Thứ bảy, tổ chức các hoạt động văn
hoá như lễ hội, dịch vụ vui chơi giải trí, xây
dựng tủ sách, thành lập các câu lạc bộ, tạo
môi trường để người DTTS có cơ hội hưởng
thụ đầy đủ các quyền văn hoá. Loại bỏ mọi
tập tục lạc hậu, gắn tuyên truyền pháp luật
với phê phán những thói quen xấu, tư tưởng
trọng nam khinh nữ; đề cao, tôn vinh truyền
thống tốt đẹp của người DTTS.
Thứ tám, đồng bào DTTS cũng cần
chủ động trong việc thực hiện quyền văn
hóa của mình như tích cực tham gia vào
quá trình xây dựng các chương trình bảo
tồn, phát triển các truyền thống văn hóa dân
tộc; đào tạo cho các thế hệ sau những giá trị
riêng của dân tộc mình và xây dựng ý thức
bảo tồn chúng trong quá trình phát triển kinh
tế, hội nhập
8 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 19/01/2022 | Lượt xem: 285 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đảm bảo quyền văn hóa của người dân tộc thiểu số tại Việt Nam - Thực trạng và các kiến nghị, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ĐẢM BẢO QUYỀN VĂN HÓA CỦA NGƯỜI DÂN TỘC THIỂU SỐ
TẠI VIỆT NAM - THỰC TRẠNG VÀ CÁC KIẾN NGHỊ
Tóm tắt:
Quyền văn hóa của người dân tộc thiểu số là một trong những
quyền chứa đựng nhiều yếu tố đặc thù và phản ánh rõ nhất những
yếu tố “riêng biệt” trong các quyền con người của người dân tộc
thiểu số. Đảm bảo quyền văn hóa của người dân tộc thiểu số đã
được pháp luật quốc tế và Việt Nam ghi nhận. Để thực hiện tốt
hơn việc đảm bảo các quyền này, cần tăng cường hơn nữa vai trò
của các cơ quan nhà nước.
Nguyễn Thị Hồng Yến*
Mạc Thị Hoài Thương**
* TS. Trưởng Bộ môn Công pháp quốc tế, Trường Đại học Luật Hà Nội.
** TS. GV. Bộ môn Công pháp quốc tế, Trường Đại học Luật Hà Nội.
Abstract
Cultural rights of the ethnic minorities are one of the rights that
contain several particularised factors and most clearly reflect
the "individualised" elements in the human rights of the ethnic
minorities. The cultural rights of ethnic minorities are ensured by
being recognized by international law and Vietnamese ones. It is
required to strengthen the role of the public agencies in order to
better enforce these rights.
Thông tin bài viết:
Từ khóa: Quyền con người, người dân
tộc thiểu số, quyền văn hóa, quyền của
người dân tộc thiểu số
Lịch sử bài viết:
Nhận bài : 15/08/2019
Biên tập : 24/08/2019
Duyệt bài : 28/08/2019
Article Infomation:
Keywords: human rights; ethnic
minorities; cutural rights; rights of the
ethnic minorities.
Article History:
Received : 15 Aug. 2019
Edited : 24 Aug. 2019
Approved : 28 Aug. 2019
1. Quyền văn hóa là một phạm trù của
quyền con người
Quyền văn hóa là một phạm trù của
quyền con người nhằm đảm bảo tất cả mọi
người không bị phân biệt đối xử có thể tự do
1 Nguồn https://minorityrights.org/research-how-to-defend-minority-cultural-rights-by-using-local-laws-in-the-south-
ern-mediterranean-region/.
tiếp cận, tham gia và đóng góp cho đời sống
văn hóa1. Điều 27 Tuyên ngôn thế giới về
Quyền con người (UDHR) ghi nhận “Mọi
người đều có quyền tự do tham gia vào đời
sống văn hóa của cộng đồng, được thưởng
CHÑNH SAÁCH
34 Số 20(396) T10/2019
thức nghệ thuật và chia sẻ những thành tựu
và lợi ích của tiến bộ khoa học”. Điều 27
Công ước quốc tế về quyền dân sự và chính
trị (ICCPR) cũng ghi rõ: Ở những quốc gia
có nhiều nhóm thiểu số về sắc tộc, tôn giáo
và ngôn ngữ, những cá nhân thuộc các nhóm
thiểu số đó, cùng với những thành viên
khác của cộng đồng mình, không bị khước
từ quyền có đời sống văn hoá riêng, quyền
được theo và thực hành tôn giáo riêng, hoặc
quyền được sử dụng ngôn ngữ riêng của họ.
