Theo Delsman (1931) cho rằng cá
cơm sọc xanh đẻ trứng vào ban đêm, trong
nghiên cứu này thu mẫu vào sáng sớm thì
trứng đã phát triển đến giai đoạn II, như
vậy có thể thấy trứng được đẻ vào ban đêm
và đã trải qua khoảng thời gian để phát
triển phôi. Kết quả nuôi cho thấy thời gian
ấp trứng loài cá cơm sọc xanh từ khi trứng
được thụ tinh có thể là 30-35 giờ và thời
gian hấp thu hết noãn hoàng là 10 - 12 giờ
phụ thuộc vào điều kiện nhiệt độ.
Một số trứng không nở được bị chết
sau thời gian nuôi, trong đó có một số
trứng không nở nhưng phôi vẫn hấp thu hết
noãn hoàng, phôi phát triển khá dài là
trường hợp bất bình thường, theo kết quả
điều tra của Nguyễn Quốc Khánh và Trần
Thị Lan (2009) về hiện tượng nhiễm vật kí
sinh (tảo hai roi) trong trứng cá ở vịnh Nha
Trang cho thấy có từ 12,9-75,6% trứng cá
bị nhiễm vật kí sinh và làm cho phôi nở bị
chết, hiện tượng nội ký sinh cũng được
quan sát thấy ở trứng cá mối
(Synodontidae), khi nuôi và quan sát cùng
đợt với trứng cá cơm sọc xanh, tuy nhiên
chưa thấy được sinh vật ký sinh trên trứng
cá cơm sọc xanh. Đây là vấn đề cần được
nghiên cứu thêm.
LỜI CẢM ƠN
Công trình này hoàn thành từ hỗ trợ
kinh phí của dự án Việt –Đức (2003-2005),
Đề tài cấp Nhà Nước KC.09.03/06-10 và
dự án ClimeeViet.
9 trang |
Chia sẻ: honghp95 | Lượt xem: 748 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đặc trưng hình thái và ảnh hưởng nhiệt độ lên phát triển phôi của trứng loài cá cơm sọc xanh (ecrasicholina punctifer), để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
99
Tuyển Tập Nghiên Cứu Biển, 2010, XVII: 99-107
ĐẶC TRƯNG HÌNH THÁI VÀ ẢNH HƯỞNG NHIỆT ĐỘ LÊN PHÁT TRIỂN
PHÔI CỦA TRỨNG LOÀI CÁ CƠM SỌC XANH (Ecrasicholina punctifer)
Võ Văn Quang, Trần Thị Lê Vân
Viện Hải dương học
Tóm tắt Trứng cá cơm sọc xanh đẻ ngoài tự nhiên là trứng nổi lơ lửng trong nước có
dạng hình êlip, chiều dài trứng từ 0,93 - 1,39mm, trung bình 1,23mm, chiều
rộng từ 0,48 - 0,72mm. Màng trứng nhẵn trơn, trong suốt. Noãn hoàng dạng
khe rùa, cũng có dạng hình êlip dài 0,81 -1,08mm, rộng 0,39 -0,57mm.
Trứng trải qua các giai đoạn phát triển từ lúc mới được thụ tinh, noãn hoàng
chiếm hầu hết thể tích trứng, chưa xuất hiện khe noãn hoàng và màng noãn
hoàng, sau đó trứng có các tế bào phân cắt xuất hiện ở cực động vật và xuất
hiện khe noãn hoàng. Các tế bào phân cắt và lan dần xuống hình thành vòng
phôi quanh noãn hoàng và phát triển bao lấy noãn hoàng. Khi phát triển đến
giai đoạn cuối, thể phôi bao gần hết noãn hoàng, xuất hiện các màng vây
lưng, vây hậu môn và vây đuôi, mầm vây ngực. Trên thân phôi và mắt chưa
có sắc tố, trứng chuẩn bị nở. Sau khoảng 4 giờ ở điều kiện 31oC trứng phát
triển đến giai đoạn IV, nhưng ở 26oC thì sau 6 giờ. Trứng nở sau 6 giờ nuôi
ở điều kiện 31oC đến 8 giờ tỉ lệ trứng nở lên đến 40%; ở điều kiện 26oC đến
8 giờ trứng mới bắt đầu nở. Sau 23 giờ nuôi ở lô thí nghiệm 31oC trứng đã
nở hết, ở lô thí nghiệm 26oC thời gian nở kéo dài đến 26 giờ mới kết thúc, tỉ
lệ trứng nở trung bình sau 23 giờ nuôi ở điều kiện 31oC là 63,33%, ở 26oC là
52,50%. Kiểm chứng sự sai khác giữa 02 lô thí nghiệm về ảnh hưởng nhiệt
độ lên tỉ lệ trứng nở theo thời gian bằng phép thử ANOVA cho thấy có sự sai
khác rõ rệt với Ftính toán= 8,3> Fα=5,3.
