Kết luận
Bình đẳng giới là việc nam, nữ có vị trí,
vai trò ngang nhau, được tạo điều kiện và cơ
hội phát huy năng lực của mình cho sự phát
triển của cộng đồng, của gia đình và thụ
hưởng như nhau về thành quả của sự phát
triển đó. Bình đẳng giới là một trong những
tiêu chí quan trọng để đánh giá sự phát triển
của một xã hội, một đất nước, tự nó là mục
tiêu của sự phát triển và là yếu tố hỗ trợ, nâng
cao khả năng tăng trưởng kinh tế và tiến bộ
xã hội của quốc gia. Việc đảm bảo cơ hội để
phụ nữ DTTS tiếp cận và tham gia, hưởng lợi
từ Chương trình MTQP phát triển kinh tế -
xã hội vùng DTTS và miền núi giai đoạn
2021-2030 cần phải được xác lập từ khâu
thiết kế, xây dựng, đến thực thi và giám sát,
đánh giá Chương trình. Đây chính là điều
kiện quan trọng để phụ nữ DTTS không bị
bỏ lại phía sau trong quá trình phát triển
8 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 20/01/2022 | Lượt xem: 269 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đảm bảo cơ hội cho phụ nữ dân tộc thiểu số tiếp cận và tham gia hiệu quả vào chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2021-2030, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Số 5(405) - T3/202036 NGHIÊN CỨULẬP PHÁP
CHÍNH SÁCH
đảm BảO cƠ hội chO phỤ nỮ dÂn Tộc ThiỂu Số TiẾp cận
vÀ Tham gia hiệu Quả vÀO chưƠng TRÌnh mỤc TiÊu
Quốc gia pháT TRiỂn Kinh TẾ - XÃ hội vÙng đỒng BÀO
dÂn Tộc ThiỂu Số vÀ miỀn nÚi giai đOạn 2021-2030
Bùi Thị Hòa*
* TS. Phó Chủ tịch Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam.
Thông tin bài viết:
Từ khóa: Dân tộc thiểu số, bình đẳng
giới, lồng ghép giới.
Lịch sử bài viết:
Nhận bài : 02/03/2020
Biên tập : 06/03/2020
Duyệt bài : 07/03/2020
Article Infomation:
Keywords: Ethnic minorities; gender
equality; gender integration.
Article History:
Received : 02 Mar. 2020
Edited : 06 Mar. 2020
Approved : 07 Mar. 2020
Tóm tắt:
Với việc đảm bảo lồng ghép giới theo quan điểm “Lồng ghép,
bảo đảm bình đẳng giới trong quá trình xây dựng và tổ chức thực
hiện Đề án”, Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế -
xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2021
- 2030 được Chính phủ chuẩn bị trình Quốc hội khóa XIV tại kỳ
họp thứ 9, với mục tiêu tổng quát: “thực hiện bình đẳng giới và
giải quyết những vấn đề cấp thiết đối với phụ nữ và trẻ em”1 sẽ
mở ra nhiều cơ hội để phụ nữ dân tộc thiểu số tiếp cận và tham
gia chương trình hiệu quả với vai trò vừa là chủ thể tham gia vừa
là đối tượng thụ hưởng chính sách. Bài viết chỉ ra những nguy
cơ bị bỏ lại phía sau của phụ nữ dân tộc thiểu số và đưa ra những
khuyến nghị về vấn đề lồng ghép giới trong Chương trình mục
tiêu quốc gia phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc
thiểu số và miền núi giai đoạn 2021-2030.
Abstract:
In accordance with the viewpoint of “Integration and assurance
of the gender equality in the process of formulation and
implementation of the Scheme”, the national target Program on
socio-economic development in the ethnic minorities and
mountainous areas for period of 2021-2030 developed by the
Government to submit to the 14th National Assembly at the 9th
meeting session, with the overall objectives: “to fulfill the gender
equality and to solve urgent issues for women and children” will
open up opportunities for ethnic minority women to access and
participate effectively in the Program as a participant and be
neficiary of the policy. This article provides an outline of the
potential challenges, by which the ethnic minority women being
left behind and also provides recommendations on gender
mainstreaming in the national target Program on socio-economic
development in the ethnic minorities and mountainous areas
period of 2021-2030.