Về các khía cạnh của quyền văn hóa, Công
ước về các Quyền kinh tế, văn hóa và xã hội
năm 1966 (CESCR) đã cụ thể hóa trong các
Điều 13, 14 và 15. Theo đó, các quyền văn
hóa của con người nói chung bao gồm2:
- Quyền của mỗi cá nhân được tham
gia vào đời sống văn hoá;
- Quyền của mỗi cá nhân được hưởng
các lợi ích của tiến bộ khoa học và các ứng
dụng của nó;
- Quyền được hưởng việc bảo vệ
quyền lợi đạo đức và vật chất bắt nguồn từ
các sản phẩm nghệ thuật, văn học, khoa học
mà người hưởng thụ là tác giả; được tôn
trọng và thừa nhận các phong tục, tập quán,
lịch sử, hay những sự khác biệt về văn hoá;
- Quyền tự do không thể tước bỏ khỏi
hoạt động sáng tạo nghiên cứu khoa học.
Riêng đối với người dân tộc thiểu số
(DTTS), Điều 2 Tuyên bố về Quyền của
những người thuộc các nhóm thiểu số về
dân tộc, chủng tộc, tôn giáo và ngôn ngữ
năm 1992 quy định: Những người thuộc các
nhóm thiểu số về dân tộc, chủng tộc, tôn
giáo và ngôn ngữ (dưới đây gọi là những
2 Xem các Điều từ 13-15 Công ước về các Quyền kinh tế, văn hóa và xã hội năm 1966 https://thuvienphapluat.vn/van-
ban/Linh-vuc-khac/Cong-uoc-quoc-te-ve-quyen-dan-su-va-chinh-tri-270274.aspx.
3 Nguồn https://thuvienphapluat.vn/van-ban/Linh-vuc-khac/Tuyen-bo-ve-quyen-cua-nhung-nguoi-thuoc-cac-nhom-
thieu-so-ve-dan-toc-chung-toc-ton-giao-1992-275807.aspx.
4 Xem Ủy ban về các quyền kinh tế, văn hóa, xã hội trong Nhận định chung 21 tại https://tbinternet.ohchr.org/_lay-
outs/15/treatybodyexternal/Download.aspx?symbolno=E%2fC.12%2fGC%2f21&Lang=en.
người thuộc các nhóm thiểu số) có quyền3:
- Hưởng nền văn hóa () dưới hình
thức riêng rẽ hoặc trong tập thể, một cách tự
do và không bị can thiệp hay bị bất kỳ hình
thức phân biệt đối xử nào;
- Tham gia một cách tích cực vào đời
sống văn hóa tôn giáo, xã hội, kinh tế và đời
sống cộng đồng;
- Tham gia một cách có hiệu quả vào
những quyết định ở cấp quốc gia và trong
những trường hợp thích hợp là ở cấp khu
vực khi liên quan đến nhóm thiểu số mà
họ là thành viên hoặc liên quan đến những
vùng mà họ sống ở đó, theo một phương
thức không trái với pháp luật quốc gia.
Đảm bảo và thúc đẩy việc thực hiện
các quyền con người của người DTTS cũng
nằm trong nghĩa vụ chung của các quốc gia.
Tuy nhiên, xuất phát từ những đặc điểm
riêng của người DTTS, việc đảm bảo các
quyền của nhóm này cũng cần những chính
sách phù hợp, có tính các yếu tố gắn liền với
người DTTS. Ủy ban về các Quyền kinh tế,
văn hóa và xã hội trong Nhận định chung 21
cũng đã khẳng định: Dân tộc thiểu số, cũng
như những người thuộc dân tộc thiểu số,
không chỉ có quyền có bản sắc riêng của họ
mà còn có quyền phát triển trong mọi lĩnh
vực của đời sống văn hóa. Bất kỳ chương
trình nào hướng tới thúc đẩy sự hội nhập
mang tính xây dựng của các dân tộc thiểu
số và những người thuộc dân tộc thiểu số
vào xã hội chung của một quốc gia thành
viên cần dựa trên sự hòa nhập, tham gia và
không phân biệt đối xử, nhằm bảo tồn bản
sắc đặc trưng của các văn hóa thiểu số4.
