Đánh giá ảnh hưởng của độ thiếu hụt nước trong giai đoạn đầu đến sự sinh trưởng và cấu thành năng suất của cây ngô
Ảnh hưởng của mức độ thiếu hụt đến
năng suất.
Turner (1990) cho rằng việc ức chế lượng nước
cho cây trồng ở giai đoạn đầu là thích hợp và có
lợi cho năng suất cuối cùng của cây trồng. Kết quả
của thí nghiệm thể hiện trong bảng 3.2 cũng tương
đồng với quan điểm nêu trên.
Năng suất cây trồng có liên quan đến các yếu
tố cấu thành năng suất như khối lượng bắp tươi,
đường kính bắp, số hàng và số hạt mỗi hàng. So
với đối chứng, các công thức thí nghiệm có khối
lượng bắp tươi cao hơn lần lượt là 2.09% (LD),
3.86% (MD) và 2.76% (SD). Kết quả thí nghiệm
cho thấy các chỉ tiêu cấu thành năng suất này của
các công thức thí nghiệm hầu như đều cao hơn đối
chứng, trong đó công thức MD mang lại hiệu quả
tăng trưởng tốt hơn 2 công thức thí nghiệm còn lại
ở hầu hết các chỉ tiêu.
Theo bảng 3.3, so với công thức đối chứng,
lượng nước tưới trong các CTTN giảm từ 2.62%-
7.64%, hiệu quả sử dụng nước tưới cao hơn
2.35%-3.17%. Vì giai đoạn đầu chỉ kéo dài 2
tuần nên việc chủ động cắt giảm lượng nước tưới
trong giai đoạn này mang lại hiệu quả tiết kiệm
nước tương đối ít so với toàn bộ thời gian sinh
trưởng của cây ngô. Tuy vậy, so với hiệu quả
tăng sản lượng cây trồng đã phân tích ở trên thì
hiệu quả tiết kiệm nước vẫn được đánh giá là có
ý nghĩa.
4. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
Chế độ tưới thâm hụt nước lợi dụng đặc điểm
thích nghi của cây trồng trong điều kiện bị hạn để
chủ động cắt giảm lượng nước tưới, qua đó kích
hoạt chế độ điều tiết, phân phối lại nguồn nước
trong các hoạt động sinh lý của cây trồng. Kết
quả của thí nghiệm này cho thấy ảnh hưởng của
sự thiếu hụt nước tưới đến các chỉ tiêu về hình
thái, diễn biến phát triển và năng suất cuối cùng
của cây ngô trong giai đoạn đầu đều cao hơn so
với chế độ tưới truyền thống, trong đó mức độ
thiếu hụt trung bình đem lại hiệu quả tốt nhất về
đặc điểm hình thái và mức độ thiếu hụt nhẹ đem
lại hiệu quả tốt nhất về năng suất và mức độ thiếu
hụt nặng đem lại hiệu quả tốt về sử dụng nước.
Qua kết quả thí nghiệm nhận thấy thời gian thích
hợp chịu thiếu hụt nước là đến ngày thứ 30 sau
khi gieo. Tuy nhiên để có những đánh giá chính
xác hơn thì cần tiến hành thí nghiệm thêm trong
thời gian sau nữa.
5 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Lượt xem: 4 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đánh giá ảnh hưởng của độ thiếu hụt nước trong giai đoạn đầu đến sự sinh trưởng và cấu thành năng suất của cây ngô, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
KHOA HỌC KỸ THUẬT THỦY LỢI VÀ MÔI TRƯỜNG - SỐ 67 (12/2019) 11
BÀI BÁO KHOA HỌC
ĐÁNH GIÁ ẢNH HƯỞNG CỦA ĐỘ THIẾU HỤT NƯỚC TRONG
GIAI ĐOẠN ĐẦU ĐẾN SỰ SINH TRƯỞNG VÀ CẤU THÀNH
NĂNG SUẤT CỦA CÂY NGÔ
Hoàng Cẩm Châu1, Trần Viết Ổn1, Nguyễn Quang Phi1
Tóm tắt: Việc tăng sản lượng lương thực với nguồn nước sẵn có hạn chế là rất quan trọng trong hoạt
động canh tác nông nghiệp. Tuy nhiên, hoạt động sinh lý của cây trồng chịu ảnh hưởng từ chế độ quản
lý nước trên ruộng, qua đó trực tiếp ảnh hưởng đến năng suất của cây trồng, cũng là yếu tố hạn chế lớn
nhất đối với mục tiêu tăng sản lượng trên toàn thế giới. Vì vậy, nghiên cứu chế độ tưới phù hợp nhằm
giúp cây trồng sử dụng nước hiệu quả hơn mà không hạn chế sự phát triển của cây mang lại hiệu quả
tiết kiệm nước và tăng sản nhằm hướng tới mục tiêu xây dựng nền nông nghiệp bền vững.