MORPHOLOGY AND INFLUENCE OF TEMPERATURE ON EMBRYONIC
DEVELOPMENT OF RED ANCHOVY EGGS (Ecrasicholina punctifer)
Vo Van Quang, Tran Thi Le Van
Institute of Oceanography
Abstract Red anchovy egg spawning in the wild is an isolated pelagic with elliptical
form, the egg size is 0.93-1.39mm, average 1.23mm in length and 0.48 -
0.72mm in width. The egg membrane is transparent and smooth, with no oil
globule. The yolk is roughly segmented and also has long elliptical form, the
length ranges 0.81 - 1.08mm, the width ranges 0.39 - 0.57mm. The eggs
have been spent the stages of development after fertilization. The yolk
distributed throughout the egg, not yet matched the perivitelline space yolk,
then the fish eggs cleaved cells appearing in the extreme of the perivitelline
space yolk and egg membrane. The cells were cleaved and spread down to
the embryo ring and wrapped the yolk. At the end stage of embryo
development, the germ appeared membrane of dorsal, anal and tail fins and
bud of pectoral fin with eyes without pigment and eggs were prepared to
hatch. The egg development to stage IV was after about 4 hours at 31oC, but
it was after 6 hours at 26oC. The eggs were hatched after 6 hours of cultured
conditions and until 8 hours hatching rates got up to 40% for 31oC and the
100
hatching of egg were started after 8 hours at 26oC. After 23 hours of culture
in test plots, eggs were hatched completely at 31oC. The average hatching
rate after 23 hours was 63.33% at 31oC and 52.50% at 26oC. The verification
of the difference between two experimental plots of temperature effects on
hatching rate over time by ANOVA test showed significant difference with
FCalculated = 8.3> Fα= 5.3 (p<0.05).
I. MỞ ĐẦU
Họ cá trổng (Engraulidae) trên thế
giới bao gồm 16 giống và 139 loài
(Nelson, 2006) tìm thấy hầu hết ở vùng
nước nông ven bờ và cửa sông của biển
ôn đới và nhiệt đới. Cá cơm (giống
Stolephorus và Encrasicholina) là một
trong mười nhóm cá có sản lượng lớn trong
vùng biển các quốc gia Đông Nam Á, sản
lượng khai thác trong năm 2006 là 259,9
ngàn tấn (Lungren và cs., 2006). Cá
cơm sọc xanh (Encrasicholina punctifer,
synonym là Stolephorus zollengeri), là loài
cá nổi nhỏ sống ven bờ có sản lượng khai
thác khá lớn, có giá trị kinh tế, chúng được
chế biến thành nước mắm, phơi khô hoặc
ăn tươi. Theo Nguyễn Văn Lục (1997) loài
cá cơm sọc xanh thường tập trung nhiều ở
gần vùng nước trồi biển Nha Trang, Phan
Rang, Phan Rí, Phan Thiết.
Một số loài đã được chú ý nghiên
cứu như Engraulis mordax Girard hoặc
Anchoa mitchilli (Valenciennes) (Moser &
Ahlstrom, 1985; Morton, 1989), nhưng có
rất ít các công trình nghiên cứu sự phát
triển phôi trứng của các loài cá cơm vùng
nhiệt đới. Trước đây có một số công trình
nghiên cứu về mặt phân loại các loài cá
cơm phân bố ở vùng nhiệt đới, Delsman
(1931) có công trình nghiên cứu tương đối
cơ bản, đã mô tả trứng cá và cá bột giống
cá cơm Stolephorus ở vùng biển Java
(Indonesia). Fursa (1969) đã xác định trứng
của 02 loài Stolephorus zollengeri và
Stolephorus heterolobus ở bờ tây Ấn Độ.