CHÑNH SAÁCH
35Số 20(396) T10/2019
2. Chính sách, pháp luật nhằm đảm bảo
quyền văn hóa của người dân tộc thiểu số
tại Việt Nam
Việt Nam là một quốc gia thống nhất
với 54 dân tộc. Tính đến năm 2014, trong
tổng số hơn 90 triệu dân Việt Nam có trên
12,3 triệu người thuộc 53 dân tộc thiểu số,
chiếm 14,3% dân số Việt Nam, tập trung
chủ yếu ở các vùng núi, đặc biệt là vùng
Tây Bắc, Tây Nguyên và Tây Nam Bộ. Các
dân tộc Việt Nam có truyền thống đoàn kết,
giúp đỡ lẫn nhau trong cuộc đấu tranh chống
ngoại xâm, chế ngự thiên nhiên và xây dựng
đất nước. Mỗi dân tộc có bản sắc văn hóa
riêng, tạo nên sự đa dạng, phong phú của
nền văn hóa Việt Nam thống nhất5.
Điều 5 Hiến pháp năm 2013 ghi nhận:
“Nước Cộng hoà XHCN Việt Nam là quốc
gia thống nhất của các dân tộc cùng sinh
sống trên đất nước Việt Nam. Các dân tộc
bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp nhau
cùng phát triển; nghiêm cấm mọi hành vi
kỳ thị, chia rẽ dân tộc. Ngôn ngữ quốc gia
là tiếng Việt. Các dân tộc có quyền dùng
tiếng nói, chữ viết, giữ gìn bản sắc dân tộc,
phát huy những phong tục, tập quán, truyền
thống và văn hoá tốt đẹp của mình. Nhà
nước thực hiện chính sách phát triển toàn
diện và tạo điều kiện để tất cả các dân tộc
thiểu số phát huy nội lực, cùng phát triển với
đất nước”. Ngoài ra, để bảo đảm các quyền
của các DTTS, Điều 42 Hiến pháp năm
2013 cũng ghi nhận: “Công dân có quyền
xác định dân tộc của mình, sử dụng ngôn
ngữ mẹ đẻ, lựa chọn ngôn ngữ giao tiếp”.
Đồng thời khẳng định: “Mọi người đều bình
đẳng trước pháp luật. Không ai bị phân biệt
đối xử trong đời sống chính trị, dân sự, kinh
tế, văn hóa, xã hội”6. Nguyên tắc này cũng
5 Sách trắng về quyền con người năm 2018, tr. 43-44.
6 Điều 16 Hiến pháp năm 2013.
7 Sách trắng về quyền con người năm 2018, tr. 43-44.
đã được thể hiện xuyên suốt trong toàn bộ
hệ thống pháp luật Việt Nam, được thể chế
và cụ thể hóa trong các văn bản luật như:
Luật Bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu
Hội đồng nhân dân, Luật Quốc tịch, Bộ luật
Hình sự; Bộ luật Tố tụng hình sự; Bộ luật
Dân sự; Bộ luật Tố tụng dân sự; Luật Lao
động; Luật Giáo dục; Luật Bảo vệ sức khỏe
nhân dân; Luật Trách nhiệm bồi thường của
Nhà nước và nhiều văn bản quy phạm pháp
luật khác...7
Đối với việc đảm bảo các quyền văn
hóa của người DTTS, Việt Nam cũng đã
dành sự quan tâm đặc biệt nhằm đảm bảo
ngày càng tốt hơn các quyền văn hóa của
người DTTS trên lãnh thổ Việt Nam, điều
này được thể hiện qua một số nội dung sau:
Quyền được tham gia vào các hoạt
động của đời sống văn hóa và bảo tồn, giữ
gìn bản sắc văn hóa riêng
Quyền bảo tồn và phát triển văn hóa
DTTS được coi là quyền đặc thù có ý nghĩa
quan trọng đối với cộng đồng DTTS và đã
được quy định ở nhiều văn bản khác nhau.