1 Nghị quyết số 88/2019/QH 14.
37Số 5(405) - T3/2020
NGHIÊN CỨU
LẬP PHÁP
CHÍNH SÁCH
1. Đặt vấn đề
Trong nhiều năm qua, với sự quan tâm
của Đảng và Nhà nước, vùng dân tộc thiểu
số (DTTS) đã được tạo điều kiện để phát huy
nội lực và đạt được những kết quả tích cực
trong phát triển kinh tế - xã hội. Năm 2016,
tỷ lệ hộ nghèo theo chuẩn tiếp cận đa chiều
vùng DTTS và miền núi giảm khoảng 2% so
với năm 2015, 98% số người thoát nghèo
không bị tái nghèo. Nhìn chung, Việt Nam
đã có những thành tựu đáng ghi nhận trong
việc giảm bất bình đẳng trong xã hội, bao
gồm cả bình đẳng giới và bình đẳng giữa các
dân tộc. Mặc dù vậy, các con số thống kê
cũng cho thấy, Phụ nữ DTTS là nhóm có
nhiều nguy cơ tụt hậu hơn cả do tính dễ bị
tổn thương “kép” với đặc thù vừa là phụ nữ,
vừa là người DTTS2.
2. Phụ nữ DTTS với nguy cơ bị bỏ lại phía
sau
Phụ nữ DTTS gặp nhiều rủi ro bị ngoài
lề xã hội và đói nghèo hơn so với đàn ông
trong cùng cộng đồng và phụ nữ thuộc các
dân tộc đa số3. Báo cáo Tóm tắt về tình hình
phụ nữ và trẻ em gái dân tộc thiểu số ở Việt
Nam4 nhấn mạnh, trong cộng đồng người
dân tộc thiểu số, phụ nữ và trẻ em gái thường
là những đối tượng thiệt thòi hơn cả về khả
năng tiếp cận các cơ hội, nguồn lực và khả
năng nói lên tiếng nói của mình do các chuẩn
mực xã hội áp đặt vị trí thấp kém hơn cho
họ, giới hạn họ ở các hoạt động sinh con và
sản xuất hộ gia đình.
Phụ nữ và trẻ em gái DTTS khó tiếp cận
giáo dục và đào tạo. Kết quả Tổng Điều tra
dân số 2019 cho thấy khoảng cách giới lớn
nhất trong tỷ lệ biết đọc, biết viết thuộc về
khu vực Trung du và miền núi phía Bắc, đặc
biệt là các tỉnh Hà Giang, Cao Bằng, Bắc
Kạn, Lào Cai, Điện Biên, Lai Châu, Sơn La
với mức chênh lệch tối thiểu là 4.5 điểm
phần trăm (Bắc Kạn) và cao nhất lên tới 23.3
điểm phần trăm (Lai Châu), so với con số
trung bình cả nước là 2.4 điểm phần trăm.
Đây đều là các tỉnh tập trung đông DTTS,
với tỷ lệ người DTTS trên tổng dân số tỉnh
tối thiểu từ 66.21% (Lào Cai) trở lên5.
Trong đó, nhóm dân tộc Mông có tỷ lệ
cân bằng giới tính cấp tiểu học của trẻ em;
nhóm này chỉ bằng 0.95 thấp hơn mức cân
bằng tối thiểu là 0.97, đồng nghĩa với trẻ em
gái dân tộc Mông ít được đi học hơn so với
trẻ em nam cùng tộc6.
Ngoài ra, phụ nữ DTTS còn bị hạn chế
trong tiếp cận các lớp đào tạo nghề - nghiên
cứu của Ngô Quang Sơn khảo sát phụ nữ
DTTS tại ba tỉnh Tây Nam Bộ đã phát hiện
mặc dù phụ nữ DTTS có nhu cầu đào tạo
nghề cao (66.2%) nhưng chỉ có 12,2% được
tham gia khóa đào tạo nghề ở Trung tâm học
tập cộng đồng và dưới 10% tham gia các
Trung tâm GDTX, đào tạo nghề, THPT, và
đa số các khóa đào tạo nghề là ngắn hạn 3
tháng7.
2 Hội Liên hiệp phụ nữ Việt nam, Uỷ ban Dân tộc: “Để phụ nữ dân tộc thiểu số không bị bỏ lại phái sau”, Hà
Nội tháng 10/2019, tr.3.
3 Commission, E. (2008), Ethnic minority and Roma women in Europe: A case for gender equality?
4 UNWomen (2015), Tóm tắt về tình hình phụ nữ và trẻ em gái dân tộc thiểu số ở Việt Nam.
5 Tổng cục Thống kê (2019), Kết quả sơ bộ Tổng Điều tra Dân số và Nhà ở thời điểm 01/4/2019.
Bộ Kế hoạch và Đầu tư, UNICEF, “Trẻ em trong tiến trình phát triển ở Việt Nam- Chương trình nghị sự
phát triển bền vững 2030”, Hà Nội tháng 9 năm 2018.
6 Ngô Quang Sơn (2018), Nghiên cứu mô hình đào tạo nghề cho phụ nữ dân tộc thiểu số tại các xã đặc biệt
khó khăn ở khu vực Tây Nam Bộ, Việt Nam, Tạp chí Dân tộc học số 5, 71-79.