Năm 1971, Bensam dựa vào đặc điểm hình
thái trứng và phát triển phôi có bảng định
tên trứng và cá bột giống Anchoviella
(synonym của giống Stolephorus). Trong
các tài liệu nghiên cứu gần đây chỉ thấy có
loài cá cơm Nhật (Engraulis japonicus) đã
được nghiên cứu tương đối đầy đủ ở vùng
biển Nhật Bản, Đài Loan, Hàn Quốc Ở
Việt Nam có công trình của Nguyễn Hữu
Phụng (1978) về hình thái trứng, mùa vụ
và khu vực xuất hiện của trứng giống cá
cơm Anchoviella gồm 4 loài ở vùng biển
Quảng Ninh-Hải Phòng. Trứng cá cơm đã
được thu tương đối nhiều trong các vùng
biển Việt Nam, khi khảo sát sự xuất hiện
và biến động trứng cá cơm sọc xanh
(Stolephorus zollengeri) cho thấy trứng
được đẻ quanh năm (Võ Văn Quang và
Trần Thị Lê Vân, 2005).
Tuy nhiên các công trình nghiên cứu
về phân loại trứng cá cơm sọc xanh chỉ tập
trung vào mô tả hình thái trứng và xác định
loài mà chưa mô tả chi tiết các giai đoạn
phát triển của phôi và ảnh hưởng nhiệt độ
lên quá trình đó. Bài báo này trình bày chi
tiết về hình thái các giai đoạn phát triển của
trứng và ảnh hưởng của nhiệt độ lên quá
trình ấp, nở và tỉ lệ chết của phôi loài cá
cơm sọc xanh (Encrasicholina punctifer).
II. TÀI LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP
1. Thu thập mẫu vật và định loại:
Các chuyến khảo sát hợp tác Việt –
Đức (2003-2005), KC09.03/06-10 và dự án
ClimeeViet. Mẫu được thu bằng các loại
lưới sau:
Lưới tầng mặt (TM): có dạng hình
chóp tứ giác, dùng vớt mẫu ở tầng mặt.
Miệng lưới hình chữ nhật: có chiều dài
90cm, rộng 56cm, diện tích miệng lưới
0,5m2. Chiều dài toàn bộ là 269cm. Dùng
vải lưới số 22 (1cm chiều dài có 21-22 lỗ,
1cm2 có 460 lỗ mắt lưới), kích thước mỗi
mắt lưới là 330µm. Lưới được kéo trên
tầng mặt với vận tốc 2 – 4 km/giờ.
Lưới hình chóp, có đường kính
miệng lưới 80 và 50cm, bằng vải lưới số
15, kích thước lỗ lưới 500µm, diện tích
101
miệng lưới 0,5m2 và 0,2m2, lưới được kéo
thẳng đứng bằng tay từ đáy lên tầng mặt,
tốc độ kéo lưới 0,5m/s.
Sau khi kéo lưới lên dùng nước biển
rửa mặt ngoài lưới cho mẫu trôi xuống ống
đáy. Mẫu cho vào lọ được cố định bằng
dung dịch formol pha nước biển 5%, mỗi
mẫu đều có ghi ký hiệu mẫu.
Trứng cá cơm sọc xanh (Encra-
sicholina punctifer) được định loại dựa trên
các tài liệu của Delsman (1931); Nguyễn
Hữu Phụng (1978). Mô tả các giai đoạn
phát triển phôi theo Rass (1972).
2. Nuôi ấp trứng trong phòng thí
nghiệm:
Trứng nuôi được thu bằng lưới tầng
mặt (TM) ở vịnh Nha Trang vào lúc sáng
sớm nhằm thu được trứng ở giai đoạn đầu.
Nhiệt độ nước tầng mặt tại vị trí thu mẫu là
25,8oC và độ mặn 33,2‰. Mẫu được giữ
sống sau đó được đưa về phòng thí nghiệm,
trứng được nhặt ra khỏi sinh vật phù du,
quá trình nhặt diễn ra trong vòng 30 phút.
