Đánh giá an toàn và hiệu quả của nội soi niệu quản ngược dòng tán sỏi bằng laser trong điều trị sỏi niệu quản

Kết quả tán sỏi Trong nghiên cứu của chúng tôi, tỷ lệ tán sỏi thành công và sạch sỏi chung là 93,7%, trong đó sự khác biệt của tỷ lệ thành công với vị trí và kích thước sỏi có ý nghĩa về mặt thống kê (bảng 3.2, 3.3). Theo nghiên cứu của Subhani G.M. và cộng sự (12) trên 540 trường hợp được tán sỏi thì tỷ lệ thành công chung là 89%: theo vị trí, 94,7% thành công ở đoạn niệu quản 1/3 dưới, 95,1% ở đoạn niệu quản 1/3 giữa và 44,7% ở đoạn niệu quản 1/3 trên; theo kích thước, tỷ lệ thành công là 98,2% đối với sỏi < 1 cm, 85,1% đối với sỏi từ 1-2 cm và 52,6% đối với sỏi từ 2-3 cm; sự khác biệt có ý nghĩa thống kê. Sỏi chạy vào thận chiếm 7,4% là nguyên nhân thất bại chính của phẫu thuật này. Theo tác giả Nguyễn Bửu Triều(3) sỏi niệu quản vị trí dưới và giữa thành công cao, lần lượt đạt tỉ lệ 98,0% và 94,4%, so với tỉ lệ thành công đối với sỏi niệu quản vị trí trên (gần) là 80,6%. Tỉ lệ thành công chung là 90,3%. Với sỏi kích thước > 20mm ở đoạn niệu quản gần cho kết quả thấp (61,7%).

pdf6 trang | Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 09/02/2022 | Lượt xem: 7 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đánh giá an toàn và hiệu quả của nội soi niệu quản ngược dòng tán sỏi bằng laser trong điều trị sỏi niệu quản, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Số 4 * 2015 214 ĐÁNH GIÁ AN TOÀN VÀ HIỆU QUẢ CỦA NỘI SOI NIỆU QUẢN NGƯỢC DÒNG TÁN SỎI BẰNG LASER TRONG ĐIỀU TRỊ SỎI NIỆU QUẢN Hoàng Đức Minh*, Nguyễn Hồng Dương*, Trương Vĩnh Quý*, Nguyễn Hữu Ngọc*, Nguyễn Văn Bình* TÓM TẮT Mục tiêu: Đánh giá tính an toàn và hiệu lực của nội soi niệu quản ngược dòng và tán sỏi laser Holmium trong điều trị sỏi niệu quản. Đối tượng và phương pháp: Nghiên cứu mô tả cắt ngang tiến cứu trên 126 trường hợp sỏi niệu quản được tán sỏi Laser qua nội soi niệu quản ngược dòng từ tháng 12/2013 đến tháng 4/2015 tại khoa ngoại Tổng hợp Bệnh viện Đa khoa tỉnh Quảng Trị. Kết quả: Tổng cộng 126 trường hợp, nam chiếm 41,3% (n=52), nữ chiếm 58,7% (n=74). Tuổi trung bình là 54,8 (21-83 tuổi). Sỏi niệu quản 1/3 trên có 19 trường hợp (15,1%), 1/3 giữa có 45 trường hợp (35,7%), 1/3 dưới có 62 trường hợp (49,2%). Điều trị thành công 118/126 trường hợp (93,7%). Theo vị trí, 100% thành công ở đoạn niệu quản 1/3 dưới (62/62 trường hợp), 91,1% ở đoạn niệu quản 1/3 giữa (41/45 trường hợp) và 78,9% ở đoạn niệu quản 1/3 trên (15/19 trường hợp). Theo kích thước, tỷ lệ thành công là 100% đối với sỏi <7mm (3/3 trường hợp), 93,2% đối với sỏi 7-10mm (55/59 trường hợp) và 93,8% đối với sỏi 11-20mm (60/64 trường hợp). Đặt sonde JJ niệu quản ở 63/118 trường hợp (53,4%). Phẫu thuật thất bại ở 8 trường hợp (6,3%), trong đó: 4 trường hợp (3,1%) sỏi chạy lên thận, 2 trường hợp (1,6%) không tiếp cận được sỏi và 2 trường hợp (1,6%) thủng niệu quản. Thời gian phẫu thuật trung bình là 13,5 phút (9-47 phút). Thời gian nằm viện hậu phẫu trung bình là 2,6 ngày (2-6 ngày). Kết luận: Tán sỏi niệu quản qua nội soi niệu quản là phương pháp an toàn, hiệu quả và tỉ lệ sạch sỏi cao nhất là với sỏi niệu quản nhỏ hơn 2 cm. Từ khóa: sỏi niệu quản, nội soi niệu quản tán sỏi, laser Holmium, sonde JJ niệu quản. ABSTRACT EVALUATION OF SAFETY AND EFFICACY OF URETEROSCOPIC LASER LITHOTRIPSY IN MANAGING URETERAL CALCULI Hoang Duc Minh, Nguyen Hong Duong, Truong Vinh Quy, Nguyen Huu Ngoc, Nguyen Van Binh * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 19 - No 4 - 2015: 214 - 219 Objectives: To ascertain the safety and efficacy of transurethral Ureteroscopy (URS) and Laser Holmium for the management of ureteral stones. Materials and Methods: This is a cross-sectional prospective descriptive study for 126 cases with ureteral stones have been treated by Ureteroscopy Laser lithotripsy at General department of Quang Tri General Hospital from December 2013 to April 2015. Results: Out of a total of 126 patients, 41.3% (n=52) were males and 58.7% (n=74) were females. The age ranged from 21-83 years, with the mean age of 54.8 years. There were 19 patients (15.1%) presented with lower ureteric stones, 45 patients (35.7%) presented with stones in the mid ureter, 62 patients (49.2%) presented with stones in the upper ureter. Overall, ureteric stones at different levels and of different sizes were treated successfully in 118 patients * Bệnh viện Đa khoa tỉnh Quảng Trị Tác giả liên lạc: PGS.TS. Lê Đình Khánh ĐT: 0913453945 Email: ledinhkhanh@hotmail.com Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Số 4 * 2015 Nghiên cứu Y học 215 (93.7%). Stones were successfully fragmented and cleared in the 62 of 62 patients (100%) with stones in the lower ureter, in 41 of 45 patients (91.1%) with stones in the mid ureter and in 15 of 19 patients (78.9%) with stones in the upper part of ureter. Stones were successfully fragmented in 3 out of 3 (100%), 55 out of 59 (93.2%) and 60 out of 64 patients (93.8%) with stone sizes of 10 mm respectively. DJ stents were inserted in 63/118 cases (53.4%). Procedure was not successful in 8 patients (6.3%). Stones were migrated up in to renal pelvis in 4 patient (3.1%), failure of URS insertion up to stone was in 2 patient (1.6%) and ureteric perforation was in 2 patient (1.6%). A average operative time was 13.5 minutes (9-47 minutes). The mean post- operation hospital stay was 2.6 days (2-6 days). Conclusion: Ureteroscopy lithotripsy using Laser Holmium is a safe and effective method of managing ureteric stones measuring less than 2 cm. Keywords: ureteral stones, ureteroscope lithotripsy, laser Holmium, double J stent. ĐẶT VẤN ĐỀ Sỏi niệu quản là một trong những bệnh lý thường gặp nhất của hệ tiết niệu. Ở Việt Nam, sỏi niệu quản chiếm tỷ lệ 25–30% trong tổng số các bệnh lý niệu khoa. Sỏi niệu quản có kích thước bé hơn 4mm sẽ tự đào thải ra tự nhiên trong 80% trường hợp nhưng sẽ rất thấp nếu có kích thước lớn hơn 7mm. Chính vì vậy theo khuyến cáo của nhiều trung tâm nghiên cứu về thận – tiết niệu lớn trên thế giới thì cần phải can thiệp để loại bỏ sỏi niệu quản khi có kích thước lớn hơn 6-7mm(2,12,14). Tùy vào vị trí, kích thước và những yếu tố liên quan khác mà có nhiều lựa chọn điều trị sỏi niệu quản: theo dõi, sử dụng thuốc tống sỏi, tán sỏi ngoài cơ thể, tán sỏi qua nội soi niệu quản xuôi và ngược dòng, phẫu thuật nội soi xuyên và sau phúc mạc, phẫu thuật mở(2,14). Đối với sỏi niệu quản đoạn trên thì tán sỏi ngoài cơ thể và nội soi niệu quản ngược dòng tán sỏi là hai phương pháp được lựa chọn hàng đầu trong điều trị với kết quả tán sỏi thành công cao trên 90%. Nhưng đối với sỏi niệu quản đoạn dưới do có sự hiện diện của các quai ruột và xương chậu chắn ngang nên làm giảm hiệu lực của tán sỏi ngoài cơ thể. Mặt khác, đối với sỏi niệu quản 2 bên thì nội soi niệu quản ngược dòng tán sỏi ưu thế hơn hẳn so với tán sỏi ngoài cơ thể(7,10,12,16). Nội soi niệu quản điều trị sỏi đường tiết niệu ra đời và phát triển mạnh mẽ trong 20 năm gần đây đã mở ra một cuộc cách mạng trong lĩnh vực điều trị sỏi tiết niệu nói chung và sỏi niệu quản nói riêng. Hiện tại trên thế giới có nhiều thiết bị tán sỏi trong cơ thể: tán sỏi thủy điện lực, tán sỏi bằng sóng siêu âm, tán sỏi xung hơi và tán sỏi laser. Mỗi thiết bị tán sỏi có ưu thế điều trị sỏi niệu quản riêng. Theo nhiều nghiên cứu trên thế giới thì tán sỏi bằng laser Holmium mang lại kết quả cao nhất đến trên 95% và tỷ lệ biến chứng thấp hơn 4% với những ưu thế: giảm tai biến sỏi chạy lên thận, ít gây tổn thương niệu quản, khả năng làm vụn sỏi cao hơn và nhất là đối với những viên sỏi bé hơn 2cm(1,5,13). Bệnh viện Đa khoa tỉnh Quảng Trị đã ứng dụng nội soi niệu quản bằng ống soi 2 kênh thao tác vào năm 2011 và kết hợp tán sỏi niệu quản bằng xung hơi, đến tháng 11/2013 thì tán sỏi bằng laser đã được đưa vào sử dụng. Nghiên cứu này nhằm mục tiêu đánh giá sự an toàn và hiệu quả của nội soi niệu quản ngược dòng tán sỏi bằng laser Holmium trong điều trị sỏi niệu quản được thực hiện từ tháng 12/2013 đến tháng 4/2015 tại Bệnh viện chúng tôi. ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Đối tượng nghiên cứu Gồm 126 trường hợp có sỏi niệu quản được điều trị tán sỏi niệu quản bằng laser Holmium qua nội soi niệu quản ngược dòng từ tháng 12/2013 đến tháng 4/2015. Tiêu chuẩn chọn bệnh - Sỏi niệu quản một hoặc hai bên, ở tất cả các vị trí của niệu quản. - Sỏi niệu quản có kích thước ≥ 6 mm, hoặc Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Số 4 * 2015 216 sỏi gây đau nhiều mà điều trị nội khoa không có kết quả. - Kích thước sỏi ≤ 2 cm, bệnh nhân lớn hơn 12 tuổi. - Chức năng thận bên có sỏi