Điều 41, Điều 42 Hiến pháp năm 2013 quy
định: “Mọi người có quyền hưởng thụ và
tiếp cận các giá trị văn hóa, tham gia vào đời
sống văn hóa, sử dụng các cơ sở văn hóa;
Công dân có quyền xác định dân tộc của
mình, sử dụng ngôn ngữ mẹ đẻ, lựa chọn
ngôn ngữ giao tiếp”. Để đảm bảo quyền này,
Nhà nước ta không chỉ ban hành các văn bản
pháp luật chuyên ngành làm cơ sở pháp lý
vững chắc cho việc thực hiện quyền mà còn
có các chính sách, đề án bảo tồn và phát triển
văn hóa như: Đề án bảo tồn, phát triển văn
hóa các DTTS Việt Nam đến năm 2020 theo
Quyết định số 1270/QĐ-TTg hoặc là quy
CHÑNH SAÁCH
36 Số 20(396) T10/2019
định của Bộ Giáo dục và Đào tạo về việc
ban hành khung dạy tiếng DTTS cho cán bộ,
công chức công tác ở vùng DTTS, Bảo tồn,
phát huy trang phục truyền thống các DTTS
Việt Nam trong giai đoạn hiện nay8,
Quyền được sử dụng và phổ biến ngôn
ngữ riêng và lựa chọn ngôn ngữ để giao tiếp
Trong các quyền công dân được quy
định trong Hiến pháp năm 2013, quyền sử
dụng và tiếp cận ngôn ngữ đã được đề cập
đến tại Điều 42 như sau: “Công dân có quyền
xác định dân tộc của mình, sử dụng ngôn ngữ
mẹ đẻ, lựa chọn ngôn ngữ giao tiếp”9.
Điều 5 Hiến pháp năm 2013 ghi rõ:
“Các dân tộc có quyền dùng tiếng nói, chữ
viết, giữ gìn bản sắc dân tộc, phát huy phong
tục, tập quán, truyền thống và văn hóa tốt
đẹp của mình”;
Luật Giáo dục năm 2005 quy
định: “Nhà nước tạo điều kiện để người
DTTS được học tiếng nói, chữ viết của dân
tộc mình nhằm giữ gìn và phát huy bản sắc
văn hóa dân tộc, giúp học sinh người DTTS
dễ dàng tiếp thu kiến thức khi học tập trong
nhà trường và cơ sở giáo dục khác”;
Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm
2014 quy định về tiếng nói, chữ viết dùng
trước Tòa án nhân dân: “Tiếng nói, chữ
viết dùng trước Tòa án là tiếng Việt. Tòa án
bảo đảm cho những người tham gia tố tụng
quyền dùng tiếng nói, chữ viết của dân tộc
mình trước Tòa án nhân dân, trường hợp này
phải có phiên dịch”.
Điều 21 Luật Di sản văn hóa năm 2013
cũng có những quy định tương tự. Tiếp đó,
Chính phủ Việt Nam đã ban hành Nghị định
8 Phê duyệt Đề án "Bảo tồn, phát huy trang phục truyền thống các dân tộc thiểu số Việt Nam trong giai đoạn hiện nay";
Website: https://bvhttdl.gov.vn/phe-duyet-de-an-bao-ton-phat-huy-trang-phuc-truyen-thong-cac-dan-toc-thieu-so-viet-
nam-trong-giai-doan-hien-nay-20190223064433559.htm
9 Xem
so-o-viet-nam-78222
số 82/2010/NĐ-CP quy định việc dạy và học
tiếng nói, chữ viết của dân tộc thiểu số trong
các cơ sở giáo dục phổ thông và trung tâm
giáo dục thường xuyên. Bộ Giáo dục và Đào
tạo đang hợp tác với UNICEF thí điểm thực
hiện giáo dục song ngữ trên cơ sở tiếng mẹ
đẻ tại 3 tỉnh Lào Cai, Trà Vinh, Gia Lai
Quyền tiếp cận và thụ hưởng các giá
trị văn hóa
Quyền thụ hưởng các giá trị văn hoá
có thể hiểu là quyền được thừa nhận và bảo
đảm nhu cầu cảm nhận và khai thác các giá
trị, các vốn xã hội tốt đẹp được sáng tạo, lưu
giữ trong đời sống cộng đồng của một cá
nhân, cộng đồng nào đó.
Quyền thụ hưởng các giá trị văn hoá
lần đầu tiên được nước ta ghi nhận vào một
văn bản pháp lý là tại Hiến pháp năm 2013
(Điều 41). Theo đó, quyền này tập trung vào
các khía cạnh sáng tạo, tiếp cận và hưởng thụ
các giá trị văn hóa tinh thần xã hội. Cụ thể,
Điều 24 Hiến pháp năm 2013 quy định: “Mọi
người có quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo,
theo hoặc không theo một tôn giáo nào. Các
tôn giáo bình đẳng trước pháp luật; Nhà nước
tôn trọng và bảo hộ quyền tự do tín ngưỡng,
tôn giáo; không ai được xâm phạm tự do tín
ngưỡng, tôn giáo hoặc lợi dụng tín ngưỡng,
tôn giáo để vi phạm pháp luật”; Điều 39:
“Công dân có quyền và nghĩa vụ học tập”.
