Đánh giá biên độ vận động hàm dưới sau phẫu thuật điều trị gãy cổ lồi cầu xương hàm dưới bằng kết hợp xương qua đường miệng với nội soi hướng dẫn

Từ kết quả tỷ lệ mắc bệnh viêm nha chu và mức độ trầm trọng bệnh nha chu tăng có ý nghĩa thống kê theo mức độ trầm trọng của béo phì, nghiên cứu của chúng tôi gợi ý béo phì có liên quan đến tình trạng viêm và phá hủy của mô nha chu. Viêm nha chu là một bệnh nhiễm trùng mãn tính. Một số cá nhân có thể nhạy cảm hơn, bị viêm và nhiễm trùng nha chu với mức độ nặng hơn(4). Béo phì từng được cho là yếu tố nguy cơ cao nhất của nhiễm trùng nha chu chỉ đứng sau hút thuốc lá(13). Cho đến hiện tại, mặc dù bản chất sinh học trong mối liên quan giữa béo phì và viêm nha chu chưa được làm sáng tỏ nhưng có thể nó liên quan đến khả năng miễn dịch và các phản ứng viêm ở người béo phì. Tình trạng béo phì làm thay đổi hệ thống miễn dịch của kí chủ, làm tăng tính nhạy cảm với bệnh và khiến người béo phì dễ có nguy cơ bị viêm nha chu. Các cytokine gây viêm như TNF-α, IL-6 được mô mỡ tiết ra có thể xuất hiện và tăng trong dịch nướu của người bị béo phì, làm tăng các phản ứng viêm phá hủy mô nha chu. Ngoài ra chất ức chế hoạt hóa plasminogen PAI-1, chất được mô mỡ nội tạng chế tiết mạnh, được cho là đóng vai trò quan trọng trong quá trình viêm nướu và làm giảm lượng máu đến mô nha chu của người béo phì. Bên cạnh đó, viêm nha chu cũng có thể gây những ảnh hưởng tiêu cực đến tình trạng sức khỏe toàn thân của người béo phì. Đáp ứng của vật chủ với nhiễm trùng nha chu là có thể gây ra viêm mãn tính cấp thấp và là nguồn tạo ra các cytokine tiền viêm(18). Nghiên cứu này cho thấy có mối liên quan có ý nghĩa giữa tình trạng sâu răng, tỷ lệ và mức độ trầm trọng của viêm nha chu với mức độ trầm trọng của béo phì. Hạn chế của nghiên cứu này là chúng tôi chưa khảo sát các yếu tố về chế độ ăn, yếu tố được cho là có liên quan đến cả bệnh sâu răng và béo phì; cũng như chưa khảo sát các bệnh lý toàn thân khác như đái tháo đường tuýp 2, tim mạch, tăng huyết áp, , những bệnh cũng có thể ảnh hưởng đến tình trạng nha chu của đối tượng nghiên cứu. Trong tương lai cần có thêm những nghiên cứu sâu hơn để khảo sát các mối liên quan này.

pdf18 trang | Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 09/02/2022 | Lượt xem: 16 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đánh giá biên độ vận động hàm dưới sau phẫu thuật điều trị gãy cổ lồi cầu xương hàm dưới bằng kết hợp xương qua đường miệng với nội soi hướng dẫn, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ật, số lượng bệnh nhân có biên độ há hạn chế nhiều giảm hẳn và thay vào đó là số lượng bệnh nhân có biên độ há tối đa bình thường trên 40mm tăng rõ rệt với sự khác biệt giữa các mức độ há trong từng thời điểm đều có ý nghĩa thống kê (p < 0,05). Bên cạnh đó, sự khác biệt của các mức độ há so sánh giữa các thời điểm sau phẫu thuật 1 tháng và 2 tháng, 2 tháng và 3 tháng đều có ý nghĩa thống kê với p = 0,000 < 0,05. Ngoài ra, khi so sánh giữa thời điểm sau phẫu thuật 3 tháng và 6 tháng thì sự khác biệt của các mức độ há ở nhóm A có ý nghĩa thống kê với p= 0,007 < 0,05, trong khi ở nhóm B sự khác biệt không có ý nghĩa thống kê với p = 0,083 > 0,05. Mặt khác, khi so sánh các mức độ há giữa hai nhóm với nhau trong từng thời điểm sau phẫu thuật thì không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê (1 tháng: χ2 = 1,235, p = 0,539 > 0,05; 2 tháng: χ2=2,966, p = 0,227 > 0,05; 3 tháng: χ2 = 3,282, p=0,194 > 0,05; 6 tháng: χ2 = 0,154, p = 0,694>0,05). Bảng 5. Biên độ há tối đa trung bình (mm) ở các thời điểm 1, 2, 3, 6 tháng sau phẫu thuật 1 tháng 2 tháng 3 tháng 6 tháng p* Nhóm A(n=47) 29,9 ± 10,37 40,7 ± 10,3 44,3 ± 8,28 49,4 ± 7,58 0,000 Nhóm B(n=47) 26,6 ± 8,25 38,5 ± 8,36 45,9 ± 6,46 49,4 ± 6,36 0,000 Tổng mẫu(n=94) 28,2 ± 9,46 39,6 ± 9,39 45,1 ± 7,42 49,4 ± 6,96 0,000 p** 0,170 0,270 0,320 0,988 * So sánh khác biệt biên độ há tối đa trung bình với thời điểm trước đó. ** So sánh khác biệt giữa hai nhóm A và B trong cùng thời điểm Bảng 5 cho thấy biên độ há tối đa trung bình của mỗi nhóm đều tăng rõ rệt ở thời điểm sau phẫu thuật 1 tháng, 2 tháng, 3 tháng và 6 tháng (có ý nghĩa thống kê với p<0,05). Bên cạnh đó, ở mỗi thời điểm đánh giá thì biên độ há tối đa trung bình giữa hai nhóm không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê (1 tháng: p = 0,170 > 0,05 (Mann-Whitney U); 2 tháng, 3 tháng, 6 tháng: p > 0,05). Đánh giá biên độ ra trước tối đa Biên độ đưa hàm dưới ra trước tối đa trung bình tính theo milimet của bệnh nhân ở các thời điểm sau phẫu thuật được ghi nhận trong bảng 6. Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Phụ bản của Số 2 * 2015 Chuyên Đề Răng Hàm Mặt 290 Bảng 6. Biên độ ra trước tối đa trung bình (mm) ở các thời điểm 1, 2, 3, 6 tháng sau phẫu thuật 1 tháng 2 tháng 3 tháng 6 tháng p* Nhóm A (n=47) 4,3 ± 2,23 6,3 ± 2,79 7,0 ± 2,50 7,8 ± 2,13 0,000 Nhóm B (n=47) 3,7 ± 1,62 6,0 ± 1,82 7,2 ± 1,84 8,1 ± 1,87 0,000 Tổng mẫu (n=94) 4,0 ± 1,96 6,2 ± 2,34 7,1 ± 2,19 8,0 ± 2,0 0,000 p** 0,227 0,631 0,543 0,356 * So sánh khác biệt biên độ ra trước tối đa trung bình với thời điểm trước đó. ** So sánh khác biệt giữa hai nhóm A và B trong cùng thời điểm. Bảng 6 cho thấy biên độ đưa hàm dưới ra trước tối đa của mỗi nhóm đều tăng ở thời điểm sau phẫu thuật 1 tháng, 2 tháng, 3 tháng và 6 tháng (có ý nghĩa thống kê với p < 0,05). Bên cạnh đó, ở mỗi thời điểm đánh giá thì biên độ ra trước tối đa của giữa hai nhóm không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê (1 tháng: p = 0,227 > 0,05 (Mann-Whitney U); 2 tháng, 3 tháng, 6 tháng: p > 0,05). Đánh giá biên độ sang bên tối đa Biên độ đưa hàm dưới sang bên lành tối đa trung bình tính theo milimet của bệnh nhân ở các thời điểm sau phẫu thuật được ghi nhận trong bảng 7. Bảng 7. Biên độ sang bên lành tối đa trung bình (mm) ở các thời điểm 1, 2, 3, 