Đánh giá ảnh hưởng của Canxi Hydroxit và Sodium Hypochlorite lên độ vi cứng của ngà chân răng

Kết quả đánh giá tác động của sodium hypochlorite cũng tương đồng với nghiên cứu của Lê Thị Hương (2013)(3) cho thấy đặt NaOCl 3% trong ống tủy 1 giờ làm giảm độ vi cứng của ngà chân răng, và tương tự nghiên cứu của Saleh và Ettman (1999), Oliveira (2007), Al-Weshah (2010, 2012). Ảnh hưởng của sodium hypochlorite ở những nồng độ và thời gian tác dụng khác nhau lên độ vi cứng của ngà răng được tìm thấy ở nhiều nghiên cứu khác trên thế giới. Tuy nhiên, nghiên cứu này chúng tôi dùng NaOCl nồng độ thấp (2,5%), và chỉ bơm rửa trong thời gian ngắn (tối đa chỉ khoảng 15-20 phút/chân răng-tương tự thời gian thực hiện trên thực tế lâm sàng), ngắn hơn thời gian tiếp xúc NaOCl của các nghiên cứu khác nên ảnh hưởng của NaOCl có thể không đáng kể, có lẽ vì vậy mà sự khác biệt độ cứng của nhóm này với nhóm bơm rửa nước cất là không có ý nghĩa thống kê. Tuy vậy, cần lưu ý rằng mặc dù tác dụng làm mềm tương đối của tác nhân bơm rửa lên thành ngà của ống tủy có thể có lợi ích lâm sàng bởi vì cho phép việc sửa soạn ống tủy nhanh chóng hơn, nhưng những thay đổi này ảnh hưởng đến độ vi cứng của ngà chân răng. Qua đó, các nhà lâm sàng cần lưu ý thời gian tiếp xúc tối thiểu và giảm nồng độ sodium hypochlorite để hạn chế những tác dụng không mong muốn.

pdf5 trang | Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 28/01/2022 | Lượt xem: 48 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đánh giá ảnh hưởng của Canxi Hydroxit và Sodium Hypochlorite lên độ vi cứng của ngà chân răng, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 2 * 2014 Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Răng Hàm Mặt 235 ĐÁNH GIÁ ẢNH HƯỞNG CỦA CANXI HYDROXIT VÀ SODIUM HYPOCHLORITE LÊN ĐỘ VI CỨNG CỦA NGÀ CHÂN RĂNG Đinh Thị Khánh Vân*, Bùi Huỳnh Anh*, Huỳnh Thị Thùy Trang* TÓM TẮT Mục tiêu: Đánh giá ảnh hưởng của canxi hydroxit và sodium hypochlorite lên độ vi cứng của ngà chân răng sau thời gian đặt canxi hydroxit trong ống tủy 7 ngày . Phương pháp: Nghiên cứu in vitro được thực hiện trên 30 răng cối nhỏ vĩnh viễn một chân đã đóng chóp. Tất cả các răng được cắt ngay dưới đường tiếp nối men- xê măng và được chia ngẫu nhiên thành ba nhóm (n=10), các chân răng được sửa soạn ống tủy bằng trâm dũa K. Nhóm 1 là nhóm chứng- bơm rửa bằng nước cất khi sửa soạn, nhóm 2 bơm rửa bằng nước cất khi sửa soạn và đặt canxi hydroxit trong ống tủy 7 ngày, nhóm 3 bơm rửa bằng NaOCl 2,5% khi sửa soạn và đặt canxi hydroxit trong ống tủy 7 ngày. Sau đó các chân răng được đo độ cứng theo thang đo độ cứng Vickers tại vị trí cách gờ ống tủy 100µm với tải lực 100g trong 10 giây. Sử dụng phần mềm SPSS 16.0 với phép kiểm Anova để ghi nhận và xử lý kết quả. Kết quả: Sau 7 ngày, độ vi cứng ngà chân răng ở cả hai nhóm sửa soạn ống tủy bơm rửa nước cất và nhóm bơm rửa sodium hypochlorite 2,5% thấp hơn có ý nghĩa thống kê so với nhóm chứng (p < 0,05); độ vi cứng ngà chân răng của hai nhóm này không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê (p > 0,05). Kết luận: Việc đặt canxi hydroxit trong ống tủy làm giảm độ vi cứng ngà chân răng. Sửa soạn ống tủy bơm rửa với sodium hypochlorite 2,5% không gây ảnh hưởng đáng kể trên độ cứng ngà răng. Từ khóa: canxi hydroxit, độ vi cứng, ngà chân răng. ABSTRACT THE IN VITRO EFFECT OF CALCIUM HYDROXIDE AND SODIUM HYPOCHLORITE ON THE MICROHARDNESS OF RADICULAR DENTIN Dinh Thi Khanh Van, Bui Huynh Anh, Huynh Thi Thuy Trang * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 18 - Supplement of No 2 - 2014: 235 - 239 Objectives: The aim of this study was to evaluate the effect of sodium hypochlorite 2.5% as an irrigant in root canal treatment and calcium hydroxide as an an intracanal dressing on the microhardness of radicular dentin after 7 days exposure. Methods: In this in vitro study, 30 single root premolars with its crowns were removed at the cement- enamel junction The sample was then randomly divided into 3 groups of 10 roots each; and the root canals then were prepared with K-files, group 1 (control group)- using sterile water as an irrigant; group 2- using sterile water as an irrigant and having calcium hydroxide application for 7 days; group 3- using 2.5% sodium hypochlorite as an irrigant and having calcium hydroxide application for 7 days. Dentin microhardness of all groups was measured using a Vicker’s indenter with a load of 100 g for 10 seconds. Data were statistically analyzed using one-way ANOVA test. Result: After 7 days application of calcium hydroxide, there was a statistically significant (p < 0.05) difference in the decrease of dentin microhardness in both groups 2,3 when compare with the control group 1. The diference of microhardness between group 2 and 3 was no statistically significant (p > 0.05). * Bộ Môn Chữa Răng – Nội Nha, Khoa Răng Hàm Mặt, Đại Học Y Dược TPHCM Tác giả liên lạc: ThS Bùi Huỳnh Anh ĐT: 0909094950 Email: buihuynhanh@yahoo.fr Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 2 * 2014 Chuyên Đề Răng Hàm Mặt 236 Conclusion: According to the result of this study, the use of calcium hydroxide as an intracanal dressing softens dentin after 7 days. The irrigation solution of 2.5% sodium hypochlorite was found no significant effect on root dentin microhardness. Key words: Calcium hydroxide, microhardness, root dentin. ĐẶT VẤN ĐỀ Trong điều trị nội nha lâm sàng, canxi hydroxit là vật liệu được dùng phổ biến để kiểm soát nhiễm trùng trong ống tủy trong thời gian ngắn hạn hay dài hạn. Các sản phẩm có canxi hydroxit đã được chứng minh là có hiệu quả đáng kể trong điều trị nhiều tình trạng bệnh lý của răng như: hỗ trợ việc tạo ra ngà sửa chữa trong điều trị răng bị lộ tủy, kích thích đóng chóp ở những răng đã lấy tủy chưa phát triển hoàn tất (Fava 1994), hỗ trợ sự lành thương của sang thương quanh chóp (Crabb, 1965; Kennedy và Simpson 