Từ khoá: cây ngô, chế độ tưới, thiếu hụt nước, thích nghi hạn hán.
1. ĐẶT VẤN ĐỀ*
Quan điểm tưới truyền thống trước đây được
xây dựng dựa trên nhu cầu nước của cây trồng và
chỉ ra rằng năng suất của cây trồng có quan hệ
chặt chẽ với việc thoả mãn nhu cầu nước này. Tuy
nhiên, các nghiên cứu khác cũng chứng minh rằng
cây trồng nếu trong điều kiện chịu hạn ở thời gian
và mức độ thích hợp cũng có những phản ứng tích
cực đến sự tăng trưởng, phát triển và năng suất
cuối cùng.
Tưới thâm hụt nước (Deficit Irrigation hoặc
Regulated deficit irrigation) là phương pháp tưới
tiết kiệm nước được đề xuất dựa trên sự kết hợp
của nguyên lý tính toán chế độ tưới và phản ứng
của cây trồng với điều kiện bị hạn. Chế độ tưới
thâm hụt nước đã được nghiên cứu ở nhiều nước
trên thế giới và đạt được những kết quả nhất
định. Cơ sở lý luận của tưới thâm hụt nước cho
cây trồng là dựa vào khả năng cấp của nguồn
nước, dựa vào quy luật nhu cầu nước của cây
trồng trong các giai đoạn sinh trưởng khác nhau
và mức độ thích ứng với điều kiện bị hạn mà chủ
động ức chế cấp nước để điều tiết động thái sinh
trưởng ở phần thân trên và phần rễ cây, khống
chế sinh trưởng dinh dưỡng, điều tiết sự phân
phối sản phẩm của quá trình quang hợp đến các
cơ quan, từ đó cải thiện sự sinh trưởng của cây
1 Khoa Kỹ thuật tài nguyên nước, Trường Đại học Thuỷ lợi
trồng với yêu cầu nước trong đất để đạt được
mục tiêu tiết kiệm nước, sản lượng cao, tối ưu và
hiệu quả (FAO 1992, C.Kinda 2002, Gernot
Bodner). Vì vậy việc xây dựng chế độ tưới phù
hợp không chỉ tiết kiệm nước mà còn mang lại
hiệu quả tăng sản là mục tiêu hướng tới của khoa
học tưới hiện đại.
Các nghiên cứu trước đây đã chỉ ra nếu cây
trồng bị hạn trong giai đoạn đầu không những
không ảnh hưởng đến sinh trưởng mà còn tạo ra
những kích thích có lợi cho sự phát triển của
cây trồng ở giai đoạn sau này (FAO 1992,
Gernot Bodner và cộng sự 2015). Dựa trên tiền
đề đảm bảo năng suất của cây trồng trong điều
kiện bị hạn nên bài báo này nghiên cứu ảnh
hưởng của các mức độ thiếu hụt nước trong giai
đoạn đầu đến sự sinh trưởng và phát triển cũng
như năng suất cuối cùng của cây ngô, qua đó
phân tích khả năng phân phối nguồn nước tưới
trong các giai đoạn sinh trưởng của cây ngô
trong điều kiện hạn chếnguồn cấp để đạt được
năng suất tối ưu.