6 tháng sau phẫu thuật 1 tháng 2 tháng 3 tháng 6 tháng p* Nhóm A(n=47) 5,5 ± 2,45 7,6 ± 2,90 8,5 ± 2,56 9,4 ± 2,26 0,000 Nhóm B(n=47) 5,4 ± 2,91 7,6 ± 2,31 8,7 ± 2,33 9,4 ± 1,99 0,000 Tổng mẫu (n=94) 5,5 ± 2.67 7,6 ± 2,61 8,6 ± 2,44 9,4 ± 2,12 0,000 p** 0,572 0,860 0,873 0,942 * So sánh khác biệt biên độ sang bên lành tối đa trung bình với thời điểm trước đó. ** So sánh khác biệt giữa hai nhóm A và B trong cùng thời điểm. Bảng 7 cho thấy biên độ đưa hàm dưới sang bên lành tối đa của mỗi nhóm đều tăng ở thời điểm sau phẫu thuật 1 tháng, 2 tháng, 3 tháng và 6 tháng (có ý nghĩa thống kê với p < 0,05). Bên cạnh đó, ở mỗi thời điểm đánh giá thì biên độ sang bên lành tối đa giữa hai nhóm không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê (1 tháng: p = 0,572 > 0,05 (Mann-Whitney U); 2 tháng: p = 0,860 > 0,05; 3 tháng: p = 0,873 > 0,05 (Mann-Whitney U); 6 tháng: p = 0,942 > 0,05 (Mann-Whitney U)). Biên độ đưa hàm dưới sang bên gãy tối đa trung bình tính theo milimet của bệnh nhân ở các thời điểm sau phẫu thuật được ghi nhận trong bảng 8. Bảng 8. Biên độ sang bên gãy tối đa trung bình (mm) ở các thời điểm 1, 2, 3, 6 tháng sau phẫu thuật 1 tháng 2 tháng 3 tháng 6 tháng p* Nhóm A(n=47) 5,7 ± 2,71 7,6 ± 2,80 8,8 ± 2,32 9,8 ± 2,04 0,000 Nhóm B(n=47) 5,7 ± 2,64 8,1 ± 2,26 9,2 ± 2,22 9,8 ± 1,95 0,000 Tổng mẫu(n=94) 5,7 ± 2,66 7,9 ± 2,54 9,0 ± 2,27 9,8 ± 1,98 0,000 p** 0,985 0,408 0,510 0,726 * So sánh khác biệt biên độ sang bên gãy tối đa trung bình với thời điểm trước đó. ** So sánh khác biệt giữa hai nhóm A và B trong cùng thời điểm. Bảng 8 cho thấy biên độ đưa hàm dưới sang bên gãy tối đa của mỗi nhóm đều tăng ở thời điểm sau phẫu thuật 1 tháng, 2 tháng, 3 tháng và 6 tháng (có ý nghĩa thống kê với p<0,05). Bên cạnh đó, ở mỗi thời điểm đánh giá thì biên độ sang bên gãy tối đa giữa hai nhóm không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê (1 tháng: p = 0,985 > 0,05; 2 tháng: p = 0,408 > 0,05; 3 tháng: p = 0,510 > 0,05 (Mann-Whitney U); 6 tháng: p = 0,726 > 0,05 (Mann-Whitney U)). Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Phụ bản của Số 2 * 2015 Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Răng Hàm Mặt 291 BÀN LUẬN Nghiên cứu có tổng số 94 BN phân bố đều trong 2 nhóm với nhóm đường dưới hàm có 47 BN và nhóm đường miệng với nội soi hướng dẫn có 47 BN, điều này cho phép thực hiện được việc so sánh đánh giá một cách chuẩn mực giữa 2 nhóm. Phân bố các nhóm tuổi trong nghiên cứu theo giới tính nhằm tìm ra đặc trưng chấn thương thường gặp ở từng giới tính nằm trong nhóm tuổi nào cũng cho thấy rằng lứa tuổi trưởng thành (19-39 tuổi) là lứa tuổi thường gặp nhất trong chấn thương gãy cổ lồi cầu trong nghiên cứu ở cả giới nam và giới nữ (bảng 1). Hầu hết bệnh nhân trong mẫu nghiên cứu đều có nguyên nhân chấn thương do tai nạn giao thông (bảng 2), đây cũng là nguyên nhân thường gặp nhất trong các nghiên cứu về chấn thương hàm mặt nói chung và gãy cổ lồi cầu nói riêng tại Việt Nam(5,7,10). Trong mẫu nghiên cứu, tất cả bệnh nhân tai nạn giao thông đều có nguyên nhân do tai nạn xe gắn máy hai bánh, đây là phương tiện lưu thông phổ biến nhất ở nước ta hiện nay và cũng là nguyên nhân gây chấn thương thường xuyên nhất trong các tai nạn giao thông. Các nguyên nhân còn lại như tai nạn lao động, tai nạn sinh hoạt và đả thương chỉ chiếm tỉ lệ rất nhỏ. Thời gian từ lúc chấn thương cho đến ngày phẫu thuật là khoảng thời gian quan trọng ảnh hưởng đến quá trình điều trị cũng như sự hồi phục và kết quả điều trị sau này. Thời gian này càng ngắn thì càng tạo thuận lợi cho việc phẫu thuật, tuy nhiên nên nằm ngoài khoảng thời gian sưng nề ban đầu sau chấn thương để việc phẫu thuật được dễ dàng hơn. Trong nghiên cứu này, số bệnh nhân có thời gian trước phẫu thuật dưới 15 ngày chiếm ưu thế và thời gian trung bình là 13 ngày (bảng 3). Do ổ gãy cổ lồi cầu tạo can xương khá nhanh hơn các vị trí gãy khác của xương hàm dưới nên đây là một thuận lợi giúp cho việc nắn chỉnh ổ gãy được dễ dàng và chính xác đúng tiếp hợp xương. Trong trường hợp bệnh nhân phẫu thuật muộn sau chấn thương 1 tháng (trong nghiên cứu chỉ chiếm tỉ lệ 3%) sẽ gặp nhiều khó khăn trong quá trình phẫu thuật phá can xương, nắn chỉnh và kết hợp xương ổ gãy, làm gia tăng thời gian phẫu thuật, đồng thời gia tăng nguy cơ chu phẫu và di chứng hậu phẫu. Thời gian tiền phẫu không có sự khác biệt giữa hai nhóm nên rất thuận lợi cho việc so sánh và đánh giá kết quả phẫu thuật sau này. Đánh giá biên độ há tối đa Ngoài khớp cắn, vận động chức năng hàm dưới là một tiêu chí cần đánh giá để ghi nhận khả năng phục hồi chức năng ăn nhai của bệnh nhân sau chấn thương và sau phẫu thuật. Vận động chức năng hàm dưới gồm biên độ há tối đa, ra trước tối đa, sang bên gãy và sang bên lành tối đa không tiếp xúc răng được đánh giá trong nghiên cứu trên mỗi bệnh nhân. Ở thời điểm 1 tháng, vận động há tối đa trung bình gần 30mm (bảng 5), chỉ khoảng 10% bệnh nhân là hồi phục với biên độ há tối đa trên 40mm (bảng 4) cho thấy thời điểm 1 tháng sau phẫu thuật chưa phải là thời điểm phục hồi hoàn toàn chức năng ăn nhai, và bệnh nhân cần luyện tập vận động chức năng hàm dưới chủ động tiếp tục một cách tích cực. Trong mẫu nghiên cứu, bệnh nhân ở cả hai nhóm đều có sự hợp tác tốt trong quá trình tập vận động chức năng hàm dưới sau phẫu thuật, đây là điều thuận lợi cho sự hồi phục vận động hàm. Sau phẫu thuật 2 tháng, biên độ há tối đa trung bình cả hai nhóm đã đạt trên 40mm, với phần lớn bệnh nhân há với biên độ bình thường và chỉ còn một tỉ lệ 13% bệnh nhân còn vận động há tối đa dưới 30mm (hạn chế nhiều). Không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê giữa hai nhóm ở các thời điểm đánh giá vận động há tối đa, và sau phẫu thuật 3 tháng đa số bệnh nhân có biên độ há bình thường với biên độ há tối đa trung bình khoảng 45mm. Biên độ há tối đa là tiêu chí thường