1969), ngăn ngừa hay làm ngừng lại quá trình tiêu chân răng (Andreasen, 1971) và sửa chữa chỗ thủng do nội tiêu chân răng (Frank và Weine, 1973). Ngày nay, canxi hydroxit là chất được lựa chọn để băng thuốc trong ống tủy khi một răng không thể điều trị hoàn tất trong một lần hẹn. Tuy nhiên, một số nghiên cứu cho thấy việc tiếp xúc trong thời gian dài với canxi hydroxit làm giảm có ý nghĩa thống kê độ bền cơ học của ngà chân răng (độ bền uốn, độ bền kéo, môđun đàn hồi, độ vi cứng..) (2,8), nguyên nhân là do có sự tăng độ pH khi ion hydroxit khuyếch tán trong các ống ngà làm giảm độ bền liên kết giữa hydroxyapatite và collagen. Vì vậy vẫn có nhiều tranh cãi liên quan đến thời gian cho canxi hydroxit tiếp xúc ngà chân răng đủ để đạt hiệu quả mong muốn mà không gây ảnh hưởng đáng kể đến tính chất của ngà răng. Bên cạnh đó, sodium hypochlorite (2,5- 5,25%) là chất bơm rửa phổ biến được khuyến cáo sử dụng trong điều trị nội nha với ưu điểm nổi bật là khả năng kháng khuẩn, kháng nấm, khả năng hòa tan mô tủy và thành phần hữu cơ trong lớp mùn. Một vài nghiên cứu đánh giá ảnh hưởng của sodium hypochlorite trên thành phần và cấu trúc ngà cho thấy có sự giảm độ cứng và mô đun đàn hồi ngà khi sử dụng sodium hypochlorite nồng độ cao(3,5). Điều này được giải thích là do khả năng hòa tan collagen làm ảnh hưởng đến thành phần hữu cơ trong mô ngà của dung dịch Sodium hypochlorite. Vì vậy việc đánh giá ảnh hưởng của sodium hypochlorite lên tính chất ngà răng cũng như lựa chọn nồng độ và thời gian bơm rửa thích hợp trong ống tủy là cần thiết cho điều trị nội nha lâm sàng. Chúng tôi thực hiện nghiên cứu này nhằm xác định ảnh hưởng ngắn hạn của canxi hydroxit và sodium hypochlorite lên độ vi cứng của ngà chân răng vĩnh viễn ở người với các mục tiêu cụ thể sau: 1. Đánh giá ảnh hưởng của canxi hydroxit lên độ vi cứng của ngà chân răng vĩnh viễn trưởng thành ở người sau thời gian đặt canxi hydroxit 7 ngày. 2. Đánh giá ảnh hưởng của sodium hypochlorite lên độ vi cứng của ngà chân răng vĩnh viễn trưởng thành ở người khi bơm rửa trong ống tủy và kết hợp đặt canxi hydroxit 7 ngày. ĐỐI TƯỢNG – PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Đối tượng nghiên cứu 30 răng cối nhỏ vĩnh viễn một chân, nhổ vì lý do chỉnh hình, có chân răng nguyên vẹn, không có các vết nứt, sâu răng, không quá cong, không bị nội tiêu hay ngoại tiêu, được rửa sạch và bảo quản trong nước muối sinh lý sau khi nhổ cho đến khi tiến hành nghiên cứu. Chuẩn bị mẫu Các răng được cạo vôi làm sạch; cắt bỏ thân răng ở tiếp nối men - xê măng bằng đĩa cắt kim cương và tay khoan tốc độ chậm dưới vòi nước. Các mẫu chân răng được chia ngẫu nhiên thành ba nhóm, mỗi nhóm gồm 10 mẫu. Sửa soạn ống tủy theo phương pháp bước lùi tới trâm dũa số 80, ở nhóm 1 và 2 bơm rửa sau mỗi lần thay trâm Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 2 * 2014 Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Răng Hàm Mặt 237 bằng nước cất, ở nhóm 