Thí nghiệm theo dõi ảnh hưởng nhiệt
độ theo Lo (1983), thực hiện 02 lô thí
nghiệm nhiệt độ 31oC và 26oC, mỗi lô gồm
4 đĩa pectri có đường kính 30mm, mỗi đĩa
chứa 200ml nước biển được lọc sạch. Mỗi
đĩa cho vào 30 trứng cá có giai đoạn phát
triển như nhau (giai đoạn II), phôi đã bao
được hơn 50% noãn hoàng. Trứng được
theo dõi sự phát triển hình thái phôi mỗi 3
giờ nuôi. Quan sát và đếm tỉ lệ nở sau 6, 8,
10, 13, 23 và 26 giờ nuôi và thời gian hấp
thu hết noãn hoàng sau khi trứng nở ở 2 lô
thí nghiệm.
3. Xử lý số liệu:
Số liệu được xử lý sơ bộ trên chương
trình phần mềm Excel và vẽ biểu đồ, thống
kê bằng GraphPad Prism 5 để so sánh giữa
2 lô thí nghiệm. Kiểm chứng sự sai khác
giữa 02 lô thí nghiệm về ảnh hưởng nhiệt
độ lên tỉ lệ trứng nở theo thời gian bằng
phép thử ANOVA.
III. KẾT QUẢ
1. Đặc điểm hình thái trứng cá:
Trứng đẻ ngoài tự nhiên là trứng nổi
lơ lửng trong nước, có dạng hình êlip,
chiều dài trứng từ 0,93 - 1,39mm, trung
bình 1,23mm, chiều rộng từ 0,48 -
0,72mm. Màng trứng nhẵn trơn, trong suốt.
Noãn hoàng dạng khe rùa, cũng có dạng
hình êlip dài 0,81 - 1,08mm, rộng 0,39 -
0,57mm.
Trứng được chia thành 4 giai đoạn
phát triển chính như sau:
Giai đoạn I. Trứng được thụ tinh đến
khi trên cực động vật của noãn hoàng xuất
hiện vòng phôi, còn chia ra 2 thời kỳ:
- Thời kỳ Ia: Trứng có 1 đến 8 tế bào
phôi: Ở giai đoạn này trứng mới được thụ
tinh, noãn hoàng chiếm hầu hết thể tích
trứng, chưa xuất hiện khe noãn hoàng và
màng noãn hoàng, hình thái giống với
trứng chín mùi ở tuyến sinh dục giai đoạn
cá đẻ (giai đoạn V) (Hình 1a).
-Thời kỳ Ib: Trứng có các tế bào
phân cắt xuất hiện ở cực động vật, đã xuất
hiện khe noãn hoàng và màng noãn hoàng,
bắt gặp trứng có 16 tế bào đến xuất hiện
vòng phôi ở cực động vật (Hình 1b). Trứng
tiếp tục phát triển các tế bào phân cắt hình
thành phôi dâu và vòng phôi lan xuống bao
lấy noãn hoàng (Hình 1c).
Giai đoạn II. Mầm phôi. Vòng phôi
bao đến 1/2 noãn hoàng, đầu phôi xuất
hiện, trứng đã sang thời kỳ phôi vị, phôi đã
bao được 1/2 noãn hoàng (Hình 1 d-e) cho
đến khi vòng phôi nhỏ lại ở cực thực vật.
Giai đoạn III. Thể phôi phát triển, dài
ra. Các cơ quan phôi lần lượt xuất hiện,
nhìn thấy rõ thể phôi, mầm mắt đã hình
thành, trên lưng phôi nhìn thấy rõ cơ phân
đốt, vòng phôi biến mất, đuôi phôi đã hình
thành, về sau đuôi phôi tách khỏi noãn
hoàng, thân phôi đã bao trên 3/4 noãn
hoàng (Hình 1 f-g).
Giai đoạn IV. Phôi hoàn thành. Thể
phôi đã bao gần hết noãn hoàng, có các
màng vây lưng, vây hậu môn và vây đuôi,
xuất hiện mầm vây ngực. Trên thân phôi và
mắt chưa có sắc tố. Trứng chuẩn bị nở
(Hình 1 h-j). Trứng nuôi từ giai đoạn II đến
giai đoạn IV mất 5 giờ, từ giai đoạn IV đến
khi nở là 4 giờ.