được các tác giả sử dụng nhất để đánh giá vận động chức năng hàm dưới. So sánh trong y văn với các nghiên cứu về phẫu thuật kết hợp xương cổ lồi cầu cho thấy biên độ há tối đa ở thời điểm 6 Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Phụ bản của Số 2 * 2015 Chuyên Đề Răng Hàm Mặt 292 tháng sau phẫu thuật của Schneider & cs (2007) là 42,8 ± 9,6 mm ở nhóm đường ngoài mặt (quanh góc hàm) và 41,2 ± 5,9 mm ở nhóm đường miệng với nội soi hướng dẫn (bảng 4.1)(11). So sánh các giá trị trong nghiên cứu của Schneider & cs với các giá trị tương ứng trong nghiên cứu này sau phẫu thuật 6 tháng cho thấy biên độ há tối đa của mỗi nhóm trong nghiên cứu này lớn hơn có ý nghĩa thống kê (p=0,000<0,05) thể hiện khả năng hồi phục vận động há tối đa cao hơn ở thời điểm 6 tháng sau phẫu thuật. Nghiên cứu của Schneider & cs thực hiện trên số mẫu không lớn, với 20 bệnh nhân nhóm ngoài mặt và 20 bệnh nhân nhóm trong miệng. Bên cạnh đó, Lauer & cs (2007)(6) thực hiện một nghiên cứu về phẫu thuật kết hợp xương cổ lồi cầu qua đường miệng dưới nội soi hướng dẫn trên 16 bệnh nhân với 19 ổ gãy, biên độ há tối đa sau phẫu thuật 6 tháng là 39,9 ± 5,3 mm; nhỏ hơn biên độ há tối đa của nghiên cứu này có ý nghĩa thống kê (p=0,000<0,05). Ở một nghiên cứu có cỡ mẫu lớn hơn với 30 ổ gãy trên 25 bệnh nhân phẫu thuật kết hợp xương cổ lồi cầu qua đường miệng dưới nội soi hướng dẫn, Veras & cs (2007)(14) đã đánh giá biên độ vận động há tối đa sau phẫu thuật 6 tháng là 48 ± 9 mm. So sánh với kết quả há tối đa của 51 ổ gãy trên 47 bệnh nhân của nhóm đường miệng với nội soi hướng dẫn của nghiên cứu này cho thấy không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê (p=0,149>0,05) (bảng 9). Bảng 9. So sánh biên độ há tối đa trung bình (TB ± ĐLC) (mm) sau phẫu thuật 6 tháng của mẫu nghiên cứu này với một số nghiên cứu khác trên thế giới Đường ngoài mặt Đường miệng với NSHD Số BN/ổ gãy Biên độ há tối đa Số BN/ổ gãy Biên độ há tối đa Schneider & cs (2007) 20/24 42,8 ± 9,6* 20/21 41,2 ± 5,9* Lauer & cs (2007) - - 16/19 39,9 ± 5,3* Veras & cs (2007) - - 25/30 48,0 ± 9 Chơn & cs (2014) 47/52 49,4 ± 7,58 47/51 49,4 ± 6,36 * Khác biệt có ý nghĩa thống kê (p<0,05). Đánh giá biên độ ra trước và sang bên tối đa Ngoài biên độ há tối đa có sự hồi phục rõ rệt đáng ghi nhận, nghiên cứu còn theo dõi và đánh giá các biên độ vận động đưa hàm dưới ra trước và sang bên. Biên độ ra trước tối đa trung bình đều tăng dần ở các thời điểm tái khám 1, 2, 3 và 6 tháng có ý nghĩa thống kê và sự hồi phục là như nhau giữa hai nhóm đường dưới hàm và đường miệng với nội soi hướng dẫn (bảng 6). So sánh kết quả này với các kết quả biên độ ra trước tối đa trung bình trong các nghiên cứu của các tác giả Schneider & cs (2007)(12), Lauer & cs (2007)(6) và Veras & cs (2007)(14) (bảng 10) cho thấy số liệu của nghiên cứu này lớn hơn có ý nghĩa thống kê (p<0,05). Tương tự, biên độ đưa hàm dưới sang bên lành và sang bên gãy của mẫu nghiên cứu đều tăng dần có ý nghĩa thống kê ở các lần tái khám ở thời điểm 1, 2, 3 và 6 tháng và thể hiện sự hồi phục như nhau ở hai nhóm đường miệng với nội soi hướng dẫn và đường dưới hàm (bảng 7 và 8). Ở bệnh nhân gãy cổ lồi cầu 1 bên được phẫu thuật kết hợp xương, vận động hàm dưới sang bên lành thường khó khăn hơn, có giá trị nhỏ hơn sang bên gãy trong thời gian đầu, tuy nhiên phân tích số liệu trong nghiên cứu cho thấy sự khác biệt này không có ý nghĩa thống kê (p>0,05) ở tất cả thời điểm đánh giá ở từng nhóm. Điều này cũng có thể do sự cố gắng tích cực trong việc luyện tập vận động chức năng hàm dưới của bệnh nhân, trong đó có vận động sang hai bên phải và trái. So sánh biên độ vận động hàm dưới sang bên của các bệnh nhân trong mẫu nghiên cứu với trung bình biên độ sang bên phải tối đa không tiếp xúc răng của mẫu thanh niên khỏe mạnh không có tiền sử bệnh lý khớp thái dương-hàm trong nghiên cứu của PTA Thư (2002)(11) là 8,3 ± 2,06 mm cho thấy ở thời điểm 2 tháng sau phẫu thuật, trung bình biên độ Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Phụ bản của Số 2 * 2015 Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Răng Hàm Mặt 293 vận động hàm dưới sang bên lành thấp hơn có ý nghĩa thống kê (p=0,011<0,05), tuy nhiên biên độ vận động hàm dưới sang bên gãy không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê (p=0,102>0,05); ở thời điểm 3 tháng sau phẫu thuật, biên độ sang bên lành không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê (p=0,260>0,05) và biên độ sang bên gãy lớn hơn có ý nghĩa thống kê (p=0,004<0,05). Vậy có thể thấy rằng sự hồi phục của vận động hàm dưới sang bên lành về giá trị bình thường xảy ra sau phẫu thuật 3 tháng trong khi đó vận động hàm dưới sang bên gãy hồi phục về giá trị bình thường xảy ra ở thời điểm 2 tháng sau phẫu thuật. Bảng 10. So sánh biên độ ra trước tối đa trung bình (TB ± ĐLC) (mm) sau phẫu thuật 6 tháng của mẫu nghiên cứu này với một số nghiên cứu khác trên thế giới Đường ngoài mặt Đường miệng với NSHD Số BN/ổ gãy Biên độ ra trước Số BN/ổ gãy Biên độ ra trước Schneider & cs (2007) 20/24 6,7 ± 3,6* 20/21 5,9 ± 2,7* Lauer & cs (2007) - - 16/19 5,1 ± 2,6* Veras & cs (2007) - - 25/30 5,8 ± 3* Chơn & cs (2014) 47/52 7,8 ± 2,13 47/51 8,1 ± 1,87 * Khác biệt có ý nghĩa thống kê (p<0,05). KẾT LUẬN Qua đánh giá trên 94 BN với 103 ổ gãy được chia thành hai nhóm đường dưới hàm và đường miệng với nội soi hướng dẫn cho thấy biên độ vận động hàm dưới gồm biên độ há tối đa, biên độ ra trước và sang bên lành/gãy tối đa không tiếp xúc răng sau phẫu thuật điều trị gãy cổ lồi cầu xương hàm dưới bằng kết hợp xương qua đường miệng với nội soi hướng dẫn và đường dưới hàm đều trở về bình thường từ thời điểm sau phẫu thuật 3 tháng, góp phần mang lại thành công về chức năng và hạn chế biến chứng cho bệnh nhân. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Bhagol A, Singh V, Kumar I, Verma A (2011). Prospective evaluation of a new classification system for the management of mandibular sub-condylar fractures. J Oral Maxillofac Surg; 69:1159–1165. 2. Dechaume M & cs (1980), Précis de Stomatologie, pp. 200-201, Masson. 3. Edward Ellis III & cs (2000). Surgical Complications With Open Treatment of Mandibular Condylar Process Fractures. J Oral Maxillofac Surg 58:950-958. 4. Hoàng TA (2002). Đánh giá kết quả điều trị phẫu thuật gẫy lồi cầu xương hàm dưới. Luận văn Thạc sỹ y học. Trường Đại học Y Hà Nội. 5. Kellman RM & Cienfuegos R (2009). Endoscopic approaches to subcondylar fractures of the mandible Facial Plast Surg. 2009 Feb;25(1):23-8. 6. Lauer G, Pradel W, Schneider M, Eckelt U (2007). A new 3- dimensional plate for transoral endoscopic-assisted osteosynthesis of condylar neck fractures. J Oral Maxillofac Surg. 65(5):964-971. 7. Lê VP (2009). Nhận xét đặc điểm lâm sàng, X quang và kết quả điều trị phẫu thuật gẫy lồi cầu xương hàm dưới tại Viện Răng Hàm Mặt Quốc Gia. Luận văn tốt nghiệp Thạc sỹ y học. Đại học Y Hà Nội. 8. Lindahl L (1977). Condylar fractures of the mandible. I. Classification and relation to age, occlusion, and concomitant injuries of teeth and teeth-supporting structures, and fractures of the mandibular body. Int J Oral Surg 6 (1): 12-21. 9. Mitchell DA (1997). A multicentre audit of unilateral fracture of the mandibular condyle. J Oral Maxillofac Surg 35 (4): 230- 236. 10. Phạm DC & cs (2000). Đánh giá kết quả điều trị phẫu thuật 88 trường hợp gẫy lồi cầu xương hàm dưới. Y học Việt Nam. Chuyên đề Răng Hàm Mặt. Số 8,9: 47-49. 11. Phạm TAT (2002), “Nghiên cứu thăm dò một số đặc điểm vận động biên không tiếp xúc răng ở lứa tuổi thanh niên”, Tiểu luận tốt nghiệp Bác sĩ Răng Hàm Mặt. 12. Schneider M, Lauer G, Eckelt U (2007). Surgical treatment of fractures of the mandibular condyle: a comparison of long- term results following different approaches - functional, axiographical, and radiological findings. J Craniomaxillofac Surg. 35(3):151-160. 13. Silvennoinen U, Iizuka T, Oikarinen K, Lindqvist C (1992). Different patterns of condylar fractures: an analysis of 382 patients in a 3- year period. J Oral Maxillofac Surg 50 (10): 1032- 1037. 14. Veras RB, Kriwalsky MS, Eckert AW, Schubert J, Maurer P (2007). Long-term outcomes after treatment of condylar fracture by intraoral access: a functional and radiologic assessment. J Oral Maxillofac Surg. 65(8):1470-1476. Ngày nhận bài báo: 30/01/2015 Ngày phản biện nhận xét bài báo: 26/02/2015 Người phản biện: TS Lê Hồ Phương Trang Ngày bài báo được đăng: 10/04/2015 Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Phụ bản của Số 2 * 2015 Chuyên Đề Răng Hàm Mặt 294 TÌNH TRẠNG RĂNG VÀ NHA CHU TRÊN BỆNH NHÂN ĐẾN KHÁM BÉO PHÌ TẠI VIỆN Y DƯỢC HỌC DÂN TỘC TP. HỒ CHÍ MINH Phạm Anh Vũ Thụy*, Trần Huỳnh Trung** TÓM TẮT Mục tiêu: Xác định tình trạng răng và nha chu; và đánh giá mối liên quan của các tình trạng răng miệng này với tình trạng thừa cân béo phì trên bệnh nhân lần đầu đến tư vấn, khám và điều trị béo phì tại Viện Y Dược học Dân tộc TP. Hồ Chí Minh Phương pháp: Nghiên cứu cắt ngang thực hiện trên 681 bệnh nhân (124 nam, 557 nữ, tuổi trung bình 41,36 ± 16,19) từ 3/2014 đến 12/2014. Đặc điểm nhân khẩu xã hội học và thói quen nha khoa được thu thập qua bảng câu hỏi tự điền. Bệnh nhân được đo các chỉ số nhân trắc (chiều cao, cân nặng); và được khám tình trạng răng (sâu, mất, trám) và nha chu (chỉ số mảng bám răng, chỉ số nướu, chảy máu nướu khi thăm dò, độ sâu khe nướu, độ mất bám dính lâm sàng). Chỉ số khối cơ thể bệnh nhân được tính và tình trạng béo phì được phân loại theo chỉ số khối cơ thể cho người Châu Á trưởng thành (WHO, 2000). Kết quả: 212 bệnh nhân có tình trạng cơ thể bình thường hay thừa cân (31,1%), 326 bệnh nhân béo phì độ I (47,9%) và 143 bệnh nhân béo phì độ II (21,0%). Số trung bình răng sâu (DT) và số trung bình răng sâu, mất trám (DMFT) tăng có ý nghĩa thống kê theo mức độ trầm trọng của tình trạng béo phì (p<0,05). Tỷ lệ viêm nha chu của bệnh nhân béo phì là 38,0%. Tỷ lệ viêm nha chu và số trung bình các chỉ số nha chu (PlI, GI, BOP, PD và CAL) cũng tăng có ý nghĩa thống kê theo mức độ trầm trọng của tình trạng béo phì (p<0,05). Kết luận: Sâu răng, tỷ lệ viêm nha chu và độ trầm trọng của bệnh nha chu liên quan có ý nghĩa với mức độ trầm trọng của tình trạng béo phì Từ khóa: Béo phì, Sâu răng, Viêm nha chu, Chỉ số khối cơ thể. ABSTRACT DENTAL AND PERIODONTAL STATUS IN PATIENTS FOR OBESITY EXAMINATION AT TRADITIONAL MEDICINE INSTITUTE, HO CHI MINH CITY Pham Anh Vu Thuy, Tran Huynh Trung * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 19 - Supplement of No 2 - 2015: 294 - 302 Objectives: To examine the dental and periodontal status; and assess the relationship between these conditions and obesity in patients who first visited for consultation, examination and treatment of obesity at Traditional Medicine Institute, Ho Chi Minh City. Methods: Cross sectional study was performed on 681 patients (124 males, 557 females, mean age: 41.36 ±16.19) from March to December, 2014. The socio-demographic characteristics and dental habits were investigated by the self-administered questionnaire. Anthropometric index (height, weight) of patients was measured and a record made of dental status (DT, MT, FT) and periodontal status (PlI, GI, BOP, PD, CAL). Body Mass Index (BMI) was calculated and obesity classification of patients by BMI for adult Asians (WHO, 2000) was conducted. Results: 212 patients were classified as normal or overweight, 326 patients were obese I and 143 patients * Bộ môn Nha Chu - Khoa Răng Hàm Mặt, Đại học Y Dược Tp.HCM ** Học viên Cao học khóa 2012-2014, Khoa Răng Hàm Mặt, Đại học Y Dược Tp.HCM Tác giả liên lạc: TS. Phạm Anh Vũ Thụy ĐT: 0916810874 Email: pavthuy@hotmail.com Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Phụ bản của Số 2 * 2015 Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Răng Hàm Mặt 295 were obese II. The means of DT and DMFT significantly increased with the higher degrees of obesity (p<0.05). The prevalence of periodontitis in obese subjects was 38.0%. The prevalence of periodontitis and the mean values of periodontal parameters (PlI, GI, BOP, PD and CAL) also significantly increased with the higher degrees of obesity (p<0.05). Conclusion: Dental caries, prevalence of periodontitis and severity of periodontal disease were significantly associated with the higher degrees of obesity. Key words: Obesity, Dental caries, Periodontitis, Body Mass Index. ĐẶT VẤN ĐỀ Béo phì đang được xem là vấn đề sức khỏe bùng phát nhanh nhất trên toàn thế giới, với một tỉ người đang bị dư cân hoặc béo phì theo ghi nhận của Tổ chức Y tế thế giới (WHO)(25). Tình trạng này đang là một vấn đề y tế công cộng lớn, không chỉ tại các nước Âu Mỹ mà cả châu Á(16). Tỉ lệ người béo phì tăng nhanh gắn liền với tăng nguy cơ tử vong cũng như nguy cơ mắc các bệnh lý mạn tính, thường gặp nhất là các bệnh tim mạch, tăng huyết áp, đái tháo đường tuýp 2 và hội chứng rối loạn chuyển hóa(12). Bên cạnh những nguy cơ sức khỏe toàn thân, nhiều nghiên cứu trên thế giới cũng cho thấy béo phì là một yếu tố nguy cơ của bệnh nha chu(7,19,26). Từ nghiên cứu đầu tiên trên chuột tìm được mối liên quan giữa béo phì và mức độ tiêu xương ổ của Perlstein và cs (1977)(14), đến nay đã có rất nhiều nghiên cứu cho thấy người bị béo phì có tỉ lệ mắc bệnh và mức độ trầm trọng bệnh nha chu cao hơn so với người có cân nặng bình thường. Mô mỡ ở người béo phì không đơn thuần là nơi dự trữ năng lượng một cách thụ động. Nhiều protein tiết ra từ mô mỡ được cho là đóng những vai trò khác nhau tác dụng lên các cơ quan ở xa, trong đó một số protein là yếu tố điều hòa chính trong phản ứng viêm và quyết định quá trình tiến triển của viêm nha chu(15). Tình trạng béo phì và sâu răng đều có liên quan đến thói quen ăn uống cá nhân. Một số nghiên cứu cho thấy tỷ lệ sâu răng tăng lên ở trẻ em và người lớn bị béo phì(8). Hậu quả từ sâu răng và bệnh nha chu có thể đưa đến mất răng. Những người mất răng một phần hoặc toàn bộ và không mang hàm giả dễ trở nên bị béo phì. Mất răng góp phần đưa đến khẩu phần ăn không lành mạnh, ít chất xơ, nhiều cholesterol và chất béo bão hòa hơn, càng góp phần làm tăng cân nặng hơn. Béo phì và những hệ lụy đi kèm với tình trạng này đang trở thành mối quan tâm không những của ngành sức khỏe nói chung, mà còn của ngành nha khoa nói riêng. Tại Việt Nam, trong bối cảnh của thời kỳ hội nhập và phát triển, sự thay đổi của lối sống đang kéo theo những vấn đề sức khỏe con người. Tỉ lệ béo phì đang có chiều hướng gia tăng nhanh, đặc biệt là tại các đô thị lớn(1). Tuy nhiên, vấn đề sức khỏe răng miệng trên những đối tượng này vẫn chưa được quan tâm đúng mức. Viện Y Dược học Dân tộc TP. Hồ Chí Minh là một trong những cơ sở y tế thực hiện việc khám, tư vấn và điều trị béo phì cho mọi lứa tuổi. Tại đây, bệnh nhân được bác sĩ tư vấn để thay đổi thói quen về lối sống, chế độ ăn uống, hướng dẫn luyện tập thể dục. Bên cạnh đó còn chữa trị bằng các phương pháp y học cổ truyền như sử dụng thuốc đông y có nguồn gốc thảo dược, châm cứu. Ngoài những bệnh nhân thật sự béo phì, tại đây còn tiếp nhận nhiều bệnh nhân không béo phì đến khám để được tư vấn chế độ ăn uống và tập luyện cơ thể có lợi cho sức khỏe. Với mong muốn được đóng góp thêm những hiểu biết về mối liên quan giữa các bệnh răng miệng và béo phì nói riêng, cũng như trục nghiên cứu về mối quan hệ giữa các bệnh răng miệng và bệnh toàn thân nói chung tại Việt Nam, chúng tôi thực hiện đề tài này nhằm xác định tình trạng răng và nha chu, và bước đầu đánh giá mối liên quan của các tình trạng răng miệng này với tình trạng thừa cân béo phì trên Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Phụ bản của Số 2 * 2015 Chuyên Đề Răng Hàm Mặt 296 đối tượng là những bệnh nhân lần đầu đến khám, tư vấn và điều trị béo phì tại Viện Y Dược học TP. Hồ Chí Minh. ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Mẫu nghiên cứu là 681 bệnh nhân, từ 18 tuổi trở lên đến khám, tư vấn và điều trị lần đầu tiên tại Khoa khám lâm sàng, Viện Y Dược học Dân tộc Thành phố Hồ Chí Minh từ ngày 1/3/2014 đến ngày 30/12/2014 và đồng ý tham gia nghiên cứu. Bệnh nhân đang hay đã điều trị nha chu trong vòng 3 tháng trước nghiên cứu hay đang mang mắc cài chỉnh nha hay là phụ nữ đang mang thai hoặc đang cho con bú không được tham gia nghiên cứu. Đề cương nghiên cứu đã được thông qua Hội đồng Y đức của Đại học Y Dược TP. Hồ Chí Minh và được sự đồng ý của Viện Y Dược học Dân tộc TP. Hồ Chí Minh. Bảng câu hỏi Bệnh nhân tham gia nghiên cứu được thu thập những thông tin liên quan đến nhân khẩu xã hội học (tuổi, giới tính và trình độ học vấn); thói quen nha khoa (khám răng định kỳ, số lần chải răng, dùng chỉ nha khoa và dùng nước súc miệng) qua bảng câu hỏi tự điền. Một sinh viên Răng Hàm Mặt năm thứ 6 đã được tập huấn, hướng dẫn cho tất cả bệnh nhân trước khi bệnh nhân tự điền vào bảng câu hỏi. Khám tình trạng răng và nha chu Tình trạng răng (sâu, mất, trám) và nha chu (chỉ số mảng bám, chảy máu nướu khi thăm dò khe nướu, chỉ số nướu, độ sâu khe nướu khi thăm dò và mất bám dính lâm sàng) các răng hiện diện trên cung hàm (ngoại trừ răng khôn) của tất cả bệnh nhân trong nghiên cứu này được khám bởi cùng một Bác sĩ Răng Hàm Mặt đã được tập huấn và định chuẩn trước khi tiến hành nghiên cứu. Tình trạng răng được khám và chẩn đoán theo tiêu chí của Tổ chức Y tế thế giới (WHO), 1997. Đánh giá tình trạng mảng bám răng (PlI) tại 4 vị trí (ngoài gần, ngoài giữa, ngoài xa và mặt trong) theo tiêu chí của Loe và Silness (1964). Đánh giá tình trạng nướu (PI) tại 4 vị trí (ngoài gần, ngoài giữa, ngoài xa và mặt trong) theo tiêu