3 bơm rửa bằng NaOCl 2,5%. Bít kín lỗ chóp bằng composite. Mẫu chân răng được vùi trong nhựa tự cứng với mặt cắt quay lên trên. Bề mặt ngà chân răng trong mỗi khối nhựa được làm nhẵn bằng giấy nhám với độ mịn tăng dần. Các chân răng ở nhóm 2 và 3 được đặt canxi hydroxit trong ống tủy. Trộn canxi hydroxit với nước cất thành dạng bột nhão và đưa vào ống tủy bằng lentulo, sau đó làm sạch bề mặt chân răng và bịt kín lỗ vào ống tủy bằng composite (Minu Koshi và cs, 2011). Sau đó tất cả các mẫu chân răng được bảo quản trong tủ giữ ấm (nhiệt độ 37°C) trong 7 ngày. Hình 1: Chân răng được bịt kín lỗ chóp bằng composite Hình 2: Mẫu các chân răng vùi trong nhựa tự cứng Đo độ vi cứng – phân tích số liệu Sau 7 ngày cả ba nhóm nghiên cứu được đo độ vi cứng của ngà chân răng được đo tại trung tâm Kĩ Thuật Tiêu Chuẩn Đo Lường Chất Lượng 3 (QUATEST3) tại 3 điểm tách biệt nhau song song với gờ của ống tủy chân, cách 100µm từ tiếp nối ngà tủy, sử dụng tải lực 100g trong 10 giây (Hình 3). Độ vi cứng Vickers (VHN) ghi nhận là giá trị trung bình của 3 giá trị đo được. Hình 3. Hình minh họa 3 điểm đo độ cứng trong thử nghiệm (đầu đo đặt trong khoảng giữa 2 điểm trắng và đen - cách nhau 50 µm)(6) Sử dụng phép kiểm Anova để đánh giá sự khác biệt giữa các nhóm nghiên cứu (phần mềm SPSS 16.0) KẾT QUẢ Bảng 1: Độ vi cứng ngà chân răng ba nhóm thử nghiệm Độ vi cứng TB ± ĐLC (VHN) MIN (VHN) MAX (VHN) Nhóm 1 34,95 ± 3,52 31,03 42,53 Nhóm 2 29,93 ± 2,11 27,2 33,4 Nhóm 3 30,74 ± 1,74 31,03 34,25 Sau thử nghiệm, độ vi cứng của đa số các mẫu chân răng trong nhóm 2 và 3 đều thấp hơn ở nhóm 1, sử dụng phép kiểm ANOVA so sánh trung bình từng cặp nhóm với nhau, ta có: - Độ vi cứng nhóm 2 so với nhóm 1 là thấp hơn có ý nghĩa thống kê (p < 0,05) - Độ vi cứng nhóm 3 so với nhóm 1 là là thấp hơn có ý nghĩa thống kê (p < 0,05) - Độ vi cứng nhóm 2 so với nhóm 3 không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê (p> 0,05) BÀN LUẬN Độ cứng ngà răng trên cùng một răng có khác biệt đáng kể ở các vị trí khác nhau, do đó trong nghiên cứu này vị trí đo độ cứng trên mỗi mẫu chân răng được xác định cách đều 100µm Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 2 * 2014 Chuyên Đề Răng Hàm Mặt 238 100 µm từ gờ ống tủy và lấy số đo trung bình của ba vị trí trên mỗi mẫu. Khoảng cách này gấp ba lần đường kính đầu đo để làm giảm thấp nhất ảnh hưởng của sự thay đổi độ cứng trên cùng một răng ở các vị trí khác nhau lên kết quả đo độ cứng. Trong nghiên cứu của chúng tôi, kết quả đánh giá tác động của canxi hydroxit cho thấy sau 7 ngày đặt trong ống tủy, độ vi cứng của ngà chân răng trong nhóm sửa soạn với nước cất và với NaOCl đều giảm có ý nghĩa thống kê so với nhóm chứng. Kết quả này phù hợp với nghiên cứu của một số tác giả như Yoldas, Hasheminia MS, Trần Nguyễn Anh Đào, Lê Thị Hương (2004, 2009, 2013) (1,3,6). Nhiều tranh cãi vẫn còn tồn tại liên quan đến việc canxi hydroxit có làm giảm độ bền cơ học của ngà chân răng