2. TỔNG QUAN THÍ NGHIỆM VÀ
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Địa điểm và thời gian thí nghiệm
Khu vực thí nghiệm thuộc huyện Văn Giang,
tỉnh Hưng Yên nằm trong vùng đồng bằng sông
Hồng nên có các đặc điểm tương đồng với vùng
khí hậu của đồng bằng sông Hồng: số giờ nắng
KHOA HỌC KỸ THUẬT THỦY LỢI VÀ MÔI TRƯỜNG - SỐ 67 (12/2019) 12
trung bình 1650 giờ/năm, nhiệt độ trung bình
23.2oC, nhiệt độ trung bình tháng thấp nhất là
16oC, tổng nhiệt độ trung bình năm 8500 -
8600oC, lượng mưa trung bình 1450 - 1650mm
nhưng phân bố không đều trong năm và điều kiện
thổ nhưỡng là đất phù sa sông Hồng. Như vậy
điều kiện tự nhiên của vùng nghiên cứu rất phù
hợp cho phát triển canh tác nông nghiệp.
2.2. Thiết kế công thức thí nghiệm
Thí nghiệm bố trí 3 công thức thí nghiệm
(CTTN) là thiếu hụt nhẹ (LD), thiếu hụt vừa
(MD) và thiếu hụt nặng (SD) và 1 công thức đối
chứng (FI) với số lần lặp lại của mỗi CTTN là
12lần, mỗi ô thí nghiệm là một lần lặp lại. Tổng
số ô thí nghiệm là 48 ô. Mỗi ô thí nghiệm có
kích thước là 0.7m*0.9m được bao bờ xung
quanh nhằm tránh tràn nước khi tưới. Mức tưới
mỗi lần của công thức đối chứng được tính toán
dựa vào công thức tưới tăng sản cho cây ngô với
từng giai đoạn sinh trưởng theo TCVN 8641-
2011. Mức tưới trong thời gian thí nghiệm cho
công thức thiếu hụt nhẹ (LD) là giảm 20% so
với đối chứng, thiếu hụt vừa(MD) là giảm 40%
so với đối chứng, thiếu hụt nặng (SD) là giảm
50% so với đối chứng.
Thời gian bắt đầu thí nghiệm được tính từ khi
70% số cây ngô có trên 3 lá thật (khoảng ngày thứ
14 sau khi gieo). Thời gian thí nghiệm tưới thâm
hụt kéo dài 15 ngày. Khi kết thúc thời gian thí
nghiệm thì các CTTN được tưới như đối chứng
đến khi thu hoạch.
2.3. Các chỉ tiêu quan trắc
Thí nghiệm quan trắc các chỉ tiêu về sinh
trưởng và năng suất của cây trồng như sau:
- Chiều cao cây: đo trực tiếp từ gốc đến vút
ngọn cây, đo trong suốt thời gian thí nghiệm và
cách 3 ngày đo một lần.
- Đường kính gốc, khối lượng bắp, đường kính
bắp, khối lượng thân trên của cây, số hàng mỗi
bắp, số hạt mỗi hàng là các chỉ tiêu quan trắc của
cây và bắp chính tại thời điểm thu hoạch.
- Tỷ lệ chiều dài bắp có hạt là tỷ lệ giữa
chiều dài của số hạt trong 1 hàng so với chiều
dài của bắp.
3. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN
3.1. Ảnh hưởng của các mức độ thiếu hụt
nước đến sự sinh trưởng và phát triển của cây
ngô trong giai đoạn khống chế tưới.
Cây trồng khi bị hạn ở mỗi thời đoạn sinh
trưởng đều có những phản ứng sinh lý nhất định
để thích nghi với điều kiện bất lợi này. Các hoạt
động bên trong của cây trồng được điều tiết lại,
như đóng bớt khí khổng nhằm giảm bốc thoát hơi
nước nên giảm quang hợp, ... Vì vậy làm cho yếu
tố hình thái bên ngoài như chiều cao cây, bề rộng
lá, chiều dày lá... có những sai khác so với cây
trồng được tưới đủ. Tuy nhiên, mỗi giai đoạn sinh
trưởng khác nhau thì phản ứng của cây trồng khi
bị hạn cũng khác nhau nên sự sai khác này cũng
khác nhau.