chí của Loe và Silness (1963). Độ sâu khe nướu (PD), mất bám dính lâm sàng (CAL) và tình trạng chảy máu nướu khi thăm dò khe nướu (BOP) được đánh giá tại 6 vị trí (ngoài gần, ngoài giữa, ngoài xa, trong gần, trong giữa và trong xa) bằng cây thăm dò William. Viêm nha chu được xác định khi có ≥ 2 mặt tiếp cận không cùng trên 1 răng có mất bám dính lâm sàng ≥ 4 mm, hoặc khi có 2 mặt tiếp cận không cùng trên 1 răng có độ sâu túi ≥ 5 mm theo định nghĩa của Hội nha chu Hoa Kì (AAP) và Trung tâm kiểm soát và phòng ngừa bệnh Hoa Kì (CDC), 2007. Đo chỉ số nhân trắc Chỉ số nhân trắc của tất cả các đối tượng nghiên cứu được thực hiện bởi một điều dưỡng có kinh nghiệm tại Phòng khám Thừa cân - Béo phì. Bệnh nhân được yêu cầu mặc quần áo mỏng, nhẹ và không mang giày dép. Chiều cao (mét) được đo bằng thước thẳng với độ chính xác 0,01 m. Cân nặng (kg) được đo bằng cân điện tử với độ chính xác 0,1 kg. Chỉ số khối cơ thể (Body Mass Index, BMI) được tính bằng tỉ số giữa chiều cao và bình phương cân nặng (kg/m2). Chỉ số khối cơ thể của các đối tượng trong nghiên cứu này được phân loại dựa theo ngưỡng cắt BMI xác định thừa cân - béo phì dành cho người châu Á trưởng thành theo WHO, (2000)(23). Bệnh nhân được xác định là thiếu cân (BMI: < 18,5), bình thường (BMI: 18,5 - 22,9), thừa cân (BMI: 23,0 - 24,9), béo phì độ I (BMI: 25,0 - 29,9), hoặc béo phì độ II (BMI: ≥ 30). KẾT QUẢ Đặc điểm nhân khẩu xã hội học và các thói quen nha khoa Trong số 681 bệnh nhân, có 124 nam (18,2%) và 557 nữ (81,8%). Độ tuổi trung bình của các đối tượng trong nghiên cứu này là 41,36 ± 16,19, trong đó tuổi của nam (47,70 ± 15,33) cao hơn có ý nghĩa thống kê so với tuổi của nữ (39,94 ± 16,05), p<0,001. Đặc điểm nhân khẩu xã hội học và thói quen nha khoa của các đối tượng nghiên cứu được trình bày trong Bảng 1. Trong tất cả các Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Phụ bản của Số 2 * 2015 Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Răng Hàm Mặt 297 đối tượng nghiên cứu có 212 bệnh nhân có chỉ số khối cơ thể bình thường hay thừa cân (31,1%), 326 bệnh nhân béo phì độ I (47,9%) và 143 bệnh nhân béo phì độ II (21,0%). Không có đối tượng thiếu cân trong nghiên cứu này. 356 bệnh nhân (52,3%) có trình độ dưới đại học và 325 người (47,7%) có trình độ từ đại học trở lên. Có một tỷ lệ cao hơn có ý nghĩa thống kê bệnh nhân có trình độ từ đại học trở lên bị béo phì độ II (26,5%) so với bệnh nhân có trình độ dưới đại học (16,0%), p<0,001. 314 bệnh nhân (46,1%) có khám răng định kỳ thường xuyên hay thỉnh thoảng đi khám răng miệng, trong khi 367 bệnh nhân (53,9%) không bao giờ hoặc chỉ đi khám khi có những vần đề về răng miệng. Hơn 2/3 số bệnh nhân (67,5%) có thói quen chải răng từ 1-2 lần/ ngày và 22,5% bệnh nhân chải răng từ 3 lần ngày trở lên. Về thói quen dùng chỉ nha khoa, gần phân nữa đối tượng nghiên cứu (338 bệnh nhân) không có thói quen dùng chỉ nha khoa (49,6%), 190 bệnh nhân (27,9%) thỉnh thoảng có dùng trong khi chỉ có 153 bệnh nhân (22,4%) sử dụng chỉ nha khoa ít nhất 1 lần/tuần. Về thói quen dùng nước súc miệng, có 295 bệnh nhân (43,3%) không có thói quen dùng nước súc miệng, 228 bệnh nhân (33,5%) thỉnh thoảng có dùng trong khi chỉ có 158 bệnh nhân (23,2%) dùng nước súc miệng ít nhất 1 lần/tuần. Các biến số về tuổi, giới tính, thói quen khám răng định kỳ, chải răng, dùng chỉ nha khoa và dùng nước súc miệng, không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê giữa các nhóm có chỉ số khối cơ thể bình thường/thừa cân, béo phì độ I và béo phì độ II (p > 0,05). Bảng 1: Đặc điểm nhân khẩu xã hội học và thói quen nha khoa Biến số Bình thường/Thừa cân Béo phì độ I Béo phì độ II Tổng số p n = 212 n = 326 n = 143 n= 681 Tuổi, TB (ĐLC) 42,44 (17,34) 40,97 (16,10) 40,62 (14,57) 41,36 (16,19) 0,489 (1) Giới tính, n (%) Nam 39 (31,5%) 52 (41,9%) 33 (26,6%) 124 (100%) 0,183 (2) Nữ 173 (31,1%) 274 (49,2%) 110 (19,7%) 557 (100%) Trình độ học vấn, n (%) Dưới đại học 105 (29,5%) 194 (54,5%) 57 (16,0%) 356 (100%) <0,001 (2) Từ đại học trở lên 107 (32,9%) 132 (40,6%) 80 (26,5%) 325 (100%) Khám răng định kỳ, n (%) Thường xuyên, thỉnh thoảng 93 (29,6%) 161 (51,3%) 60 (19,1%) 314 (100%) 0,243 (2) Không bao giờ, khi có vấn đề 119 (32,4%) 165 (45,0%) 83 (22,6%) 367 (100%) Thói quen chải răng, n (%) Từ 1 đến 2 lần/ngày 150 (32,6%) 213 (46,3%) 97 (21,1%) 460 (100%) 0,422 (2) Từ 3 lần trở lên/ngày 62 (28,1%) 113 (51,1%) 46 (20,8%) 221 (100%) Dùng chỉ nha khoa, n (%) Ít nhất 1 lần/tuần 58 (37,9%) 70 (45,8%) 25 (16,3%) 153 (100%) 0,198 (2) Thỉnh thoảng 59 (31,0%) 87 (45,8%) 44 (23,2%) 190 (100%) Không bao giờ 95 (28,1%) 169 (50,0%) 74 (21,9%) 338 (100%) Dùng nước súc miệng, n (%) Ít nhất 1 lần/tuần 49 (31,0%) 80 (50,6%) 29 (18,4%) 158 (100%) 0,822 (2) Thỉnh thoảng 70 (30,7%) 105 (46,1%) 53 (23,2%) 228 (100%) Không bao giờ 93 (31,5%) 141 (47,8%) 61 (20,7%) 295 (100%) (1): Kiểm định ANOVA; (2): Kiểm định Chi bình phương, Có ý nghĩa thống kê khi p<0,05 Tình trạng răng và nha chu Tình trạng răng và nha chu của đối tượng nghiên cứu được trình bày trong Bảng 2. Chỉ số trung bình răng sâu; răng mất; răng trám và tổng số răng sâu, mất, trám của các đối tượng nghiên cứu lần lượt là 5,27 ± 3,07; 3,75 ± 1,98; 2,26 ± 3,44 và 11,68 ± 5,72. Có sự gia tăng số trung bình răng sâu (DT) có ý nghĩa thống kê từ 4,06 ± 2,94 răng trên Nhóm bình thường/thừa cân, đến 5,60 ± 2,87 răng trên Nhóm béo phì độ I, đến 6,34 ± 3,15 răng trên Nhóm béo phì độ II (p<0,05). Biểu đồ 1 cho Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Phụ bản của Số 2 * 2015 Chuyên Đề Răng Hàm Mặt 298 thấy tỷ lệ phân bố số răng sâu ở các nhóm. Có 17, 4% bệnh nhân ở Nhóm bình thường/thừa cân có ít nhất 8 răng sâu, trong khi tỷ lệ này cao hơn trên Nhóm béo phì độ I là 32,2% và cao nhất trên Nhóm béo phì độ II là 44,0% (p<0,001). Tính chung cho mẫu nghiên cứu, có 30,7% bệnh nhân có từ 0-3 răng