còn tốt. Tiêu chuẩn loại trừ Các bệnh nhân có chống chỉ định nội soi niệu quản: - Chức năng thận bên có sỏi giảm nặng hoặc mất chức năng. - Bệnh nhân có nhiễm khuẩn tiết niệu chưa được điều trị ổn định. - Bệnh nhân đang điều trị rối loạn đông máu hoặc đang sử dụng các thuốc chống đông. - Bệnh nhân có bệnh lý giải phẫu đường tiết niệu chưa được điều trị gây khó khăn cho việc đặt ống soi niệu quản (hẹp niệu đạo, túi sa niêm mạc niệu quản, phì đại lành tính tiền liệt tuyến lớn). Phương pháp nghiên cứu Nghiên cứu mô tả cắt ngang, tiến cứu có hồi cứu. Dụng cụ và trang thiết bị - Ống soi niệu quản bán cứng kích thước 8,5 Fr, 43 cm với 2 kênh thao tác của hãng Karl Storz (Đức). - Hệ thống camera, màn hình, nguồn sáng. - Hệ thống tán sỏi laser Holmium của Hang (Trung Quốc). - Guidewire, sonde JJ. - Thông có giỏ (rọ Dormia), kềm gắp sỏi. - Dung dịch rửa NaCl 0,9 %. Kỹ thuật - Bệnh nhân được gây tê tủy sống và nằm tư thế sản khoa. - Đưa ống soi niệu quản bán cứng qua niệu đạo vào bàng quang, tìm lỗ niệu quản sau đó soi và luồn dây dẫn vào niệu quản qua vị trí sỏi lên bể thận. - Nong lỗ niệu quản dưới áp lực nước để đưa máy soi vào lỗ niệu quản. - Dựa trên dây dẫn (guidewire) ta đưa từ từ ống soi vào niệu quản. Khi ống soi đã vào niệu quản, trên hình ảnh soi giống như ta đi vào đường hầm, cần từ từ đưa máy sâu dần cho đến khi tiếp cận được sỏi, đưa ống soi niệu quản lên đến sát với viên sỏi. Nếu sỏi nhỏ không gặm chặt vào niệu quản ta có thể dùng thông có giỏ gắp viên sỏi ra. Đối với sỏi lớn không có khả năng kéo trực tiếp sỏi qua niệu quản, tiến hành tán sỏi bằng laser Holmium. Khi đã tán sỏi vỡ nhỏ, mỗi mảnh ≤ 3 mm là đạt. Những hòn sỏi lớn hơn 3 mm sẽ được lấy ra bằng kềm gắp hoặc bằng rọ hoặc kéo sỏi chạy ra ngoài theo dòng nước chảy. Đặt sonde JJ niệu quản lưu trong 4 tuần. Ghi nhận tất cả những kết quả tán sỏi, tai biến và biến chứng sớm sau tán sỏi vào phiếu theo dõi. Ghi nhận sau phẫu thuật Tất cả bệnh nhân đều được siêu âm hệ niệu và chụp XQ hệ niệu không chuẩn bị (KUB) sau 1 tháng xuất viện để đánh giá tình trạng sạch sỏi. Tiêu chuẩn thành công Không còn triệu chứng và sạch sỏi hoặc còn các mảnh sỏi ≤ 3 mm trên phim hệ tiết niệu và siêu âm. Tiêu chuẩn thất bại Bao gồm các trường hợp sau: - Các trường hợp thất bại được xác định ngay trong mổ: + Không tiếp cận được sỏi. + Sỏi di chuyển ngược vào thận trong quá trình tán. + Tổn thương niệu quản phải dừng phẫu thuật. - Các trường hợp trên phim KUB và siêu âm kiểm tra sau 1 tháng thấy sỏi vỡ nhưng còn mảnh sỏi > 3 mm, phải dùng phương pháp khác để điều trị. Xử lí số liệu Tất cả các trường hợp nằm trong tiêu chuẩn chọn bệnh sẽ được ghi nhận vào phiếu Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Số 4 * 2015 Nghiên cứu Y học 217 theo dõi và số liệu sẽ được xử lý bằng phần mềm SPSS 16.0. KẾT QUẢ Bệnh nhân - Tuổi: trung bình là 54,8 ± 11,7 tuổi (21 – 83). - Giới: Nam/nữ = 52/74. Sỏi niệu quản và thận liên quan - Vị trí: bên phải chiếm 61 trường hợp (51,6%), bên trái chiếm 65 trường hợp (48,4u%). - Kích thước sỏi: trung bình 13,2 ± 3,8 mm (4 – 20 mm), trong đó: sỏi ≤ 6mm chiếm 3/126 trường hợp (2,4%); sỏi 7 – 10mm chiếm 59/126 trường hợp (46,8%); sỏi > 10mm và ≤ 20mm chiếm 64/126 trường hợp (57,4%). - Vị trí viên sỏi trên niệu quản: 1/3 trên: 19/126 trường hợp (15,1%); 1/3 giữa: 45/126 trường hợp (35,7%); 1/3 dưới: 62/126 trường hợp (49,2%). - Mức độ ứ nước thận: Độ I: 21/126 trường hợp (16,7%); độ II: 68/126 trường hợp (54,0%); độ III: 37/126 trường hợp (29,3%). Quá trình phẫu thuật - Tán sỏi thành công: 118/126 trường hợp (93,7%). - Tình trạng niệu quản lúc soi: Phù nề thành niệu quản: 23/118 trường hợp (19,5%); polype niệu quản dưới vị trí sỏi: 31/118 trường hợp (26,3%); hẹp niệu quản dưới sỏi: 10/118 trường hợp (8,5%). Nguyên nhân thất bại phẫu thuật (tai biến trong mổ) và cách xử trí Bảng 1. Tai biến và cách xử trí Tai biến n (%) Cách xử trí Sỏi chạy lên thận 4 (3,1%) Đặt sonde JJ niệu quản + TSNCT bổ sung Thủng niệu quản 2 (1,6%) Đặt sonde JJ niệu quản + soi tán sỏi sau 8 tuần Hẹp khít NQ 2 (1,6%) Chuyển mổ mở lấy sỏi + sonde JJ NQ/ 8 tuần Tỷ lệ tán sỏi thành công so với vị trí sỏi Bảng 2. Tỷ lệ tán sỏi thành công so với vị trí sỏi Vị trí sỏi Số TH Số TH thành công Tỷ lệ p 1/3 trên 19 15 78,9% < 0,05 1/3/ giữa 45 41 91,1% 1/3 dưới 62 62 100% Tổng 126 118 93,7% Tỷ lệ tán sỏi thành công so với kích thước sỏi Bảng 3. Tỷ lệ tán sỏi thành công so với kích thước sỏi Kích thước viên sỏi (mm) Số TH Số TH thành công Tỷ lệ p 0 – 6 mm 3 3 100% < 0,05 7 – 10 mm 59 55 93,2% 11 – 20 mm 64 60 93,8% Tổng 126 118 93,7% - Thời gian tiếp cận sỏi: trung bình là 6,2 ± 4,1 phút (3 – 17 phút). - Thời gian tán sỏi: trung bình là 4,1 ± 6,5 phút (1 – 28 phút). - Đặt sode JJ niệu quản: có 63/118 trường hợp (53,4%). - Thời gian phẫu thuật: trung bình là 13,5 ± 5,9 phút (9 – 47 phút). Theo dõi sau phẫu thuật - Biến chứng hậu phẫu: có 17 trường hợp đái máu (14,4%); 11 trường hợp nhiễm trùng đường tiểu sau phẫu thuật (9,3%), tất cả được điều trị nội khoa thành công. - Thời gian hậu phẫu trung bình: ngoại trừ những trường hợp có tai biến và biến chứng thì các bệnh nhân đều nằm tại bệnh viện 2 ngày sau phẫu thuật để điều trị kháng sinh và theo dõi, sau đó ra viện. Thời gian hậu phẫu trung bình tất cả các trường hợp là 2,6 ± 1,5 ngày (2-6 ngày). - Tỷ lệ sạch sỏi sau 1 tháng theo dõi: 105/118 trường hợp sạch sỏi chiếm 89,0%. BÀN LUẬN Lựa chọn phương pháp điều trị sỏi niệu quản nào? Hiện nay, tán sỏi niệu quản và tán sỏi ngoài cơ thể đều là các phương pháp được lựa chọn đầu tiên đối với điều trị sỏi niệu quản(2,14). Tuy Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Số 4 * 2015 218 nhiên, phương pháp nào được cho là tối ưu thì vẫn còn bàn cãi và còn tùy thuộc vào vị trí sỏi, kích