102
Hình 1. Các giai đoạn phát triển trứng: - Các hình a-c, trứng ở giai đoạn I: a. Trứng mới đẻ, b.
Trứng phân cắt 16 tế bào, c. Phôi dâu; - Các hình d-e, trứng ở giai đoạn II: d. Vòng phôi bao ½
noản hoàng, e. Phôi bao ½ noản hoàng; - Các hình f-g, trứng ở giai đoạn III: f. Phôi bao hơn ½
noản hoàng, g. phôi bao gần ¾ noản hoàng; - Các hình h-j, trứng ở giai đoạn IV: h. Đuôi phôi
chiếm 1/5 noản hoàng, i. Đuôi phôi chiếm ¼ noản hoàng, j. Phôi đang nở. Các thước tỉ lệ = 0,1
mm.
Fig. 1. Developmental stages of egg: - Figs a-c, eggs at stage I: a. After spawning, b. Cleaved into
16 cells, c. Morula; - Figs d-e, eggs at stage II: d. Embryo ring wrapped a half of yolk, e. Embryo
wrapped a half of yolk; - Figs f-g, eggs at stage III: f. Embryo wrapped over a half of yolk, g.
Embryo wrapped about 3/4 of yolk; - Figs h-j, Eggs at stage IV: h. Embryo tail occupied 1/5 of
yolk, i. Embryo tail occupied ¼ of yolk, j. Hatching. Scale bars = 0,1 mm.
103
2. Ảnh hưởng nhiệt độ lên phát triển
phôi trứng cá nuôi trong phòng thí
nghiệm:
Trứng tự nhiên được thu mẫu và nuôi
trong phòng thí nghiệm trên hai nghiệm
thức ở nhiệt độ 26oC và 31oC và độ mặn
giống nhau là 33,2‰; trứng đã phát triển ở
giai đoạn II, thể phôi đã bao 50% noãn
hoàng. Sau khi nuôi khoảng 4 giờ ở điều
kiện 31oC trứng phát triển đến giai đoạn
IV, nhưng ở 26oC thì sau 6 giờ trứng mới
phát triển đến giai đoạn IV. Theo dõi tỉ lệ
nở sau 6, 8, 10, 13, 23 và 26 giờ nuôi, cho
thấy sau 6 giờ nuôi ở điều kiện 31oC trứng
bắt đầu nở, đến 8 giờ tỉ lệ trứng nở lên đến
40%; trong khi đó ở điều kiện 26oC đến 8
giờ trứng mới bắt đầu nở. Sau 23 giờ nuôi
ở lô thí nghiệm 31oC trứng đã nở hết, còn
lại là trứng bị chết, trong khi đó ở lô thí
nghiệm 26oC thời gian nở kéo dài đến 26
giờ mới kết thúc, tỉ lệ trứng nở trung bình
sau 23 giờ nuôi ở điều kiện 31oC là
63,33%, ở 26oC sau 26 giờ nuôi là 52,50%
(Hình 2). Kiểm chứng sự sai khác giữa 02
lô thí nghiệm về ảnh hưởng nhiệt độ lên tỉ
lệ trứng nở theo thời gian bằng phép thử
ANOVA cho thấy có sự sai khác rõ rệt với
Ftính toán= 8,3> Fα=5,3.
Sau 23 giờ nuôi ở lô thí nghiệm nhiệt
độ 31oC trứng không nở được đều bị chết,
trong đó có một số trứng không nở nhưng
phôi vẫn phát triển về chiều dài, hấp thu
hết noãn hoàng, mắt phát triển, màng vây
hình thành, sau một thời gian phôi chết,
hiện tượng này cũng quan sát thấy ở lô thí
nghiệm nhiệt độ 26oC (Hình 3).
So sánh khoảng thời gian ấp của
trứng từ khi vớt (gian đoạn II) đến khi bắt
đầu nở ở hai điều kiện ấp nhiệt độ 26oC và
31oC, cho thấy ở điều kiện ấp nhiệt độ
26oC thời gian kéo dài hơn, trung bình mất
8 giờ 48 phút trứng bắt đầu nở so với 5 giờ
38 phút ở điều kiện ấp với nhiệt độ 31oC,
như vậy nhiệt độ ảnh hưởng rõ ràng lên
quá trình phát triển phôi của trứng cá, phôi
phát triển chậm hơn ở nhiệt độ thấp hơn
(Hình 4).