dẫn tới nguy cơ răng nứt gãy hay không, hay là ngà chân răng có thể tiếp xúc với canxi hydroxit trong thời gian bao lâu để không làm thay đổi các đặc tính cơ học của ngà răng. Chưa có nghiên cứu in vitro nào đưa ra cơ chế chính xác để canxi hydroxit làm thay đổi tính chất cơ học của ngà chân răng. Tuy nhiên, Andreasen và cs (2002), White(7) và cs (2002) đưa ra giả thuyết ảnh hưởng của canxi hydroxit trên ngà răng có thể do độ pH kiềm của canxi hydroxit. Độ bền của ngà răng được xác định bởi liên kết giữa tinh thể hydroxyapatite và collagen dạng sợi, liên kết này có thể bị phá hủy do độ kiềm mạnh của canxi hydroxit, điều này gây ra sự biến tính nhóm carboxylate và nhóm phosphate dẫn tới phá hủy cấu trúc ngà răng. Sự biến đổi cấu trúc ngà răng có thể do sự trung hòa, sự tan rã hay biến tính của phân tử protein có tính axit và phân tử proteoglycans, hai phân tử đóng vai trò tác nhân kết nối giữa mạng lưới sợi collagen và tinh thể hydroxyapatite trong ngà răng (5). Kawamoto và cs (2008) đưa ra giả thuyết rằng tính kiềm của canxi hydroxit có thể gây ra sự phá hủy các cấu trúc vô cơ của ngà chân răng hoặc làm biến tính các sợi collagen của ngà răng, làm cho ngà răng dễ bị nứt gãy hơn. Sợi collagen chiếm gần 90% thành phần khung hữu cơ của ngà răng, chiếm 30% thể tích ngà răng. Những sợi collagen này được bao quanh bởi các tinh thể hydroxyapatite vô cơ. Do đó, một khoảng thời gian là cần thiết để canxi hydroxit có thể đi xuyên qua các tinh thể này đến tiếp xúc trực tiếp và gây ra sự biến tính các sợi collagen, hậu quả là ngà răng giòn và dễ nứt gãy hơn(4,9). Sự giải thích này có thể được củng cố qua một số nghiên cứu in vitro cho thấy cần một khoảng thời gian tiếp xúc tương đối dài trước khi canxi hydroxit có thể gây ra sự giảm đáng kể các tính chất cơ học của ngà răng(6). Vì vậy, việc giảm tối đa thời gian tiếp xúc của canxi hydroxit trong ống tủy là điều cần quan tâm lưu ý của các nhà lâm sàng hiện nay khi điều trị nội nha. Các quan điểm nội nha mới khuyến khích lựa chọn nội nha trong một lần hẹn ở những trường hợp không đòi hỏi băng thuốc trong ống tủy. Bên cạnh đó, việc sử dụng các vật liệu thay thế có tác dụng tương tự canxi hydroxit trong điều trị nội nha cần được nghiên cứu và phát triển. Kết quả đánh giá tác động của sodium hypochlorite cũng tương đồng với nghiên cứu của Lê Thị Hương (2013)(3) cho thấy đặt NaOCl 3% trong ống tủy 1 giờ làm giảm độ vi cứng của ngà chân răng, và tương tự nghiên cứu của Saleh và Ettman (1999), Oliveira (2007), Al-Weshah (2010, 2012). Ảnh hưởng của sodium hypochlorite ở những nồng độ và thời gian tác dụng khác nhau lên độ vi cứng của ngà răng được tìm thấy ở nhiều nghiên cứu khác trên thế giới. Tuy nhiên, nghiên cứu này chúng tôi dùng NaOCl nồng độ thấp (2,5%), và chỉ bơm rửa trong thời gian ngắn (tối đa chỉ khoảng 15-20 phút/chân răng-tương tự thời gian thực hiện trên thực tế lâm sàng), ngắn hơn thời gian tiếp xúc NaOCl của các nghiên cứu khác