thước sỏi, phương tiện sẵn có, kỹ năng, thói quen và kinh nghiệm của từng phẫu thuật viên cũng như ý kiến của bệnh nhân. Tán sỏi ngoài cơ thể là phương pháp điều trị không xâm nhập nhưng có nhiều yếu tố như: vị trí, kích thước và thành phần của viên sỏi, mức độ bám dính của sỏi vào thành niệu quản; sự hiện diện của xương cũng như các quai ruột giữa sỏi và máy tán sỏi; béo phì; hẹp niệu quản làm giảm hiệu lực của tán sỏi ngoài cơ thể. Đồng thời trong những trường hợp sỏi niệu quản cả 2 bên thì nội soi niệu quản ngược dòng là phương pháp tối ưu hơn cả và có thể tán sỏi cả 2 bên một lần. Chính những điều này đã giúp cho vai trò của nội soi niệu quản tán sỏi trong điều trị sỏi niệu quản ngày càng cao(7,10,12,16). Kỹ thuật tán sỏi Việc đặt máy soi niệu quản và tiếp cận sỏi là yếu tố tiên quyết để tán sỏi niệu quản thành công. Có nhiều yếu tố ảnh hưởng đến việc đặt máy soi niệu quản: sỏi đoạn xa thường dễ tiếp cận sỏi hơn sỏi niệu quản đoạn gần vì khi đưa máy soi lên cao làm niệu quản phía dưới sỏi uốn khúc do động tác đẩy máy soi, nhất là khi không đưa dây dẫn đường vượt qua sỏi được. Hẹp miệng niệu quản hay hẹp niệu quản hay polype niệu quản cũng gây không ít khó khăn cho sự tiếp cận sỏi. Có 10 trường hợp hẹp niệu quản bên dưới vị trí sỏi (8,5%) được chúng tôi cắt đoạn hẹp bằng laser. Tuy nhiên có 2 trường hợp hẹp niệu quản (1,6%) không thể tiếp cận được sỏi phải chuyển mổ mở để giải quyết đoạn hẹp và lấy sỏi. Tình trạng phù nề viêm nhiễm (19,5%) cũng như polype niệu quản (26,3%) đôi khi cũng ngăn cản việc nhìn rõ sỏi và tiếp xúc với sỏi, đồng thời làm kéo dài thời gian tán và lấy sỏi. Đặt sonde JJ niệu quản lúc nào? Hiện nay, vấn đề đặt sonde JJ niệu quản sau tán sỏi cũng đang còn nhiều bàn cãi. Có một số tác giả cho rằng việc đặt sonde JJ niệu quản sau tán sỏi niệu quản sẽ làm giảm nguy cơ tắc nghẽn đường tiểu sau tán sỏi, hẹp niệu quản và nhiễm trùng (8), (11). Nhưng nhiều nghiên cứu đã cho thấy rằng đặt sonde JJ thường quy sau tán sỏi niệu quản không làm giảm các biến chứng nhiễm trùng, cơn đau quặn thận sau tán (dấu hiệu có bế tắc niệu quản cấp tính), và đặt sonde JJ không làm mất nguy cơ hẹp niệu quản thậm chí nó còn là nguyên nhân gây đái máu sau tán sỏi, đau hông và tiểu buốt rát(2,9,12,4). Chính vì vậy, chúng tôi chỉ đặt sonde JJ trong các trường hợp sau: sỏi niệu quản gây thận ứ nước độ 3 trở lên; sỏi niệu quản chạy lên thận trong quá trình thao tác; trong lúc soi phát hiện có hẹp niệu quản; niệu quản có nhiều polype có khả năng cản trở các mảnh sỏi thoát ra ngoài; tổn thương niệu quản trong quá trình soi hoặc tán sỏi; sỏi dạng khảm, bám dính vào niệu mạc gây phù nề thành niệu quản. Đối với các trường hợp sỏi nhỏ, niêm mạc niệu quản bình thường, không có tổn thương và niệu quản không hẹp, không phù nề chúng tôi sẽ không đặt sonde JJ niệu quản. Tai biến và biến chứng sau tán sỏi Về tai biến, chúng