7 World Bank (2018), Tương lai việc làm ở Việt Nam dưới góc nhìn giới.
Số 5(405) - T3/202038 NGHIÊN CỨULẬP PHÁP
CHÍNH SÁCH
Phụ nữ DTTS khó tiếp cận các cơ hội
về việc làm trả lương; thu nhập thấp. Khó
khăn trong tiếp cận giáo dục đã dẫn tới tỷ
lệ phụ nữ DTTS làm công việc chuyên môn
kỹ thuật rất thấp, đa số làm công việc phổ
thông, giản đơn. Chỉ 17% phụ nữ DTTS có
việc làm được trả lương, kém 15 điểm phần
trăm so với nam giới cùng cộng đồng và
thấp hơn 5 điểm phần trăm so với nữ giới
thuộc dân tộc đa số. Thu nhập từ các công
việc được trả lương bình quân năm chỉ là
3.531 triệu đồng, thấp hơn 1.543 triệu so
với nam giới DTTS và 2.153 triệu so với
phụ nữ dân tộc đa số8. Ngoài những nguyên
nhân như hạn chế về vốn tiếng Việt và khả
năng sử dụng/sở hữu phương tiện giao
thông như xe máy, một phần nguyên nhân
quan trọng là do phân công lao động trong
gia đình đã và đang đặt gánh nặng quá lớn
lên vai người phụ nữ9 - phụ nữ thuộc một
số nhóm dân tộc thiểu số phải làm việc nhà
không lương đến chín giờ mỗi ngày so với
năm giờ ở phụ nữ Kinh10.
Vấn đề tảo hôn, hôn nhân cận huyết vẫn
tồn tại dai dẳng ở vùng DTTS và miền núi.
Tỷ lệ trẻ em kết hôn trước 18 tuổi ở người
DTTS cao gấp hơn nhiều lần so với người
Kinh (23,1% so với 9,2% ở người Kinh).
Theo Tổng Điều tra Dân số 2019, các dân
tộc Lô Lô, Mông, Khơ Mú, Xinh Mun, Hrê,
Gia Rai, Brâu là các dân tộc thiểu số có tỷ lệ
phụ nữ từ 20-24 tuổi kết hôn sớm cao nhất
cả nước, cá biệt như dân tộc Mông thì tỷ lệ
này lên tới 48%11. Tỷ lệ trẻ em gái DTTS
mang thai ở tuổi vị thành niên cao (116/1000
em tuổi 15-19). Hôn nhân cận huyết tuy đã
giảm nhưng ở một số dân tộc tỷ lệ này vẫn
cao: Mạ (4,41%), Mảng (4,36%), Mnông
(4,02%), Xtiêng (3,67%), có một số dân tộc
tỷ lệ này đến 10% (Lô Lô, Hà Nhìn, Phù Lá,
Chứt, Mông, Ê Đê, Chu ru, Pu péo, Si la, Rơ
măm, Bờ Râu,..)12.
Tiếp cận các dịch vụ y tế và chăm sóc
sức khỏe của phụ nữ và trẻ em DTTS còn
khoảng cách lớn. Theo báo cáo, vẫn còn
30,7% phụ nữ DTTS sinh con ở nhà so với
0.5% phụ nữ dân tộc Kinh; có tới 25 dân tộc
có tỷ lệ sinh con tại nhà chiếm gần 50%,
thậm chí có một số dân tộc, tỷ lệ sinh con tại
nhà lên tới 90% như La Ha, La Hủ, Si la, Lự,
Mảng. Theo Kết quả khảo sát đề tài thuộc
Chương trình Tây Nguyên 3, tỷ lệ phụ nữ
DTTS không đến trạm y tế xã và không đi
tư vấn sức khỏe bản thân đều cao hơn so với
nam giới DTTS và so với phụ nữ dân tộc
Kinh trên địa bàn (tỷ lệ lần lượt là 78.9%-
74.5%-57.3% và 32%-23.6%-22.4%), trong
khi tỷ lệ đau ốm trong 12 tháng qua của
nhóm phụ nữ DTTS lên tới 43.4% so với
36.1% ở nam giới DTTS và 29.1% ở phụ nữ
người Kinh13.
Phụ nữ và trẻ em DTTS còn nhiều nguy
cơ không an toàn trong gia đình và cộng
đồng. Trong 5 năm (2012-2017), số nạn
nhân bị mua bán và nghi vấn bị mua bán là
3.090 người, trong đó, 90% nạn nhân bị bán
sang Trung Quốc chủ yếu là phụ nữ, trẻ em
8 World Bank (2019), Research Report: Drivers of Socio-Economic Development among Ethnic Minority
Groups in Vietnam.
9 World Bank (2018), Tương lai việc làm ở Việt Nam dưới góc nhìn giới.
10 Tổng cục Thống kê (2019), Kết quả sơ bộ Tổng Điều tra Dân số và Nhà ở thời điểm 01/4/2019.
11 Tổng cục Thống kê và Ủy ban Dân tộc, Điều tra thực trang kinh tế - xã hội 53 dân tộc thiểu số, năm 2015.
12 Đặng Nguyên Anh (2017), Tách biệt xã hội và bất bình đẳng giới ở Tây Nguyên, Tạp chí Nghiên cứu Gia
đình và Giới số 3, tr.50-59.