Hình 2. Tỉ lệ trứng nở (%) sau thời gian nuôi (giờ) ở nhiệt độ 31oC và 26oC
Fig. 2. The rate of hatching eggs (%) after culture time (hour) at 31oC and 26oC
104
Hình 3. Trứng không nở, phôi vẫn phát triển và hấp thu noãn hoàng
Fig. 3. Eggs were not hatched, embryo still developed and absorbed the yolk
Hình 4. Thời gian ấp trung bình từ giai đoạn II đến khi nở của 2 lô thí nghiệm
Fig. 4. The average time of incubation from stage II until the eggs hatched at
two experimental plots
Mặt dù thời gian ấp kéo dài hơn ở lô
thí nghiệm 26oC, nhưng tỉ lệ ấu trùng nở ra
bị chết thấp hơn lô thí nghiệm 31oC; tương
ứng 6,67% và 28,33% (Hình 5). Như vậy
có thể thấy ở mức nhiệt độ 31oC làm tăng
nhanh quá trình phát triển phôi nhưng gây
nên tỉ lệ chết cao hơn.
Trứng sau khi nở được theo dõi quá
trình hấp thu noãn hoàng của cá bột ở hai
điều kiện thí nghiệm là 26oC và 31oC, cũng
thấy rằng thời gian cá bột hấp thu hết noãn
hoàng nuôi trong điều kiện nhiệt độ 31oC
là ngắn hơn với 10 giờ 15 phút so với 12
giờ 04 phút ở lô thí nghiệm 26oC (Hình 6).
105
Hình 5. Tỉ lệ ấu trùng chết sau khi nở của 2 lô thí nghiệm
Fig. 5. The rate of dead larvae after hatching at two experimental plots
Hình 6. Thời gian cá bột hấp thu hết noãn hoàng từ khi nở của 2 lô thí nghiệm
Fig. 6. The time when the fry absorbed entirely the yolk after hatching at two experimental plots
IV. THẢO LUẬN
Ảnh hưởng của nhiệt độ lên quá trình
phát triển phôi và thời gian nở của trứng đã
được nhiều tác giả đề cập. Bolin (1936)
nghiên cứu ảnh hưởng của nhiệt độ lên quá
trình phát triển phôi của cá cơm phương
bắc (Engraulis modax) và cho rằng trứng
từ khi thụ tinh đến khi nở là 2-4 ngày, phụ
thuộc vào nhiệt độ (Moser & Ahlstrom,
1985). Thời gian ấp của trứng được phân
tích trước tiên bởi Zweifel & Lasker (1976)
và họ đã tìm ra mối quan hệ rõ ràng của
yếu tố nhiệt độ, nhiệt độ cao thì thời gian
ấp trứng ngắn. Lo (1983) ước tính ảnh
hưởng nhiệt độ lên thời gian ấp trứng của
loài cá này dựa trên thí nghiệm nuôi và các
số liệu thực hiện trước đó tại Trung tâm
Nghề Cá Tây Nam (Southwest Fisheries
Center (SWFC)) cho thấy có mối tương
quan theo hàm logarit D= 18.726* e-0,125T
(với D là thời gian ấp, T là nhiệt độ ấp), ở
nhiệt độ 12,5oC thời gian ấp trứng loài cá
cơm phương bắc là hơn 4 ngày, ở 18oC
thời gian ấp là 2 ngày. Theo dõi chi tiết cho
từng giai đoạn phát triển và ảnh hưởng của
106
nhiệt độ khác nhau lên sự phát triển theo
từng giai đoạn cho thấy ở giai đoạn đầu
phát triển phôi (phân chia tế bào) ảnh
hưởng nhiệt độ không đáng kể nhưng từ
giai đoạn phôi vị ảnh hưởng nhiệt độ là rõ
rệt lên tiến trình phát triển phôi (Lo, 1985;
Zweifel & Lasker, 1976). Regner (1996)
nghiên cứu ảnh hưởng nhiệt độ lên thời
gian ấp trứng loài cá cơm Châu Âu
(Engraulis encrasicolus) cũng cho thấy ảnh
hưởng nhiệt độ lên thời gian ấp trứng là
hàm mũ: D = 1788.4199*T-2.290236. Ảnh
hưởng nhiệt độ lên thời gian ấp của loài
cá bơn phương nam (Paralichthys
lethostigma), cho thấy thời gian ấp đến
trứng nở là 109, 58, 39 và 30 giờ ở nhiệt độ
tương ứng 13, 17, 21, và 25°C (van
Maaren & Daniels, 2001). Trong thí
nghiệm này chúng tôi mới chỉ thực hiện
trên hai mức nhiệt độ, vì vậy cần có các thí
nghiệm trên nhiều mức nhiệt độ khác nhau
để xác định ngưỡng nhiệt độ thích hợp cho
phát triển phôi và cá bột.