Điều 40 Hiến pháp năm 2013 quy định: “Mọi
người có quyền nghiên cứu khoa học và công
nghệ, sáng tạo văn học, nghệ thuật và thụ
hưởng lợi ích từ các hoạt động đó”; Điều 41:
“Mọi người có quyền hưởng thụ và tiếp cận
các giá trị văn hóa, tham gia vào đời sống văn
hóa, sử dụng các cơ sở văn hóa”.
CHÑNH SAÁCH
37Số 20(396) T10/2019
Nhìn chung, có thể thấy, người dân dù
thuộc về bất kỳ DTTS nào hay là người dân
tộc Kinh, cũng đều được Nhà nước đảm bảo
quyền bình đẳng trong thụ hưởng và khuyến
khích phát huy các giá trị văn hóa do mình
hoặc cộng đồng tạo ra. Bên cạnh đó, Nhà
nước cũng tạo mọi điều kiện, cả về pháp luật
và cơ sở vật chất để đảm bảo quyền này của
người dân, trong đó có người DTTS.
3. Một số tồn tại trong thực thi chính sách
pháp luật về đảm bảo quyền văn hóa của
người dân tộc thiểu số
Chính sách pháp luật Việt Nam về
người DTTS nói chung và về quyền văn hóa
của người DTTS nói riêng vẫn tồn tại một số
điểm hạn chế như:
- Còn có sự chồng chéo, chưa phù
hợp mối quan hệ giữa chính sách vùng, cộng
đồng, chính sách cho hộ nói chung và chính
sách dân tộc, dẫn đến các can thiệp chính
sách còn chưa hiệu quả;
- Các chính sách này thường được
thiết kế theo phương thức “một can thiệp
phù hợp cho tất cả”, trong khi đặc điểm mỗi
vùng miền, địa phương, dân tộc là rất khác
biệt. Điều này không chỉ làm giảm sự phù
hợp của chính sách, mà còn hạn chế tính
sáng tạo, hiệu quả thực hiện chính sách ở
cấp địa phương.
- Hầu hết các chính sách trong thời
gian qua đều có một điểm chung là hỗ trợ
mang tính “cho không” mà không theo
hướng “có điều kiện”, nghĩa là người nghèo,
10 Ví dụ giảm nghèo sẽ là một nhân tố quan trọng gắn với mục tiêu tăng cơ hội đến trường cho học sinh, giảm tỷ lệ tử vong
bà mẹ, trẻ em; phát triển môi trường bền vững và cũng là nhân tố tích cực thúc đẩy bình đẳng giới... Tuy nhiên mỗi lĩnh
vực trên lại được quy định bởi những chính sách riêng rẽ, ít kết nối với nhau.
11 Cho đến thời điểm năm 2015 (trước khi có cuộc Tổng điều tra thực trạng kinh tế - xã hội 53 DTTS), chúng ta vẫn chưa
biết chắc chắn con số nghèo trong tổng thể và từng DTTS ở Việt Nam như thế nào? Trình độ phát triển của từng dân
tộc ra sao? Kể các các con số thống kế miêu tả về thực trạng y tế, giáo dục, bình đẳng giới, HIV/AIDS, môi trường của
vùng và các DTTS cũng hết sức rời rạc, không đầy đủ, thiếu cập nhật thường xuyên.
hộ, xã nghèo phải có trách nhiệm như thế
nào khi thụ hưởng chính sách của Nhà nước.
Ví dụ, chính sách giảm nghèo chưa được
tiếp cận đúng, vì không quy định điều kiện
đối với đối tượng thụ hưởng, dẫn đến tình
trạng trông chờ, ỷ lại vào chính sách của
Nhà nước, vì thế chính sách không tạo ra
động lực phát triển.
- Các chính sách về quyền văn hóa của
người DTTS được thiết kế thiếu sự gắn kết
với các chính sách của các ngành khác như
kinh tế, y tế dẫn tới phân tán, chồng chéo
trong chính sách, không thể thực hiện việc
điều phối chung để đạt được hiệu quả một
cách toàn diện và tổng thể10. Một số chính
sách cho vùng đồng bào DTTS nói chung
chưa được thiết kế, xây dựng và thực hiện
phù hợp với văn hóa, phong tục, tập quán,
ngôn ngữ của đồng bào, do vậy hiệu quả
chưa cao. Trong khi các thông tin, cơ sở dữ
liệu về các DTTS Việt Nam - nhất là thông
tin liên quan đến trình độ phát triển của các
DTTS - còn chưa đầy đủ, toàn diện và thiếu
cập nhật11.