13 Bình đẳng giới cho phụ nữ dân tộc thiểu số: Vẫn còn khoảng cách – Báo Nhân dân điện tử ngày 22/11/2017.
39Số 5(405) - T3/2020
NGHIÊN CỨU
LẬP PHÁP
CHÍNH SÁCH
(chiếm trên 90% số nạn nhân), đa số thuộc
các DTTS (trên 80%); tình trạng bạo lực
trong gia đình DTTS xảy ra khá phổ biến,
đặc biệt ở những dân tộc phụ hệ. Có tới
58,6% phụ nữ DTTS từ 15-49 chấp nhận bạo
lực từ chồng, tỷ lệ này ở phụ nữ Kinh và Hoa
chỉ khoảng 28%14; tình trạng tự tử, tội phạm
ma túy, án mạng, xâm hại trẻ em ở vùng
DTTS và miền núi cảnh báo tình trạng mất
an toàn đang diễn ra. Ngoài ra, hạn chế trong
tiếp cận các nguồn sinh kế bền vững, ra
quyết định và tham gia vào quá trình ra
quyết định; định kiến về vai trò giới cũng
khiến phụ nữ khó phát huy được năng lực
nội tại và tính tự quyết của mình trong gia
đình và cộng đồng.
Sự tham gia gia của phụ nữ DTTS trong
lĩnh vực chính trị còn nhiều thách thức. Bên
cạnh những điểm sáng về sự tham gia của nữ
DTTS trong vị trí lãnh đạo cấp cao của bộ
máy Đảng và Nhà nước (1/3 nữ Ủy viên Bộ
Chính trị, 32,3% nữ đại biểu Quốc hội là
người DTTS trong nhiệm kỳ 2016-2021),
nhìn chung, tỷ lệ phụ nữ DTTS tham gia hệ
thống chính trị thấp hơn nhiều so với tỷ lệ
chung và so với nam giới. Ở cấp xã, có
14,56% phụ nữ DTTS tham gia cơ quan
Đảng, 13,25% tham gia Hội đồng nhân dân,
24,99% tham gia cơ quan hành chính,
29,92% tham gia tổ chức chính trị - xã hội
so với nam giới ở các cơ quan tương đương
trên địa bàn15.
3. Lồng ghép giới trong Chương trình
MTTG phát triển kinh tế - xã hội vùng
đồng bào DTTS và miền núi giai đoạn
2021-2030
Nhận thấy được những khó khăn mà phụ
nữ DTTS đã và đang phải đối mặt, Đảng và
Nhà nước đã có nhiều chính sách, chương
trình ưu tiên hướng đến nhóm đối tượng này
trong quá trình thụ hưởng chính sách, tiêu
biểu như Chương trình MTQG Giảm nghèo
bền vững giai đoạn 2016-2020 và sắp tới là
Chương trình MTQG phát triển kinh tế - xã
hội vùng đồng bào DTTS và miền núi giai
đoạn 2021-2030. Một trong những mục tiêu
quan trọng của Chương trình này là lồng
ghép giới, hướng đến xóa bỏ bất bình đẳng
giới giữa các nhóm dân tộc.
Cụ thể, Dự thảo Chương trình đặt ra
mục tiêu đến năm 2025: “Trên 80% phụ nữ
có thai được khám thai định kỳ, sinh con ở
cơ sở y tế hoặc có sự trợ giúp của cán bộ y
tế”; “giảm tỷ lệ trẻ em suy dinh dưỡng thể
nhẹ cân xuống dưới 15%”; và xây dựng
các dự án tập trung vào các lĩnh vực cơ bản
nhất (nhà ở, đất ở, đất sản xuất, nước sinh
hoạt, sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp, giáo
dục, y tế, văn hóa, đào tạo cán bộ, xây dựng
hệ thống chính trị...). 3/10 dự án của Chương
trình16 trực tiếp giải quyết các mục tiêu cụ
thể về giới, phụ nữ và trẻ em. Đặc biệt, Dự
án 8 đặt ra mục tiêu: bình đẳng giới và giải
quyết một số vấn đề cấp thiết của phụ nữ và
14 Hội Liên hiệp phụ nữ Việt nam, Ủy ban Dân tộc, “Để Phụ nữ Dân tộc thiểu số không bị bỏ lại phía sau”, Hà
nội tháng 10/ 2019, tr.12.