Ảnh hưởng của sự thiếu hụt nước ở giai đoạn
đầu đến sinh trưởng và phát triển của cây ngô
được thể hiện qua diễn biến tốc độ tăng chiều cao
cây như trong hình 3.1.
Hình 3.1. Diễn biến tốc độ tăng chiều cao cây
của các CTTN trong thời gian thí nghiệm
Hình 3.2. Diễn biến tốc độ tăng chiều cao cây
của các CTTN sau thời gian thí nghiệm
KHOA HỌC KỸ THUẬT THỦY LỢI VÀ MÔI TRƯỜNG - SỐ 67 (12/2019) 13
Với tốc độ tăng chiều cao cây (%)= ,
trong đó: H0, Hi (cm) lần lượt là chiều cao cây tại thời
điểm bắt đầu thí nghiệm và ở ngày thứ i sau gieo
Theo hình 3.1 thì tốc độ tăng chiều cao cây của
các công thức có xu thế tăng giống nhau và 3
CTTN có tốc độ tăng cao hơn so với công thức
đối chứng. Kết thúc giai đoạn thí nghiệm, công
thức đối chứng tăng chiều cao là 133.64% so với
lúc bắt đầu thí nghiệm, và thấp hơn công thức LD
là 3.81%, thấp hơn công thức MD là 4.25% và
công thức SD là 4.65%. Điều này đã được Barbara
Steuer và cộng sự (1988) giải thích rằng trong
điều kiện bị hạn, cây trồng kích hoạt chế độ tự bảo
tồn nước cho phép thực vật hấp thụ khí cacbonic
trong khi giảm thiểu sự mất nước nên vẫn duy trì
được sự sinh trưởng bình thường. Như vậy, trong
giai đoạn đầu nếu chịu thiếu hụt nước thì sự sinh
trưởng và phát triển của cây ngô không có khác
biệt nhiều so với tưới đầy đủ (Kerbiriou và cộng
sự, 2013; Kariuki và cộng sự, 2016).
3.2. Ảnh hưởng của các mức độ thiếu hụt
nước đến sự phát triển và hình thái của cây ngô
giai đoạn sau tưới thâm hụt nước
Theo hình 3.2 cho thấy tốc độ tăng chiều cao
của cây ngô sau khi chịu thiếu hụt nước tưới
trong giai đoạn đầu ở trong giai đoạn sau giữa
các CTTN có sự khác biệt không rõ ràng so với
đối chứng(-1.30%- 2.73%). Ngoài ra, ảnh hưởng
của các mức độ thiếu hụt nước ở giai đoạn đầu
trong các CTTN đến các đặc điểm hình thái của
cây ngô đến khi thu hoạch được thống kê trong
bảng sau.
Bảng 3.1. Thống kê các yếu tố hình thái cây ngô của các CTTN
Đường kính gốc
(ĐK)
Chiều cao cây
(H)
Bề rộng lá lớn nhất
(B)
Khối lượng thân trên
tươi (Wshoot)
CTTN
ĐK
(cm)
+/- so với
FI (%)
H
(cm)
+/- so với
FI (%)
B
(cm)
+/- so với
FI (%)
Wshoot(
g)
+/- so với
FI (%)
FI 2.24 0.00 206.3 0.00 10.30 0.00 604.3 0.00
LD 2.22 -0.89 207.6 +0.63 10.80 +4.85 620.2 +2.63
MD 2.26 +0.89 210.0 +1.79 10.00 -2.91 628.7 +4.04
SD 2.30 +2.68 205.3 -0.47 10.30 0.00 627.4 +3.82
Dựa vào kết quả của bảng 3.1 cho thấy, các
chỉ tiêu về hình thái của cây ngô đến khi thu
hoạch của các CTTN đều có chênh lệch không
đáng kể so với công thức đối chứng, trong đó
thậm chí có những chỉ tiêu cao hơn so với đối
chứng. So với đối chứng, công thức SD có đường
kính gốc cao hơn 2.68%, công thức MD có chiều
cao cây cao hơn 1.79%, công thức MD có khối
lượng thân trên cao hơn 4.04% và công thức LD
có bề rộng lá lớn nhất cao hơn 4.85%. Như vậy,
kết quả này cũng tương đồng với các nghiên cứu
trước đây khi thấy rằng trong giai đoạn đầu khi
cây ngô chịu thiếu hụt nước tưới thì không những
không ảnh hưởng đến giai đoạn khống chế trước
đó mà còn kích thích tốc độ tăng trưởng của cây
cao hơn so với được tưới đầy đủ ở cả giai đoạn đó
và không ảnh hưởng đến ở giai đoạn sau tưới thâm
hụt (Chu Anh Tiệp và Li Fu Sheng 2012, 蔡 焕
杰và cộng sự 2015).