- Bản sắc văn hóa của nhiều dân tộc
đang đứng trước nguy cơ mai một, bị đồng
hóa, nhất là ở các cộng đồng vùng nghèo
dưới tác động của đời sống kinh tế - xã hội
hiện đại, hiện tượng xâm thực văn hóa, xâm
nhập và biến đổi tôn giáo - tín ngưỡng diễn
ra ngày càng mạnh mẽ. Nhiều thiết chế tổ
chức, quản lý làng, bản truyền thống gắn với
các cộng đồng không gian văn hóa bị phá vỡ
(hoặc phá bỏ trong quá trình phát triển).
CHÑNH SAÁCH
38 Số 20(396) T10/2019
- Các thiết chế văn hóa cơ sở cho vùng
DTTS cũng đang hết sức nghèo nàn. Tỷ lệ
xã vùng DTTS không có nhà văn hóa lên
đến 53,3%; chỉ có 62,4% số thôn, bản có
nhà văn hóa/nhà sinh hoạt cộng đồng trong
tổng số 48.494 thôn, bản vùng DTTS, tỷ lệ
thôn, bản có loa truyền thanh cũng chỉ đạt
56,8%. Khu vực miền núi phía Bắc và Tây
Nguyên là những nơi đang gặp khó khăn
nhất về thiết chế văn hóa cơ sở. Sự mai một
và mất dần bản sắc văn hóa truyền thống các
DTTS (pha tạp, biến đổi, biến thái văn hóa,
mất dần ngôn ngữ mẹ đẻ) đang diễn ra
ở nhiều chiều cạnh khác nhau, nhất là đối
với 16 tộc người thiểu số rất ít người gồm:
Si La, Ơ Đu, Brâu, Rơ Măm, Pu Péo (dưới
1.000 người), Cống, Mảng, Bố Y, Lô Lô, Cờ
Lao, Ngái (dưới 5.000 người), Lự, Pà Thẻn,
Chứt, La Ha và La Hủ (dưới 10.000 người).
Từ ngôn ngữ, các vật dụng trong cuộc sống
hàng ngày, đến kiến trúc nhà ở, các lễ nghi
trong đời sống xã hội (hôn nhân, tang ma,
thờ cúng...) mang tính bản sắc truyền thống
và khác biệt của từng tộc người ít còn được
duy trì, thay vào đó là nét văn hóa của người
đa số. Hệ luỵ từ xu hướng này sẽ để lại những
hậu quả khó lường, nó không đơn thuần chỉ
là mai một bản sắc văn hoá truyền thống tộc
người, mà kết hợp với các tác động kinh tế -
xã hội khác có thể dẫn sự biến mất của một
số tộc người thiểu số trong tương lai12.
4. Một số đề xuất hoàn thiện pháp luật và
nâng cao hiệu quả thực thi quyền văn hóa
của người dân tộc thiểu số tại Việt Nam
Thứ nhất, Nhà nước cần tiếp tục thực
hiện các chính sách văn hóa đặc thù đối với
đồng bào DTTS, tiếp tục thực hiện tốt các
12 Tổng quan thực trạng 53 DTTS, Tiểu Dự án Hỗ trợ Giảm nghèo PRPP - Ủy ban Dân tộc do UNDP và Irish Aid tài trợ
nghiên cứu.
chính sách phát triển kinh tế - xã hội vùng
dân tộc và miền núi; rà soát, điều chỉnh, bổ
sung để hoàn chỉnh những chính sách đã có
và nghiên cứu ban hành những chính sách
mới, để đáp ứng yêu cầu phát triển các vùng
dân tộc và nhiệm vụ công tác dân tộc trong
giai đoạn mới. Đặc biệt với việc bảo tồn văn
hóa các DTTS, cần tiếp tục thực hiện các
mục tiêu và nhiệm vụ trọng tâm đã được đưa
ra trong Đề án “Bảo tồn, phát triển văn hóa
các DTTS Việt Nam đến năm 2020”, đó là:
- Bảo tồn khẩn cấp văn hóa các DTTS
rất ít người (có số dân dưới 10.000 người),
các DTTS tại các khu vực tái định cư dự án
thủy điện, liên thông, kết nối toàn diện với
các chương trình, dự án có liên quan.