15 Dự thảo, Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền
núi giai đoạn 2021-2030 (tháng 3/2020); Dự án 7: Chăm sóc sức khỏe nhân dân, nâng cao thể trạng, tầm
vóc người dân tộc thiểu số; phòng chống suy dinh dưỡng trẻ em; Dự án 8: Thực hiện bình đẳng giới và giải
quyết những vấn đề cấp thiết đối với phụ nữ và trẻ em; Dự án 10: Truyền thông, tuyên truyền, vận động
trong vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi, giám sát đánh giá việc tổ chức thực hiện chương trình.
16 SDG 5: Đạt được bình đẳng giới và trao quyền cho tất cả phụ nữ và trẻ em gái toàn cầu; SDG 10: Giảm bất
bình đẳng trong và giữa các quốc gia.
Số 5(405) - T3/202040 NGHIÊN CỨULẬP PHÁP
CHÍNH SÁCH
trẻ em DTTS (tảo hôn, hôn nhân cận huyết,
bạo lực trên cơ sở giới, dịch vụ chăm sóc sức
khỏe, trợ giúp pháp lý,).
4. Khuyến nghị về lồng ghép giới trong
Chương trình MTQG phát triển kinh tế -
xã hội vùng đồng bào DTTS và miền núi
giai đoạn 2021-2030
Việc thiết kế các dự án 7-8-10 trong
khuôn khổ Chương trình MTQG phát triển
kinh tế - xã hội vùng đồng bào DTTS và
miền núi giai đoạn 2021-2030 là minh chứng
thể hiện cam kết của Chính phủ Việt Nam về
phát triển bền vững. Tuy nhiên, để tăng
cường hiệu quả thực hiện bình đẳng giới,
trong quá trình xây dựng và thực thi Chương
trình, chúng tôi cho rằng, cần phải lưu ý một
số khuyến nghị sau:
Thứ nhất, bình đẳng giới là nguyên tắc
xuyên suốt trong quá trình xây dựng, tổ
chức thực hiện chính sách, pháp luật.
Thực hiện lồng ghép giới là một quá
trình liên tục nhằm thay đổi tư duy, mối quan
hệ giới giữa nam và nữ; hướng đến coi trọng,
xem xét và giải quyết mọi sự khác biệt giữa
nữ và nam kịp thời, vì thế, cần đảm bảo bình
đẳng giới xuyên suốt ở mọi cấp, mọi giai
đoạn của chu trình chính sách. Bình đẳng
giới xuyên suốt là một giải pháp quan trọng
mà Chiến lược quốc gia về bình đẳng giới
giai đoạn 2011- 2020 đề cập, phù hợp với
quan điểm của Liên hợp quốc17.
Trong khi đó, mặc dù Dự thảo Chương
trình MTQG phát triển kinh tế - xã hội vùng
DTTS và miền núi giai đoạn 2021 – 2030 có
tất cả 14 mục tiêu cụ thể, nhưng chỉ có 1 mục
tiêu đề cập đến phụ nữ và trẻ em; 7/10 dự án
chưa đề cập đến vấn đề lồng ghép giới.
Nhiều mục tiêu, chỉ tiêu đều thể hiện chung
chung và như nhau cho mọi đối tượng,
không chỉ rõ chỉ tiêu cụ thể đối với phụ nữ
và trẻ em gái DTTS. Nguyên tắc bình đẳng
giới xuyên suốt dường như chỉ “khu trú” ở 3
Dự án và đòi hỏi được thể hiện đầy đủ và
hoàn hiện hơn, thông qua các mục tiêu, chỉ
tiêu cụ thể, cơ chế và ngân sách giới phù hợp
với quy định của Luật Bình đẳng Giới
(2007), Chiến lược quốc gia về bình đẳng
giới (2011-2020) và Chiến lược quốc gia về
bình đẳng giới giai đoạn tiếp theo.
Thứ hai, lồng ghép giới trong dự thảo
Chương trình MTQG phát triển kinh tế -
xã hội vùng DTTS và miền núi giai đoạn
2021-2030.
Về việc xây dựng Chương trình MTQG
phát triển kinh tế - xã hội vùng DTTS và
miền núi giai đoạn 2021 – 2030, cần chú ý
đến nhu cầu khác biệt giữa các nhóm hưởng
thụ chính sách, bao gồm cả khác biệt giới và
khác biệt về văn hóa dân tộc. Để bảo đảm
hiệu quả của lồng ghép giới trong Chương
trình, cần quan tâm đến: i) Những nhu cầu
của mỗi giới, bao gồm nhu cầu giới thực tế
liên quan tới điều kiện sống và làm việc, nhu
cầu thiết yếu của vùng DTTS, miền núi (ăn,
mặc, nước sạch, vệ sinh môi trường) và nhu
cầu giới chiến lược của phụ nữ, trẻ em gái
DTTS, miền núi (nhu cầu tham chính, nâng
cao quyền năng kinh tế, giáo dục); ii) Lợi ích
của mỗi giới khi tham gia và thụ hưởng
chương trình, mức độ cải thiện định kiến,
thay đổi vai trò tham gia của mỗi giới, sự ghi
nhận tiếng nói của mỗi bên, sự công bằng
trong tiếp cận chính sách, sự chia sẻ trách
nhiệm trong gia đình, trong cộng đồng, viẹ#c
ra quyết định và iii) Bối cảnh, sự đa dạng
văn hóa và điều kiện kinh tế - xã hội của từng
vùng, từng dân tộc khi xác định nhu cầu can
thiệp thay đổi, đầu tư phát triển. Cụ thể:
17 World Bank (2019), Research Report: Drivers of Socio-Economic Development among Ethnic Minority
Groups in Vietnam.
- Đối với Dự án 1, cần bổ sung tiêu chí
nhà tiêu hợp vệ sinh với chỉ tiêu 50% hộ
DTTS có nhà xí hợp vệ sinh (HVS).
- Đối với Dự án 3, cần bổ sung mục tiêu
của tiểu dự án 1 và 2: “Đảm bảo phụ nữ
được tiếp cận đầy đủ với các cơ hội phát
triển sản xuất nông, lâm nghiệp”; Tiểu dự án
3: “Đảm bảo phụ nữ được tiếp cận đầy đủ
với các cơ hội khởi sự kinh doanh, khởi
nghiệp”. Bổ sung chỉ tiêu của tiểu dự án 1
và 2 (Dự án 3): “tối thiểu 50% phụ nữ tham
gia và hưởng lợi trong các dự án phát triển
sản xuất nông lâm nghiệp, chăn nuôi”. Với
cả ba tiểu dự án, bổ sung chỉ tiêu: “ít nhất
30% ngân sách của các tiểu dự án trong Dự
án 3 được dành cho các dự án, mô hình, hoạt
động nhằm thực hiện bình đẳng giới/giải
quyết các vấn đề hạn chế/khoảng cách giới
tại địa phương”.
- Đối với Dự án 5, cần bổ sung vào Mục
a Tiểu dự án 5 mục tiêu “đảm bảo tỷ lệ biết
đọc, biết viết của phụ nữ DTTS không thấp
hơn nam giới”; bổ sung vào Mục c nội dung
hỗ trợ “Xây dựng chương trình, tài liệu, các
học liệu dựa vào nền tảng số, các trò chơi trên
điện thoại để khuyến khích phụ nữ tự học,
học từ vựng, đồng thời làm quen và thích ứng
với công nghệ thông tin ở bậc đơn giản”.
+ Bổ sung vào Mục a Tiểu dự án 2 nội
dung: “bảo đảm tối thiểu 50% người được
đào tạo là nữ”; bổ sung vào Mục c phần “bồi
dưỡng kiến thức dân tộc” và phần “nâng cao
năng lực cho cộng động và cán bộ triển khai
chương trình” nội dung: “bồi dưỡng kiến
thức về giới và lồng ghép giới trong thực
hiện các chính sách về dân tộc”, bởi trên
thực tế, năng lực lồng ghép giới trong xây
dựng và thực thi dự án/chính sách của cán
bộ địa phương còn nhiều hạn chế.
Ngoài ra, để đảm bảo xóa bỏ các rào cản
liên quan đến tuổi tham chính của phụ nữ,
cần bổ sung vào Mục c nội dung “hỗ trợ cho
phụ nữ đi học bao gồm trợ cấp khi mang con
đi học”. Nguyên nhân là do có đến 66.1%
phụ nữ DTTS đi học không đúng độ tuổi nên
nhiều phụ nữ có uy tín, có năng lực làm cán
bộ có thể theo học đại học khi đã lập gia đình
và có con.
+ Bổ sung vào Mục a Tiểu dự án 4 mục
tiêu “đảm bảo tối thiểu 15% lao động DTTS
được đào tạo nghề, trong đó bảo đảm tối
thiểu 50% người được tham gia các hoạt
động hướng nghiệp, đào tạo nghề, dịch vụ
giới thiệu việc làm là phụ nữ”.
- Đối với Dự án 7, đề xuất bổ sung mục
tiêu “98% đồng bào dân tộc thiểu số tham
gia bảo hiểm y tế, trong đó tỷ lệ nữ DTTS
sử dụng thẻ BHYT là 50%”.
Cuối cùng, cần rà soát bổ sung chỉ tiêu
tham gia của phụ nữ trong các dự án, tiểu dự
án. Nếu không được xác định bằng một chỉ
tiêu nhất định thì chắc chắn sự tham gia, thụ
hưởng và được tôn vinh của phụ nữ DTTS
sẽ rất bị hạn chế so với nam giới DTTS.
Thứ ba, giám sát, đánh giá thực hiện
mục tiêu Bình đẳng giới trong Chương
trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế -
xã hội vùng DTTS và miền núi giai đoạn
2021-2030.