nên ảnh hưởng của NaOCl có thể không đáng kể, có lẽ vì vậy mà sự khác biệt độ cứng của nhóm này với nhóm bơm rửa nước cất là không có ý nghĩa thống kê. Tuy vậy, cần lưu ý rằng mặc dù tác dụng làm Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 2 * 2014 Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Răng Hàm Mặt 239 mềm tương đối của tác nhân bơm rửa lên thành ngà của ống tủy có thể có lợi ích lâm sàng bởi vì cho phép việc sửa soạn ống tủy nhanh chóng hơn, nhưng những thay đổi này ảnh hưởng đến độ vi cứng của ngà chân răng. Qua đó, các nhà lâm sàng cần lưu ý thời gian tiếp xúc tối thiểu và giảm nồng độ sodium hypochlorite để hạn chế những tác dụng không mong muốn. KẾT LUẬN Việc đặt canxi hydroxit trong ống tủy đều làm giảm độ vi cứng ngà chân răng ở cả hai nhóm sửa soạn ống tủy bơm rửa nước cất và nhóm bơm rửa sodium hypochlorite 2,5%. Sửa soạn ống tủy bơm rửa với sodium hypochlorite 2,5% không gây ảnh hưởng đáng kể trên độ cứng ngà răng. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Hasheminia MS, Norozynasab S, Feizianfard M (2009), “The effect of three different Calcium Hydroxide Combinations on root Dentin Microhardness”, Res. J. Biol. Sci, 4 (1), 121-125. 2. Koshy M, Prabu M, Prabhakar V (2011), “Long Term Effect Of Calcium Hydroxide On The Microhardness Of Human Radicular Dentin – A Pilot Study”, The Internet Journal of Dental Science, 9(2), DOI: 10.5580/1b82. 3. Lê Thị Hương, Phạm Văn Khoa, Huỳnh Thị Thùy Trang (2013), “Đánh giá ảnh hưởng của dung dịch bơm rửa sodium hypochlorite 3% lên độ vi cứng của ngà chân răng”, luận văn tốt nghiệp BS. Răng Hàm Mặt 2013. 4. Shin EJ, Park YJ, Lee BN (2011), “The effects of short-term application of calcium hydroxide on dentin fracture strength”, J Kor Acad Dent, 36(5), 435-430. 5. Slutzky-Goldberg I, Maree M, Liberman R, Heling I, (2004) "Effect of sodium hypochlorite on dentin microhardness." J Endod 30: 880 - 882. 6. Trần Nguyễn Anh Đào, Đinh Thị Khánh Vân, Bùi Huỳnh Anh (2013), “Đánh giá ảnh hưởng ngắn hạn của canxi hydroxit lên độ vi cứng của ngà chân răng”, luận văn tốt nghiệp BS. Răng Hàm Mặt 2013. 7. White JD, Lacefield WR, Chavers LS, Eleazer PD (2002), “The effect of three commonly used endodontic materials on the strength and hardness of root dentin”, J Endod, (28), 828–830. 8. Yassen GH, Platt JA(2013), “The effect of nonsetting calcium hydroxide on root fracture and mechanical properties of radicular dentine: a systematic review”, International Endodontic Journal , (46), 112–118. 9. Yoldas O, Dogan C, Seydaoglu G (2004), “The effect of two different calcium hydroxide combinations on root den-tine microhardness”. International Endodontic Journal, (37), 828 – 831. Ngày nhận bài báo: 10/01/2014 Ngày phản biện nhận xét bài báo: 15/01/2014 Ngày bài báo được đăng: 20/03/2014

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfdanh_gia_anh_huong_cua_canxi_hydroxit_va_sodium_hypochlorite.pdf
Tài liệu liên quan