếp cận
quốc tế sẽ kéo theo đổi mới, sáng tạo trong thể
chế, thu hút công nghệ tiên tiến và phương pháp
quản lý hiện đại để xây dựng chính sách kinh tế
định hướng xuất khẩu.
Bốn là, xây dựng thể chế, cơ chế linh hoạt,
thể chế, cơ chế là linh hồn của sự phát triển kinh
tế. Nếu không có thể chế, cơ chế tốt, ưu việt, phù
hợp, linh hoạt trong từng thời kỳ thì không thể thu
hút đầu tư, thu hút nhân tài, không thể "Mượn gà
đẻ trứng", qua đó sức sáng tạo trong đổi mới
không thể phát huy hữu hiệu. Đối với Việt Nam
cần: Tiếp tục hoàn thiện thể chế về sở hữu, phát
triển các thành phần kinh tế, các loại hình doanh
nghiệp; hoàn thiện thể chế phát triển đồng bộ các
yếu tố thị trường và các loại thị trường; hoàn thiện
thể chế hệ thống pháp luật, đảm bảo nhất quán
giữa luật pháp và thực thi luật pháp, nâng cao tính
công khai, minh bạch trong các hoạt động kinh tế,
giữa các chủ thể kinh tế.
Năm là, đẩy mạnh xây dựng, hoàn thiện thể
chế bảo đảm thực hiện tiến bộ và công bằng xã
hội. Mục đích của xây dựng thể chế kinh tế thị
trường là giải phóng và phát triển lực lượng sản
xuất, mục đích căn bản của phát triển lực lượng
sản xuất là cần nang cao mức sống của toàn thể
nhân dân. Do vậy, phải thúc đẩy phân phối thu
nhập ngày càng hợp lý hơn, bảo đảm cải thiện dân
sinh trong quá trình phát triển. Cần phải xử lý thỏa
đáng mối quan hệ giữa lợi ích căn bản của nhân
dân với lợi ích của Nhà nước, lợi ích của chủ thể
sản xuất kinh doanh. Vì vậy phải tiến tới đảm bảo
công bằng xã hội đây là điều kiện, động lực để
nhân dân chung sức xây dựng nền kinh tế phát
triển. Đại hội Đảng lần thứ IX đã chỉ rõ: “Thực
hiện các chính sách xã hội hướng vào phát triển
và lành mạnh hóa xã hội, thực hiện công bằng
trong phân phối, tạo động lực mạnh mẽ phát triển
sản xuất, tăng năng suất lao động xã hội, thực hiện
bình đẳng trong các quan hệ xã hội, khuyến khích
nhân dân làm giầu hợp pháp” [4].
Sáu là, hoàn thiện thể về vai trò lãnh đạo của
Ðảng, vai trò xây dựng và thực hiện thể chế kinh
tế của Nhà nước.
Hoàn thiện thể chế về vai trò lãnh đạo của
Đảng là nhân tố quyết định đảm bảo tính định
hướng XHCN của quá trình xây dựng, phát triển
kinh tế thị trường theo định hướng XHCN ở Việt
Nam. Kinh nghiệm từ Trung Quốc đó là cần phải
luôn kiên trì sử dụng đồng thời “bàn tay hữu hình”
và “bàn tay vô hình”. Cải cách thể chế kinh tế là
trọng điểm của đi sâu cải cách toàn diện, vấn đề
cốt lõi là xử lý tốt mối quan hệ giữa Nhà nước và
thị trường, làm cho thị trường đóng vai trò quyết
định trong phân bổ nguồn lực. Thúc đẩy việc phân
bổ nguồn lực thực hiện tối đa hóa hiệu ích và tối
ưu hóa hiệu suất theo quy tắc thị trường, giá cả thị
trường, cạnh tranh thị trường. Bảo đảm sự phối
hợp hiệu quả giữa Nhà nước (các cấp chính
quyền) và thị trường; nhà nước và doanh nghiệp;
Chuyên mục: Khoa học xã hội và hành vi - TẠP CHÍ KINH TẾ & QUẢN TRỊ KINH DOANH SỐ 13 (2020)
7
nhà nước và dân cư trong tổ hợp: Nhà nước – Thị
trường – Doanh nghiệp – Dân cư.
5. Kết luận
Kinh tế thị trường là một thể chế kinh tế, một
hệ thống các lực lượng kinh tế và các chủ thể kinh
tế, một nền kinh tế mở, xem đó như một thành tố
cấu trúc nền tảng, nội tại của hệ thống kinh tế - xã
hội, tạo thành hệ thống kinh tế - xã hội phát triển
theo hướng đi lên CNXH. Một mặt, vừa khai thác
tính tích cực của kinh tế thị trường. Mặt khác, sử
dụng vai trò của nhà nước cũng cần thấy mặt tích
cực, chủ động của nhà nước, đồng thời phải hết
sức đề phòng mặt “tha hóa” tiêu cực của Nhà
nước. Do vậy, vấn đề cốt lõi ở Việt Nam hiện nay
là phải xây dựng và hoàn thiện hệ thống thể chế
kinh tế thị trường, để đảm phát huy được tính năng
động hiệu quả của nó, đồng thời cũng phải bảo
đảm được tính định hướng XHCN. Về lý luận
kinh tế thị trường định hướng XHCN có những
nét trong Chính sách kinh tế mới (NEP) của
Lênin, lại hoàn toàn phù hợp với xu thế phát triển
kinh tế XHCN ở Việt Nam trong công cuộc đổi
mới. Thành tựu phát triển kinh tế ở Việt Nam thời
gian qua đã chứng minh điều đó.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1]. Chen Jiaxi - Huang Weiping. (2010). Phát triển chính trị đặc khu kinh tế Thâm Quyến Trung Quốc
1980 – 2010. Tạp chí Nhà sách thương vụ Trung Quốc, số 9, tr. 120, 170, 150.
[2]. Đảng Cộng sản Việt Nam. (1991). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII, tr. 66. Hà Nội:
Nhà xuất bản Chính trị quốc gia.
[3]. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Nxb. Chính trị quốc gia,
H.1996, tr.72.
[4]. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb. Chính trị quốc gia,
H. 2001, tr.86-88, 108.
[5]. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb. Chính trị quốc gia.
H. 2016, tr.25.
[6]. Fan Gang. (2009). Nghiên cứu đặc khu kinh tế Trung Quốc – Lý luận và thực tiễn hôm qua và ngày
mai, tr.10, 90, Bắc Kinh: Nhà xuất bản Kinh tế Trung Quốc.
[7]. Tao Yitao – Zhong Jian. (2011). Báo cáo phát triển đặc khu kinh tế Trung Quốc, tr.30. Bắc Kinh:
Nhà xuất bản Khoa học xã hội Trung Quốc.
Thông tin tác giả:
1. Hứa Thanh Bình
- Đơn vị công tác: Bộ môn Lý luận Chính trị - Trường Đại học Y Dược – Đại
học Thái Nguyên;
2. Trần Huy Ngọc
- Đơn vị công tác: Trường Đại học Kinh tế & Quản trị Kinh doanh
- Địa chỉ email: tranhuyngoc@tueba.edu.vn
3. Lê Chí Trung
- Đơn vị công tác: Khoa Lý luận Cơ sở - Trường Chính trị tỉnh Thái Nguyên
Ngày nhận bài: 07/05/2020
Ngày nhận bản sửa: 25/06/2020
Ngày duyệt đăng: 30/06/2020
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- dac_khu_kinh_te_cua_trung_quoc_voi_viec_xay_dung_the_che_kin.pdf