3.3. Ảnh hưởng của mức độ thiếu hụt đến
năng suất.
Turner (1990) cho rằng việc ức chế lượng nước
cho cây trồng ở giai đoạn đầu là thích hợp và có
lợi cho năng suất cuối cùng của cây trồng. Kết quả
của thí nghiệm thể hiện trong bảng 3.2 cũng tương
đồng với quan điểm nêu trên.
Năng suất cây trồng có liên quan đến các yếu
tố cấu thành năng suất như khối lượng bắp tươi,
đường kính bắp, số hàng và số hạt mỗi hàng. So
với đối chứng, các công thức thí nghiệm có khối
lượng bắp tươi cao hơn lần lượt là 2.09% (LD),
3.86% (MD) và 2.76% (SD). Kết quả thí nghiệm
cho thấy các chỉ tiêu cấu thành năng suất này của
KHOA HỌC KỸ THUẬT THỦY LỢI VÀ MÔI TRƯỜNG - SỐ 67 (12/2019) 14
các công thức thí nghiệm hầu như đều cao hơn đối
chứng, trong đó công thức MD mang lại hiệu quả
tăng trưởng tốt hơn 2 công thức thí nghiệm còn lại
ở hầu hết các chỉ tiêu.
Bảng 3.2. Bảng thống kê yếu tố cấu thành năng suất ở các CTTN
Khối lượng bắp Đường kính bắp CTTN
KL (g)
+/- So với
ĐC (%)
D
(cm)
+/- So với
ĐC (%)
Số hàng/
bắp
Số hạt/
hàng
Tỷ lệ chiều
dài bắp có
hạt
FI 282.2 0.00 5.76 0.00 13.5 36.80 0.913
LD 288.1 +2.09 5.96 +3.47 13.5 37.00 0.931
MD 293.1 +3.86 5.91 +2.60 13.0 37.25 0.926
SD 290.0 +2.76 5.68 -1.39 13.0 37.20 0.918
3.4. Hiệu quả sử dụng nước
Bảng 3.3. Bảng thống kê hiệu quả sử dụng nước trong các CTTN
Năng suất thực thu Tổng mức tưới Hiệu suất sử dụng nước
CTTN
P(kg/ha)
+/- so với ĐC
(%)
M(mm)
+/- so với ĐC
(%)
WUE
(kg/m3)
+/- so với ĐC
(%)
FI 11333.33 0.00 191.2 0.00 4.95 0.00
LD 11506.67 +1.53 186.2 -2.62 5.07 +2.35
MD 11465.40 +1.17 181.5 -5.07 5.11 +3.17
SD 11419.68 +0.76 176.6 -7.64 5.09 +2.77
Theo bảng 3.3, so với công thức đối chứng,
lượng nước tưới trong các CTTN giảm từ 2.62%-
7.64%, hiệu quả sử dụng nước tưới cao hơn
2.35%-3.17%. Vì giai đoạn đầu chỉ kéo dài 2
tuần nên việc chủ động cắt giảm lượng nước tưới
trong giai đoạn này mang lại hiệu quả tiết kiệm
nước tương đối ít so với toàn bộ thời gian sinh
trưởng của cây ngô. Tuy vậy, so với hiệu quả
tăng sản lượng cây trồng đã phân tích ở trên thì
hiệu quả tiết kiệm nước vẫn được đánh giá là có
ý nghĩa.
4. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
Chế độ tưới thâm hụt nước lợi dụng đặc điểm
thích nghi của cây trồng trong điều kiện bị hạn để
chủ động cắt giảm lượng nước tưới, qua đó kích
hoạt chế độ điều tiết, phân phối lại nguồn nước
trong các hoạt động sinh lý của cây trồng. Kết
quả của thí nghiệm này cho thấy ảnh hưởng của
sự thiếu hụt nước tưới đến các chỉ tiêu về hình
thái, diễn biến phát triển và năng suất cuối cùng
của cây ngô trong giai đoạn đầu đều cao hơn so
với chế độ tưới truyền thống, trong đó mức độ
thiếu hụt trung bình đem lại hiệu quả tốt nhất về
đặc điểm hình thái và mức độ thiếu hụt nhẹ đem
lại hiệu quả tốt nhất về năng suất và mức độ thiếu
hụt nặng đem lại hiệu quả tốt về sử dụng nước.
Qua kết quả thí nghiệm nhận thấy thời gian thích
hợp chịu thiếu hụt nước là đến ngày thứ 30 sau
khi gieo. Tuy nhiên để có những đánh giá chính
xác hơn thì cần tiến hành thí nghiệm thêm trong
thời gian sau nữa.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Chu Anh Tiệp, Li Fu Sheng (2012). Ảnh hưởng của độ thiếu hụt nước ở các giai đoạn sinh trưởng đến
quang hợp, năng suất và hiệu suất sử dụng nước của ngô nếp, Tạp chí Khoa học và phát triển,
trường Đại học Nông nghiệp Hà Nội.
KHOA HỌC KỸ THUẬT THỦY LỢI VÀ MÔI TRƯỜNG - SỐ 67 (12/2019) 15
QCVN 01-56-2011/BNNPTNT: Về khảo nghiệm giá trị canh tác và sử dụng của giống ngô
TCVN 8641- 2011: Công trình thuỷ lợi Kỹ thuật tưới tiêu nước cho cây lương thực và cây thực phẩm
Barbara Steuer, Thomas Stuhlfauth, Heinrich P. Fock (1988). The efficiency of water use in water
stressed plants is increased due to ABA induced stomatal closure. Photosynthesis rearch.
C.Kinda (2002). Deficit irrigation scheduling based on plant growth stages showing water stress
tolerance. Deficit irrigation practices.
FAO (1992). Crop water requirement . FAO irrigation and drainage paper 24.
Gernot Bodner, Alireza Nakhforoosh, Hans- Peter Kaul (2015). Management of crop water under
drought: a review. Springer
Lilian Wambui Kariuki, Peter Masinde, Stephen Githiriand Arnold N. Onyango (2016). Effect of water
stress on growth of three linseed (Linum usitatissimum L.) varieties. SpringerPlus.
P. J. Kerbiriou & T. J. Stomph & P. E. L. Van Der Putten & E. T. Lammerts Van Bueren & P. C. Struik
(2013).Shoot growth, root growth and resource capture under limiting water and N supply for two
cultivars of lettuce (Lactuca sativa L.). Plant Soil.
Turner N.C (1990). Plant water relations and irrigation management, Agircultural Water Management
蔡焕杰,康绍忠,张振华 (2015).作物调亏灌溉的适宜时间与调亏程度的研究,农业工程学报.
Abtract:
EVALUTING MAIZEGROWTH AND COMPONENTS OF
PRODUCTIONUNDER WATER DEFICIT IN THE EARLY PERIOD
Increasing crops production in agiculture is more difficult when the water resource is becoming
limited.However, the crop physiological is influenced by the water management regime, thereby
affecting the productivity of the crop directly.Therefore, studying about irrigation regime under climate
change’s conditions will help plants to use water more efficiently and will not affectto plants growth at
the same time. That provides water saving and increasing plant production to approach to sustainable
agriculture.
Keywords: maize, irrigation regime, deficit irrigation, plant drought response.
Ngày nhận bài: 03/8/2019
Ngày chấp nhận đăng: 20/10/2019
Các file đính kèm theo tài liệu này:
danh_gia_anh_huong_cua_do_thieu_hut_nuoc_trong_giai_doan_dau.pdf