Bình đẳng giới là một mục tiêu của
Chương trình MTQG phát triển kinh tế - xã
hội vùng DTTS và miền núi giai đoạn 2021
– 2030 và có trong nhiều tiểu dự án. Để giám
sát, đánh giá chính xác, kịp thời tác động của
chương trình, của từng dự án đối với từng
giới, đảm bảo tất cả các hoạt động của
Chương trình không tạo ra những tác động
tiêu cực đến phụ nữ và nam giới, cần xây
dựng bộ số liệu điều tra cơ bản ban đầu có
phân tách theo giới tính và dựa trên các vấn
đề cụ thể về giới.
Để làm được điều này, cần xây dựng 01
bộ công cụ bao quát toàn bộ nội dung cần
giám sát, đánh giá về thực hiện bình đẳng
giới trong mỗi dự án/tiểu dự án, tổ chức giám
sát, đánh giá theo quy định của Chương trình;
41Số 5(405) - T3/2020
NGHIÊN CỨU
LẬP PHÁP
CHÍNH SÁCH
Số 5(405) - T3/202042 NGHIÊN CỨULẬP PHÁP
CHÍNH SÁCH
cần quy định và hướng dẫn cán bộ chương
trình, dự án sử dụng các phương pháp và
công cụ giám sát, đánh giá giúp thu thập số
liệu và thông tin có phân tách theo giới tính
và các vấn đề cụ thể về giới (cả định tính và
định lượng) để đo lường và đánh giá mức độ
lợi ích và hiệu quả mang lại cho từng giới.
Trong quá trình triển khai chương trình, các
hoạt động giám sát - đánh giá được xác định
theo chu trình năm/ giai đoạn, nếu phát hiện
những khác biệt giữa hai giới (ví dụ về mức
độ hưởng lợi, về sự tác động bất lợi...), cần
phân tích các nguyên nhân để có giải pháp
phù hợp điều chỉnh hoạt động hoặc cách thức
thực hiện hoạt động.
Thứ tư, xác định hoạt động và cách
thức thực hiện hoạt động Chương trình
MTQG phát triển kinh tế - xã hội vùng
DTTS và miền núi giai đoạn 2021-2030.
Chương trình cần xác định và lựa chọn
cách thức thực hiện các hoạt động phù hợp
để cả nam giới và phụ nữ đều có thể tham
gia hiệu quả. Ví dụ: hoạt động nào cần có sự
tham gia của cả nam và nữ, hoạt động dành
cho các đối tượng riêng, tuyên truyền về
bình đẳng giới cần có sự tham gia của tất cả
các thành viên trong cộng đồng, lưu tâm các
vấn đề nhạy cảm giới; lấy ý kiến của phụ nữ
về sinh đẻ an toàn thì nên mời riêng nhóm
phụ nữ, bố trí người điều hành là phụ nữ.
Để phụ nữ tham gia hiệu quả vào các dự
án của chương trình, cần quy định tỷ lệ phụ
nữ được tham gia họp hành, bày tỏ chính
kiến của mình; cần bổ sung vào Dự án 4
nguyên tắc: “Các công trình đầu tư phải
được đề xuất của tối thiểu 50% phụ nữ tham
dự các cuộc họp lập kế hoạch hàng năm thực
hiện Chương trình”, hoặc bổ sung quy định
đảm bảo tỷ lệ tham gia tối thiểu của phụ nữ
là 50% trong các cơ hội việc làm công, theo
Nghị định số 61/2015, Thông tư số
15/2017); ưu tiên các dự án phát triển sản
xuất, phát triển chuỗi giá trị có sự tham gia
tích cực, chủ động và hưởng lợi công bằng
của phụ nữ; khuyến khích phụ nữ làm trưởng
nhóm hoặc là thành viên nòng cốt của các tố
nhóm, tổ hợp tác.
Chương trình cần nghiên cứu bổ sung
vai trò của các tổ chức đại diện như Mặt trận
Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội
trong công tác tuyên truyền, vận động nhân
dân tham gia thực hiện Chương trình; tham
gia giám sát, đánh giá Chương trình; bổ sung
vai trò của Hội LHPN trong giám sát, phối
hợp, chủ trì tổ chức thực hiện các hoạt động
của các dự án liên quan đến phụ nữ, gia đình,
bình đẳng giới.
Thứ năm, nguồn lực của Chương
trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế
- xã hội vùng DTTS và miền núi giai đoạn
2021-2030.
- Xây dựng dự toán ngân sách của
Chương trình, dự án bao gồm cả ngân sách
cho các hoạt động lồng ghép giới, đảm bảo
phân bố đủ nhân lực và tài chính để thực
hiện các hoạt động lồng ghép giới.