Theo Delsman (1931) cho rằng cá
cơm sọc xanh đẻ trứng vào ban đêm, trong
nghiên cứu này thu mẫu vào sáng sớm thì
trứng đã phát triển đến giai đoạn II, như
vậy có thể thấy trứng được đẻ vào ban đêm
và đã trải qua khoảng thời gian để phát
triển phôi. Kết quả nuôi cho thấy thời gian
ấp trứng loài cá cơm sọc xanh từ khi trứng
được thụ tinh có thể là 30-35 giờ và thời
gian hấp thu hết noãn hoàng là 10 - 12 giờ
phụ thuộc vào điều kiện nhiệt độ.
Một số trứng không nở được bị chết
sau thời gian nuôi, trong đó có một số
trứng không nở nhưng phôi vẫn hấp thu hết
noãn hoàng, phôi phát triển khá dài là
trường hợp bất bình thường, theo kết quả
điều tra của Nguyễn Quốc Khánh và Trần
Thị Lan (2009) về hiện tượng nhiễm vật kí
sinh (tảo hai roi) trong trứng cá ở vịnh Nha
Trang cho thấy có từ 12,9-75,6% trứng cá
bị nhiễm vật kí sinh và làm cho phôi nở bị
chết, hiện tượng nội ký sinh cũng được
quan sát thấy ở trứng cá mối
(Synodontidae), khi nuôi và quan sát cùng
đợt với trứng cá cơm sọc xanh, tuy nhiên
chưa thấy được sinh vật ký sinh trên trứng
cá cơm sọc xanh. Đây là vấn đề cần được
nghiên cứu thêm.
LỜI CẢM ƠN
Công trình này hoàn thành từ hỗ trợ
kinh phí của dự án Việt –Đức (2003-2005),
Đề tài cấp Nhà Nước KC.09.03/06-10 và
dự án ClimeeViet.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Bensam, P. 1971. A preliminary review of
our knowledge on the early life
histories of Clupeiformes from Indian
waters with provisional keys for
identifying the eggs and early larvae.
Lar. Mer. Tom 9. No. 3: 158-167.
Bolin, R. L. 1936. Embryonic and early
larval stages of the California anchovy
Engraulis mordax Girard. Calif. Fish
Game, 22 (4): 314-321.
Caddell, S. M. 1988. Early life history
descriptions of the deepbody and
slough anchovies with comparisons
to the northern anchovy (Family
Engraulidae). Bulletin of marine
science, 42(2): 273-291.
Delsman, H. C. 1931. Fish eggs and larvae
from the Java Sea. 17. The genus
Stolephorus. Treubia, 13(2): 217 - 243.
Fursa, T. I. 1969. The characteristic
of composition and quantity of
ichthyoplankton in western coast of
India. Problems of ichthyology, 9(3):
497-507.
Jones, P. W, F. D. Martin, J. D. Hardy,
1978. Development of fishes of the
Mid-Atlantic Bight. An atlas of
egg, larval and juvenile stages.
Acipenseridae through Ictaluridae. Vol.
I. Fish and Wildlife Service. U.S
Department of the Interior, 153-166.
Lo, N. C. H. 1983. Re-examination of three
parameters associated with anchovy
egg and larval abundance: Temperature
dependent incubation time, yolk-sac
growth rate and egg and larval
retention in mesh nets. Natl. Mar. Fish.