- Xây dựng đời sống văn hóa và môi
trường văn hóa vùng đồng bào DTTS. Gắn
kết chặt chẽ những hoạt động xây dựng đời
sống văn hóa với nhiệm vụ phát triển kinh
tế - xã hội phù hợp với từng khu vực, từng
vùng, từng dân tộc, tôn giáo.
- Đẩy mạnh các hoạt động bảo tồn và
phát huy bản sắc văn hóa các DTTS kết hợp
với các chương trình phát triển kinh tế, phát
triển nghề thủ công truyền thống, du lịch
cộng đồng kết hợp với xóa đói giảm nghèo.
- Phát triển và hiện đại hóa mạng lưới
thông tin đại chúng, nâng cao chất lượng các
sản phẩm văn hóa, thông tin phù hợp. Đẩy
mạnh và phát huy hiệu quả công cụ phát
thanh, truyền hình phù hợp vùng đồng bào
DTTS.
- Xây dựng đồng bộ và nâng cao chất
lượng, hiệu quả hoạt động của các thiết chế
văn hóa cộng đồng, thực sự phát huy vai trò
CHÑNH SAÁCH
39Số 20(396) T10/2019
của cộng đồng trong tổ chức các hoạt động
cộng đồng phát huy hiệu quả thực sự của các
thiết chế văn hóa.
- Tăng cường các hoạt động giao lưu
văn hóa cấp địa phương, vùng, miền và toàn
quốc.
- Ban hành bộ chỉ số về phát triển văn
hóa các DTTS Việt Nam.
Thứ hai, ưu tiên đầu tư cho việc giữ
gìn và phát huy các loại hình nghệ thuật biểu
diễn truyền thống các DTTS; đồng thời sử
dụng hiệu quả, công khai, minh bạch nguồn
đầu tư của Nhà nước, có trọng tâm, trọng
điểm, ưu tiên các vùng miền núi, biên giới,
hải đảo, vùng đồng bào DTTS và một số loại
hình nghệ thuật truyền thống cần bảo tồn,
phát huy. Sưu tầm, phục hồi và phát triển
một số loại hình nghệ thuật truyền thống có
nguy cơ thất truyền.
Thứ ba, xây dựng các chính sách
khuyến khích hoạt động nghiên cứu, sưu
tầm, bảo quản, truyền dạy và giới thiệu
di sản văn hóa phi vật thể của cộng đồng
các DTTS Việt Nam; xây dựng đội ngũ trí
thức, văn nghệ sĩ trong các DTTS, có chính
sách khuyến khích họ trở về công tác tại địa
phương. Chú trọng đào tạo, bồi dưỡng đội
ngũ giáo viên giảng dạy các chuyên ngành
văn hóa. Có chính sách phát hiện, bồi dưỡng,
sử dụng, đãi ngộ, tôn vinh cán bộ trong lĩnh
vực văn hóa, nghệ thuật; trọng dụng người
có tài, có đức. Điều chỉnh chế độ tiền lương,
trợ cấp đối với những người hoạt động trong
các bộ môn nghệ thuật đặc thù.
Thứ tư, tiếp tục thực hiện xóa đói,
giảm nghèo, nâng cao mức sống của đồng
bào DTTS, trọng tâm là đồng bào ở vùng
cao, vùng sâu, vùng xa là tiền đề để người
DTTS thụ hưởng quyền văn hóa. Kết hợp
với các chương trình phủ sóng phát thanh,
truyền hình; tăng cường các hoạt động văn
hóa, thông tin, tuyên truyền hướng về cơ sở;
tăng thời lượng và nâng cao chất lượng các
chương trình phát thanh, truyền hình bằng
tiếng các DTTS; làm tốt công tác nghiên
cứu, sưu tầm, giữ gìn và phát huy các giá
trị, truyền thống tốt đẹp trong văn hóa của
các dân tộc. Thực hiện chương trình phổ cập
giáo dục trung học cơ sở và các chương trình
giáo dục miền núi, nâng cao chất lượng và
hiệu quả giáo dục, đào tạo, nhất là hệ thống
trường phổ thông dân tộc nội trú các cấp.
Thứ năm, tăng cường các chương
trình giáo dục song ngữ cho trẻ em DTTS và
đào tạo ngôn ngữ địa phương cho giáo viên
người Kinh tại các vùng DTTS, tuyển dụng
giáo viên DTTS nhiều hơn, cho phép ngôn
ngữ DTTS được dạy và được sử dụng như
một phương tiện giảng dạy trong các trường
học, hỗ trợ các chương trình giáo dục về văn
hóa của các nhóm DTTS.