tôi không gặp trường hợp nào nghiêm trọng ngoại trừ 4 trường hợp sỏi chạy lên thận (3,1%), 2 trường hợp thủng niệu quản (1,6%) và 2 trường hợp hẹp niệu quản không thể tiếp cận sỏi (1,6%). Biến chứng hậu phẫu chúng tôi gặp 17 trường hợp đái máu (14,4%) và 11 trường hợp nhiễm trùng đường tiểu sau tán sỏi (9,3%) và tất cả đều được điều trị bằng nội khoa thành công. Theo nghiên cứu của Ullah I. và cs(15) trên 82 trường hợp tán sỏi bằng laser thì tỷ lệ tai biến toàn bộ là 17,0% trong đó có 12,2% sỏi chạy lên thận, 2,4% thủng niệu quản, 1,2% bật gốc niệu quản và 2,4% nhiễm trùng đường tiểu sau tán sỏi. Kelly J. D. và cs (6) nghiên cứu 250 trường hợp sỏi niệu quản được tán sỏi bằng laser thì có 17 trường hợp (6,8%) sỏi chạy vào thận, 15 trường hợp (6,0%) thủng niệu quản, 4 trường hợp (1,6%) nhiễm trùng đường tiểu sau mổ, 1/250 trường hợp (0,4%) bị suy thận cấp sau tán Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Số 4 * 2015 Nghiên cứu Y học 219 sỏi do tán sỏi đồng thời 2 bên và phải nằm viện đến 55 ngày. Trong nghiên cứu 1519 trường hợp của Nguyền Bửu Triều (3) tác giả có nêu lên một số tai biến như sỏi chạy lên thận (2,16%), lộn niêm mạc vào trong bàng quang (0,13%), thủng niệu quản (0,13%), đứt niệu quản (0,06%). Kết quả tán sỏi Trong nghiên cứu của chúng tôi, tỷ lệ tán sỏi thành công và sạch sỏi chung là 93,7%, trong đó sự khác biệt của tỷ lệ thành công với vị trí và kích thước sỏi có ý nghĩa về mặt thống kê (bảng 3.2, 3.3). Theo nghiên cứu của Subhani G.M. và cộng sự (12) trên 540 trường hợp được tán sỏi thì tỷ lệ thành công chung là 89%: theo vị trí, 94,7% thành công ở đoạn niệu quản 1/3 dưới, 95,1% ở đoạn niệu quản 1/3 giữa và 44,7% ở đoạn niệu quản 1/3 trên; theo kích thước, tỷ lệ thành công là 98,2% đối với sỏi < 1 cm, 85,1% đối với sỏi từ 1-2 cm và 52,6% đối với sỏi từ 2-3 cm; sự khác biệt có ý nghĩa thống kê. Sỏi chạy vào thận chiếm 7,4% là nguyên nhân thất bại chính của phẫu thuật này. Theo tác giả Nguyễn Bửu Triều(3) sỏi niệu quản vị trí dưới và giữa thành công cao, lần lượt đạt tỉ lệ 98,0% và 94,4%, so với tỉ lệ thành công đối với sỏi niệu quản vị trí trên (gần) là 80,6%. Tỉ lệ thành công chung là 90,3%. Với sỏi kích thước > 20mm ở đoạn niệu quản gần cho kết quả thấp (61,7%). KẾT LUẬN Tán sỏi niệu quản bằng laser Holmium qua nội soi niệu quản ngược dòng là một bước đột phá trong điều trị bệnh lý sỏi tiết niệu. Do tính hiệu quả và an toàn cao, không gây ra các tai biến và biến chứng nguy hiểm, phương pháp này đang và đã thay thế phương pháp mổ mở và nội soi sau phúc mạc trong đa số các trường hợp sỏi niệu quản. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Aranda J. M., Martínez G. M. (2004), “Outpatient ureteroscopy in ureteral calculi: Comparison of 4 different lithotriptors”, Mex. Journal, Vol. 19, No.1, pp. 33-7. 