107
Serv., NOAA, Southw. Fish. Cent., La
Jolla, CA, NOAA-TM-NMFS-SWFC-
31. 33 p.
Lo, N. C. H. 1985. A model for
temperature - dependent northern
anchovy egg development and an
automated procedure for the assign-
ment of age to staged eggs. In: R.
Lasker (editor), An egg production
method for estimating spawning
biomass of pelagic fish: application to
the northern anchovy, Engraulis
mordax. NOAA Tech. Rep. NMFS, 36:
43-50.
Lungren, R., D. Staples, S. Funge-Smith
and J. Clausen, 2006. Status and
potential of fisheries and aquaculture in
Asia and the Pacific 2006. Food and
Agriculture Organization of the United
Nations. Regional Office for Asia and
the Pacific. 62 pp.
Morton, T. 1989. Species profiles:
life histories and environmental
requirements of coastal fishes and
invertebrates (Mid - Atlantic) - Bay
anchovy. U. S. Fish Wildl. Serv.
Biol. Rep. 82(11.97). 13 pp.
Moser, G. H. and E. Ahlstrom, 1985.
Staging anchovy eggs. In: R. Lasker
(editor), An egg production method for
estimating spawning biomass of
pelagic fish: Application to the
northern anchovy, Engraulismordax.
NOAA Tech. Rep. NMFS, 36: 37 - 41.
Nelson, J. S. 2006. Fishes of the World,
4nd edition. New York: John Wiley &
Sons. 601p.
Nguyễn Hữu Phụng, 1978. Trứng cá cơm
(Anchoviella) ở ven biển Quảng Ninh –
Hải Phòng. Tuyển tập nghiên cứu biển.
I(1): 175 - 189.
Nguyễn Quốc Khánh và Trần Thị Lan,
2009. Hiện tượng lây nhiễm vật ký sinh
Dinoflagellata ở trứng cá và cá con ở
vịnh Nha Trang, Khánh Hòa. Trong:
Hội nghị khoa học toàn quốc về sinh
thái và tài nguyên sinh vật lần thứ ba.
Viện Sinh thái và Tài nguyên Sinh vật.
Nhà xuất bản Nông nghiệp, trang 1378-
1382.
Nguyễn Văn Lục, 1997. Một vài đặc trưng
sinh học cá biển vùng nước trồi mạnh
Nam Trung Bộ. Trong: Tuyển tập
nghiên cứu vùng nước trồi Nam Trung
Bộ, trang 192-203.
Rass, T. S. 1972. Ichthyoplantonk from
Cuban waters. Pelagic fish eggs.
Transactions of the PP Shirshov
Institute of oceanology. Academy of
science. USSR, 93: 5-41.
Regner, S. 1996. Effects of environmental
changes on early stages and repro-
duction of anchovy in the Adriatic Sea.
Scientia Marina, 60 (Supl. 2): 167-177.
Sponaugle, S. 2009. Daily otolith incre-
ments in the early stages of tropical
fish. In: Bridget S., Green B. S.,
Mapstone B. D., Carlos G. and Gavin
A.Begg G. A. (Editors), Tropical fish
otoliths: Information for assessment,
management and ecology. Reviews:
Methods and technologies in fish
biology and fisheries. Springer. Vol.
11: 93-132.
van Maaren, C. C. & H. V. Daniels, 2001.
Effects of temperature on egg hatch,
larval growth and metamorphosis for
hatchery-cultured southern flounder,
Paralichthys lethostigma. Journal of
Applied Aquaculture, Volume 11, Issue
1 & 2: 21 – 33.
Võ Văn Quang và Trần Thị Lê Vân, 2005.
Biến động mật độ trứng cá của loài cá
cơm sọc xanh (Stolephorus zollengeri
Bleeker, 1849) ở vùng biển vịnh Nha
Trang - Khánh Hòa. Tạp chí khoa học
và công nghệ biển. Phụ trương số 4
(T.5): 129-138.
Zweifel, J. R. & R. Lasker, 1976. Prehatch
and posthatch growth of fishes - A
general model. Fishery Bulletin, 74(3):
609-621.
Người nhận xét:
- PGS. TS. Nguyễn Hữu Phụng
- TS. Trương Sĩ Kỳ
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 11_vovanquang_trang_99_107_5787_2070873.pdf