Thứ sáu, đẩy mạnh công tác giáo dục,
tuyên truyền nâng cao nhận thức cho đồng
bào DTTS, khắc phục các rào cản tập quán,
tâm lý, nhất là các dân tộc có điều kiện
khó khăn về tầm quan trọng của việc tiếp
cận giáo dục trong xóa đói, giảm nghèo và
phát triển kinh tế - xã hội. Xây dựng chương
trình truyền thông phù hợp với các yếu tố về
văn hóa, giới, lứa tuổi và dân tộc. Phát triển
các mô hình truyền thông hiệu quả tại cộng
đồng; mở rộng và đa dạng hóa các hoạt động
truyền thông để nâng cao nhận thức của các
cấp ủy đảng, chính quyền và người dân về
giáo dục trong xóa đói, giảm nghèo và phát
triển kinh tế - xã hội. Tăng cường phổ biến
pháp luật, thông tin về các cơ chế chính sách
dân tộc nói chung và chính sách liên quan
đến giáo dục cho vùng DTTS nói riêng.
CHÑNH SAÁCH
40 Số 20(396) T10/2019
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Hiến pháp năm 2013.
2. Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014.
3. Luật Giáo dục năm 2005.
4. Luật Di sản văn hóa năm 2013.
5. Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII về “Xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân
tộc” năm 1998.
6. Nghị quyết số 33-NQ/TW khóa XI về “Xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu
cầu phát triển bền vững đất nước” năm 2014.
7. Khoa Luật, Đại học quốc gia Hà Nội: Luật quốc tế về quyền của các nhóm người dễ bị tổn thương, Nxb
Lao động xã hội, Hà Nội, 2011.
8. Bộ Ngoại giao, Sách trắng với chủ đề Bảo vệ và thúc đẩy quyền con người ở Việt Nam, 2018 http://
pbgdpl.moj.gov.vn/qt/tintuc/Pages/nhan-quyen.aspx?ItemID=5
9. Bộ Ngoại giao, Báo cáo quốc gia theo Cơ chế Rà soát định kỳ phổ quát (UPR) chu kỳ III của Hội đồng
Nhân quyền Liên hợp quốc
10. General Assembly, Report of the Special Rapporteur in the field of cultural rights, Farida Shaheed, 2015
11. PCIJ, Advisory Opinion on Interpretation of the Convention Between Greece and Bulgaria Respecting
Reciprocal Emigration, Signed at Neuilly-Sur-Seine on November 27th, 1919 https://www.icj-cij.org/files/
permanent-court-of-international-justice/serie_B/B_17/01_Communautes_greco bulgares_Avis_consultatif.pdf
12. Economic and Social Council, General Comment No. 21 https://tbinternet.ohchr.org/_layouts/15/
treatybodyexternal/Download.aspx?symbolno=E%2fC.12%2fGC%2f21&Lang=en
13. Human Rights Committee, Concluding observations on the third periodic report of Viet Nam, 28 March 2019,
https://tbinternet.ohchr.org/Treaties/CCPR/Shared%20Documents/VNM/CCPR_C_VNM_CO_3_34488_E.pdf
14. OHCHR, Minority Rights: International Standards and Guidance for Implementation https://www.
ohchr.org/Documents/Publications/MinorityRights_en.pdf
15. Fribourg Declaration on cultural Rights
16.
Thứ bảy, tổ chức các hoạt động văn
hoá như lễ hội, dịch vụ vui chơi giải trí, xây
dựng tủ sách, thành lập các câu lạc bộ, tạo
môi trường để người DTTS có cơ hội hưởng
thụ đầy đủ các quyền văn hoá. Loại bỏ mọi
tập tục lạc hậu, gắn tuyên truyền pháp luật
với phê phán những thói quen xấu, tư tưởng
trọng nam khinh nữ; đề cao, tôn vinh truyền
thống tốt đẹp của người DTTS.
Thứ tám, đồng bào DTTS cũng cần
chủ động trong việc thực hiện quyền văn
hóa của mình như tích cực tham gia vào
quá trình xây dựng các chương trình bảo
tồn, phát triển các truyền thống văn hóa dân
tộc; đào tạo cho các thế hệ sau những giá trị
riêng của dân tộc mình và xây dựng ý thức
bảo tồn chúng trong quá trình phát triển kinh
tế, hội nhập
CHÑNH SAÁCH
41Số 20(396) T10/2019
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- dam_bao_quyen_van_hoa_cua_nguoi_dan_toc_thieu_so_tai_viet_na.pdf