- Đối với cán bộ của Chương trình cần
đưa ra các yêu cầu hiểu biết về giới và thúc
đẩy bình đẳng giới; thường xuyên tổ chức
tập huấn nâng cao năng lực lồng ghép giới
cho đội ngũ cán bộ của Chương trình.
- Trong quá trình tổ chức, phân công
công việc cần tính toán, cân nhắc phân công
trách nhiệm và công việc một cách phù hợp
giữa cán bộ nam và nữ;
- Cam kết và thực hiện đầy đủ các
nguyên tắc, nội dung cũng như biện pháp
thúc đẩy bình đẳng giới trong quá trình tổ
chức, điều phối thực hiện Chương trình
MTQG phát triển kinh tế – xã hội vùng
DTTS và miền núi giai đoạn 2021 – 2030.
Kết luận
Bình đẳng giới là việc nam, nữ có vị trí,
vai trò ngang nhau, được tạo điều kiện và cơ
hội phát huy năng lực của mình cho sự phát
43Số 5(405) - T3/2020
NGHIÊN CỨU
LẬP PHÁP
CHÍNH SÁCH
triển của cộng đồng, của gia đình và thụ
hưởng như nhau về thành quả của sự phát
triển đó. Bình đẳng giới là một trong những
tiêu chí quan trọng để đánh giá sự phát triển
của một xã hội, một đất nước, tự nó là mục
tiêu của sự phát triển và là yếu tố hỗ trợ, nâng
cao khả năng tăng trưởng kinh tế và tiến bộ
xã hội của quốc gia. Việc đảm bảo cơ hội để
phụ nữ DTTS tiếp cận và tham gia, hưởng lợi
từ Chương trình MTQP phát triển kinh tế -
xã hội vùng DTTS và miền núi giai đoạn
2021-2030 cần phải được xác lập từ khâu
thiết kế, xây dựng, đến thực thi và giám sát,
đánh giá Chương trình. Đây chính là điều
kiện quan trọng để phụ nữ DTTS không bị
bỏ lại phía sau trong quá trình phát triển n
TàI LIệu THAM KHảo
1. Bộ Kế hoạch và Đầu tư, UNICEF, “Trẻ em trong tiến trình phát triển ở Việt Nam- Chương
trình nghị sự phát triển bền vững 2030”, Hà Nội tháng 9 năm 2018.
2. Commission, E. (2008). Ethnic minority and Roma women in Europe: A case for gender
equality?
3. Đặng Nguyên Anh. 2017, Tách biệt xã hội và bất bình đẳng giới ở Tây Nguyên, Tạp chí
Nghiên cứu Gia đình và Giới số 3, tr.50-59.
4. Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt nam, Ủy ban Dân tộc, “Để Phụ nữ Dân tộc thiểu số không bị
bỏ lại phía sau ” ( Hà nội tháng 10/ 2019), tr.12.
5. Hội Phụ nữ và Ủy ban Dân tộc (2020) “Để phụ nữ dân tộc thiểu số không bị bỏ lại phía
sau”, tr.3.
6. Ngân Anh (2017), Bình đẳng giới cho phụ nữ dân tộc thiểu số: Vẫn còn khoảng cách –
Báo Nhân dân điện tử ngày 22/11/2017.
7. Ngô Quang Sơn (2018), Nghiên cứu mô hình đào tạo nghề cho phụ nữ dân tộc thiểu số
tại các xã đặc biệt khó khăn ở khu vực Tây Nam Bộ, Việt Nam, Tạp chí Dân tộc học số
5, trang 71-79.
8. Tổng cục Thống kê (2019), Kết quả sơ bộ Tổng Điều tra Dân số và Nhà ở thời điểm
01/4/2019
9. Tổng cục Thống kê và Ủy ban Dân tộc, Điều tra thực trang kinh tế - xã hội 53 dân tộc
thiểu số, năm 2015.
10. UNWomen (2015), Tóm tắt về tình hình phụ nữ và trẻ em gái dân tộc thiểu số ở Việt
Nam.
11. Uỷ ban Dân tộc, Irish Aid, UNDP, Tổng quan thực trạng kinh tế - xã hội của 53 dân tộc
thiểu số, Hà nội, tháng 5- 2017, tr.41.
12. Uỷ ban Dân tộc, Báo cáo đề xuất chủ trương đầu tư Chương trình mục tiêu quốc gia phát
triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2021 – 2030
(Bản trình Cơ quan Hội đồng thẩm định Nhà nước, tháng 3/2020).
13. World Bank (2018), Tương lai việc làm ở Việt Nam dưới góc nhìn giới.
14. World Bank. (2019), Research Report: Drivers of Socio-Economic Development among
Ethnic Minority Groups in Vietnam.
15. Young Lives (2018), Trưởng thành: Kỹ năng, lập nghiệp và xây dựng gia đình.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- dam_bao_co_hoi_cho_phu_nu_dan_toc_thieu_so_tiep_can_va_tham.pdf