2. Cui Y., Cao W., Shen H. (2014), “Comparison of ESWL and Ureteroscopic Holmium Laser lithotripsy in Management of Ureteral Stones”, Plos One, Vol. 9, pp. 126-31. 3. Dương Văn Trung, Lê Ngọc Từ, Nguyễn Bửu Triều (2004), “Kết quả tán sỏi niệu quản nội soi ngược dòng cho 1519 bệnh nhân tại bệnh viện Bưu điện 1 Hà Nội”, Y Học Thực hành, tập 141, tr. 497-500. 4. Hoàng Văn Tùng, Nguyễn Khoa Hùng, Lê Đình Khánh và cộng sự (2009), “Điều trị sỏi niệu quản bằng tán sỏi qua nội soi ngược dòng tại Bệnh viện Trung Ương Huế”, Tạp chí Y học thực hành, (690 + 691), tr. 178 – 184. 5. Jeon S. S., Hyun J. H., Lee K. S. (2005), “A comparison of holmium:YAG laser with Lithoclast lithotripsy in ureteral calculi fragmentation”, Int J Urol, Vol. 12, pp. 544-7. 6. Kelly J. D., Keane P. F., Johnston S. R. (1995), “Laser lithotripsy for ureteric calculi: Results in 250 patients”, The Ulster Medical Journal, Vol. 64, No. 2, pp. 126-130. 7. Khalil M. (2013), “Management of impacted proximal ureteral stone: Extracorporeal shock wave lithotripsy versus ureteroscopy with holmium: YAG laser lithotripsy”, Urology Annals, 5(2), pp. 88 – 92. 8. Nguyễn Minh Quang, Võ Đình Kha (2003), “Nội soi niệu quản tán sỏi bằng Laser: kinh nghiệm bước đầu qua 50 trường hợp”, Y Học TP. Hồ Chí Minh, tập 7, Phụ bản của Số 1, tr. 75-79. 9. Nuttall M. C., Abbaraju J., Dickinson I. K. (2010), “A review of studies reporting on complications of upper urinary tract stone ablation using the holmium:YAG laser”, British Journal of Medical and Surgical Urology, 3(4), pp. 151 – 159. 10. Papadoukakis S., Stolzenburg J. U. (2006), “Treatment Strategies of Ureteral Stones”, Eau-Ebu Update, Vol. 4, pp. 184– 190. 11. Shigemura K et al. (2012), “How long should double J stent be kept in after ureteroscopic lithotripsy?”, Urological Resarch, 40 (4), pp. 373 – 376. 12. Subhani G. M. (2009), “Outcome of Retrograde Ureteroscopy for the Management of Ureteric Calculi: Four Years Experience”, A.P.M.C, Vol. 3, No.1, pp. 8-12. 13. Tipu S. A., Malik H. A., Mohhayuddin N. et al. (2007), “Treatment of ureteric calculi--use of Holmium: YAG laser lithotripsy versus pneumatic lithoclast”, J Pak Med Assoc, Vol. 57, pp. 440-3. 14. Türk C, Knoll T, Petrik A, Sarica K, Skolarikos A, Straub M, Seitz C (EAU 2013), “Ureterorenoscopy”, Guidelines on urolithiasis, pp. 33 – 35. 15. Ullah I. et al. (2011), “Evaluation of safety and efficacy of ureteroscopic lithotripsy in managing ureteral calculi”, Ann. Pak. Inst. Med. Sci., Vol. 7, No. 3, pp. 119-112. 16. Ziaee S. A. M. et al. (2008), “Management of 10 – 15 mm proximal ureteral stone: Ureteroscopy or Extracorporeal Shockwave Lithotripsy?”, Urology, 71(1), pp. 28 – 31. Ngày nhận bài báo: 10/05/2015 Ngày phản biện nhận xét bài báo: 01/06/2015 Ngày bài báo được đăng: 05/08/2015

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfdanh_gia_an_toan_va_hieu_qua_cua_noi_soi_nieu_quan_nguoc_don.pdf
Tài liệu liên quan