sâu, 39,2% bệnh nhân có từ 4-7 răng sâu và 30,1% bệnh nhân có từ 8 răng sâu trở lên. Có sự gia tăng số trung bình số răng trám (FT) từ 3,37 ± 2,13 răng trên Nhóm bình thường/thừa cân, đến 3,82 ± 1,84 răng trên Nhóm béo phì độ I, đến 4,13 ± 2,00 răng trên Nhóm béo phì độ II. Sự khác biệt có ý nghĩa thống kê chỉ thấy giữa Nhóm béo phì độ I hay Nhóm béo phì độ II với Nhóm bình thường/thừa cân (p<0,05). Có sự gia tăng số trung bình răng mất (MT) từ 2,15 ± 2,84 răng trên Nhóm bình thường/thừa cân, đến 2,31 ± 3,10 răng trên Nhóm béo phì độ I, đến 4,22 ± 4,40 răng trên Nhóm béo phì độ II. Tuy nhiên sự khác biệt có ý nghĩa thống kê chỉ thấy giữa Nhóm bình thường/thừa cân hay Nhóm béo phì độ I với Nhóm béo phì độ II (p<0,001). Số trung bình răng sâu, mất, trám (DMFT) tăng có ý nghĩa thống kê từ 9,58 ± 5,16 răng trên Nhóm bình thường/thừa cân, đến 11,73 ± 4,97 răng trên Nhóm béo phì độ I, đến 14,69 ± 6,70 răng trên Nhóm béo phì độ II (p<0,001). Chỉ số trung bình mảng bám răng (PlI), số răng bị chảy máu nướu khi thăm dò (BOP), chỉ số nướu (GI), độ sâu túi nha chu (PD) và mất bám dính lâm sàng (CAL) của tất cả bệnh nhân trong nghiên cứu lần lượt là 1,62 ± 0,61, 6,59 ± 6,09, 1,16 ± 0,25, 1,59 ± 0,40 và 1,67 ± 0,45. Chỉ số trung bình PlI trên Nhóm bình thường/thừa cân là 1,50 ± 0,52; chỉ số này cao hơn trên Nhóm béo phì độ I (1,60 ± 0,59), và cao nhất trên Nhóm béo phì độ II (1,85 ± 0,71). Sự khác biệt có ý nghĩa thống kê được tìm thấy giữa các nhóm (p<0,05). Có sự gia tăng có ý nghĩa thống kê số răng bị chảy máu nướu khi thăm dò từ 5,47 ± 5,31 trên Nhóm bình thường/thừa cân, đến 6,53 ± 5,93 trên Nhóm béo phì độ I, đến 8,39 ± 6,57 trên Nhóm béo phì độ II (p < 0,05). Độ sâu túi nha chu tăng có ý nghĩa thống kê từ 1,42 ± 0,34 trên Nhóm bình thường/thừa cân đến 1,62 ± 0,37 trên Nhóm béo phì độ I, đến 1,77 ± 0,45 trên Nhóm béo phì độ II (p < 0,001). Độ mất bám dính lâm sàng cũng tăng có ý nghĩa thống kê từ 1,47 ± 0,35 trên Nhóm bình thường/thừa cân đến 1,69 ± 0,42 trên Nhóm béo phì độ I, đến 1,90 ± 0,54 trên Nhóm béo phì độ II (p < 0,001). Biểu đồ 2 cho thấy tỷ lệ bệnh nhân viêm nha chu. Có 34,7% bệnh nhân bị viêm nha chu trong toàn bộ mẫu nghiên cứu. Tỷ lệ viêm nha chu tăng lên có ý nghĩa thống kê, theo mức độ béo phì. Cụ thể, Nhóm béo phì độ II, có tỷ lệ viêm nha chu cao nhất là 42,7%, trong khi tỷ lệ này thấp hơn trên Nhóm béo phì độ I là 35,9%, và thấp nhất ở Nhóm bình thường/thừa cân là 27,4% (p<0,001). Tính chung cho cả bệnh nhân thuộc nhóm béo phì độ I và béo phì độ II, tỷ lệ viêm nha chu là 38,0% trong số bệnh nhân bị béo phì. Bảng 2: Tình trạng răng và nha chu Biến số Bình thường/ Thừa cân p (1) Béo phì độ I p (2) Béo phì độ II p (3) Tổng số n = 212 n = 326 n = 143 n = 681 Tình trạng răng Số răng sâu (D) 4,06 ± 2,94 <0,001 5,60 ± 2,87 0,012 6,34 ± 3,15 <0,001 5,27 ± 3,07 Số răng trám (F) 3,37 ± 2,13 0,01 3,82 ± 1,84 0,11 4,13 ± 2,00 0,001 3,75 ± 1,98 Số răng mất (M) 2,15 ± 2,84 0,53 2,31 ± 3,10 <0,001 4,22 ± 4,40 <0,001 2,26 ± 3,44 Số răng sâu, mất, trám (DMFT) 9,58 ± 5,16 <0,001 11,73 ± 4,97 <0,001 14,69 ± 6,70 <0,001 11,68 ± 5,72 Tình trạng nha chu PlI 1,50 ± 0,52 0,032 1,60 ± 0,59 <0,001 1,85 ± 0,71 <0,001 1,62 ± 0,61 BOP 5,47 ± 5,31 0,039 6,53 ± 5,93 0,004 8,39 ± 6,57 <0,001 6,59 ± 6,09 GI 1,04 ± 0,30 <0,001 1,20 ± 0,19 0,003 1,25 ± 0,20 <0,001 1,16 ± 0,25 PD (mm) 1,42 ± 0,34 <0,001 1,62 ± 0,37 0,001 1,77 ± 0,45 <0,001 1,59 ± 0,40 Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Phụ bản của Số 2 * 2015 Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Răng Hàm Mặt 299 Biến số Bình thường/ Thừa cân p (1) Béo phì độ I p (2) Béo phì độ II p (3) Tổng số n = 212 n = 326 n = 143 n = 681 CAL (mm) 1,47 ± 0,35 <0,001 1,69 ± 0,42 <0,001 1,90 ± 0,54 <0,001 1,67 ± 0,45 Số liệu trình bày: TB ± ĐLC(1,2,3): Kiểm định T, Có ý nghĩa thống kê khi p<0,05;(1): Giữa Nhóm bình thường/thừa cân và Nhóm béo phì độ I;(2): Giữa Nhóm béo phì độ I và Nhóm béo phì độ II;(3): Giữa Nhóm béo phì độ II và Nhóm bình thường/thừa cân Biểu đồ 1: Tỷ lệ phân bố số răng sâu Biểu đồ 2: Tỷ lệ viêm nha chu BÀN LUẬN Viện Y Dược học Dân tộc TP. Hồ Chí Minh tiếp nhận chủ yếu bệnh nhân sống tại TP. Hồ Chí Minh, ngoài ra còn có một số bệnh nhân đến từ các tỉnh thành vùng Tây Nam Bộ, Đông Nam Bộ. Người đến khám thuộc nhiều thành phần, nhiều lứa tuổi, từ trẻ em 5-6 tuổi cho đến người ở lứa tuổi 60-80 tuổi, nhưng tập trung nhiều nhất là độ tuổi từ 20-45. Nghiên cứu này, chúng tôi thực hiện trên những đối tượng là người Việt trưởng thành và tất cả thuộc dân tộc Kinh. Số lượng bệnh nhân nữ rất nhiều hơn so với nam, phù hợp với thực tế là hơn 80% bệnh nhân đến khám, tư vấn và điều trị béo phì là nữ tại Viện Y Dược học Dân tộc TP. Hồ Chí Minh. Béo phì có thể xảy ra ở cả nam và nữ, tuy nhiên béo phì ở nữ xảy ra nhiều hơn ở nam, ngoại trừ ở các nước phát triển tỉ lệ này có thể xấp xỉ bằng nhau. Theo WHO, tại các khu vực Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Phụ bản của Số 2 * 2015 Chuyên Đề Răng Hàm Mặt 300 châu Phi, Đông Địa Trung Hải, Đông Nam Á, tỉ lệ béo phì ở nữ gấp đôi tỉ lệ béo phì ở nam(24). Saito và cs (2001) cho rằng tỉ lệ béo phì ở người nữ gấp 3,9 lần so với nam(17). Trong nghiên cứu này, chúng tôi nhận thấy tỷ lệ béo phì ở người nữ và nam tương đương nhau (68,5%). Sự khác biệt về kết quả nghiên cứu có thể là do sự chênh lệch quá lớn về tỷ lệ nam, nữ trong nghiên cứu này. Trong tương lai cần có thêm những nghiên cứu với tỉ lệ giới tính đồng đều hơn để xác định tỷ lệ béo phì trên nam và nữ. Trong nghiên cứu này, chúng tôi nhận thấy người có trình độ học vấn cao dễ bị béo phì, cụ thể là có hơn 26,0% người có trình độ từ đại học trở lên bị béo phì độ II, trong khi tỷ lệ này chỉ có 16,0% ở nhóm người có trình độ dưới đại học. Kết quả này trái ngược với kết quả trong các nghiên cứu trên thế giới về liên quan giữa trình độ học vấn và tình trạng béo phì như nghiên cứu về béo phì tại các nước thuộc Tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế (OECD), cho thấy những người có trình độ học vấn thấp dễ bị béo phì hơn(5). Sự khác biệt này có thể là do tình trạng béo phì tại Việt Nam đang ở giai đoạn đầu phát triển, bắt đầu tại các đô thị lớn, xuất hiện nhiều ở nhóm đối tượng có điều kiện kinh tế tốt, chế độ ăn uống dư thừa năng lượng và lối sống ít vận động. Những người có bậc học vấn cao thường làm những công việc ít liên quan đến lao động chân tay, ít sử dụng sức lực nhiều, thay vào đó là những công việc tĩnh, ngồi nhiều, ít vận động, do đó dễ bị tăng cân nặng hơn. Trong một tổng quan được thực hiện bởi Dinsa và cs (2012)(6) tại các nước đang phát triển, một nửa số nghiên cứu trong tổng quan này cho thấy người có trình độ học vấn cao dễ bị béo phì hơn. Cho đến hiện tại, nghiên cứu về mối liên quan giữa tình trạng sâu răng và béo phì trên đối tượng người trưởng thành trên thế giới không nhiều. Các nghiên cứu về sâu răng thường tập trung vào đối tượng béo phì là trẻ em và phần lớn cho thấy không có mối liên quan giữa 2 tình trạng này. Shailee F và cs (2013)(21) cho thấy có mối tương quan nghịch, giữa BMI và chỉ số DMFT trên đối tượng học sinh 12 hay 15 tuổi. Một số ít nghiên cứu như nghiên cứu của Larsson B và cs (1997)(11) thực hiện trên đối tượng trẻ 15 tuổi lại cho thấy có mối quan hệ dương tính giữa BMI và DMFT. Chúng tôi thực hiện nghiên cứu này trên người Việt trưởng thành và nhận thấy số trung bình răng sâu, số trung bình răng sâu, mất, trám tăng lên có ý nghĩa thống kê theo mức độ trầm trọng của tình trạng béo phì; và người có mức độ béo phì cao hơn hơn thì có số lượng răng sâu nhiều hơn. Điều này cho thấy có mối liên quan dương tính giữa mức độ trầm trọng của sâu răng và mức độ trầm trọng của béo phì. Tuy nhiên trong nghiên cứu này, chúng tôi chỉ xét mối quan hệ 2 biến, chưa xét đến sự tương tác với các biến số khác cũng như chưa kiểm soát đến một số yếu tố khác như chế độ ăn, yếu tố được xem ảnh hưởng lên cả tình trạng sâu răng và béo phì của đối tượng nghiên cứu. Tương tự như tình trạng sâu răng, chúng tôi nhận thấy tỷ lệ mắc bệnh viêm nha chu và độ trầm trọng của bệnh nha chu tăng lên theo độ trầm trọng của béo phì, thể hiện qua tỷ lệ viêm nha chu, và chỉ số trung bình PlI, GI, PD và CAL tăng lên có ý nghĩa thống kê từ nhóm bệnh nhân có tình trạng cân nặng bình thường/tăng cân, đến nhóm bệnh nhân béo phì độ I và đến nhóm bệnh nhân béo phì độ II. Nghiên cứu của chúng tôi cho thấy có một tỉ lệ cao hơn người béo phì bị viêm nha chu so với người có cân nặng bình thường hay thừa cân. Kết quả này tương tự với nhiều nghiên cứu về béo phì và bệnh viêm nha chu ở các quốc gia như Nhật Bản, Mỹ, Brazil, Jordan(2,3,9,17,20). Tỉ lệ viêm nha chu ở nhóm béo phì trong nghiên cứu này là 38,0%, thấp hơn so với một số nghiên cứu về béo phì khác(2,3). Có thể sự không đồng bộ trong việc sử dụng hệ thống phân loại bệnh nha chu, cỡ mẫu và đặc điểm mẫu nghiên cứu trong các nghiên cứu khác nhau đã đưa đến tỉ lệ mắc bệnh khác nhau. Trong nghiên cứu này, chỉ số GI, BOP, PD và CAL ở nhóm béo phì cao hơn có ý nghĩa khi so sánh với nhóm không béo phì. Kết quả này Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Phụ bản của Số 2 * 2015 Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Răng Hàm Mặt 301 tương đồng với nhiều nghiên cứu khác trên thế giới như của Andre LP và cs (2012)(3), Khader và cs (2009)(9), Kongstad và cs (2009)(10), Saito và cs (2000)(20). Torrungruang và cs (2005)(22), thì lại cho rằng không có mối liên quan giữa béo phì và viêm nha chu khi thực hiện trên một dân số nghiên cứu người Thái lan. Từ kết quả tỷ lệ mắc bệnh viêm nha chu và mức độ trầm trọng bệnh nha chu tăng có ý nghĩa thống kê theo mức độ trầm trọng của béo phì, nghiên cứu của chúng tôi gợi ý béo phì có liên quan đến tình trạng viêm và phá hủy của mô nha chu. Viêm nha chu là một bệnh nhiễm trùng mãn tính. Một số cá nhân có thể nhạy cảm hơn, bị viêm và nhiễm trùng nha chu với mức độ nặng hơn(4). Béo phì từng được cho là yếu tố nguy cơ cao nhất của nhiễm trùng nha chu chỉ đứng sau hút thuốc lá(13). Cho đến hiện tại, mặc dù bản chất sinh học trong mối liên quan giữa béo phì và viêm nha chu chưa được làm sáng tỏ nhưng có thể nó liên quan đến khả năng miễn dịch và các phản ứng viêm ở người béo phì. Tình trạng béo phì làm thay đổi hệ thống miễn dịch của kí chủ, làm tăng tính nhạy cảm với bệnh và khiến người béo phì dễ có nguy cơ bị viêm nha chu. Các cytokine gây viêm như TNF-α, IL-6 được mô mỡ tiết ra có thể xuất hiện và tăng trong dịch nướu của người bị béo phì, làm tăng các phản ứng viêm phá hủy mô nha chu. Ngoài ra chất ức chế hoạt hóa plasminogen PAI-1, chất được mô mỡ nội tạng chế tiết mạnh, được cho là đóng vai trò quan trọng trong quá trình viêm nướu và làm giảm lượng máu đến mô nha chu của người béo phì. Bên cạnh đó, viêm nha chu cũng có thể gây những ảnh hưởng tiêu cực đến tình trạng sức khỏe toàn thân của người béo phì. Đáp ứng của vật chủ với nhiễm trùng nha chu là có thể gây ra viêm mãn tính cấp thấp và là nguồn tạo ra các cytokine tiền viêm(18). Nghiên cứu này cho thấy có mối liên quan có ý nghĩa giữa tình trạng sâu răng, tỷ lệ và mức độ trầm trọng của viêm nha chu với mức độ trầm trọng của béo phì. Hạn chế của nghiên cứu này là chúng tôi chưa khảo sát các yếu tố về chế độ ăn, yếu tố được cho là có liên quan đến cả bệnh sâu răng và béo phì; cũng như chưa khảo sát các bệnh lý toàn thân khác như đái tháo đường tuýp 2, tim mạch, tăng huyết áp,, những bệnh cũng có thể ảnh hưởng đến tình trạng nha chu của đối tượng nghiên cứu. Trong tương lai cần có thêm những nghiên cứu sâu hơn để khảo sát các mối liên quan này. Lời cảm ơn: Tác giả chân thành cảm ơn Ban Giám Đốc, ThS. Tạ Thị Phước Hòa, Trưởng Phòng Chỉ đạo tuyến, Nghiên cứu khoa học, Hợp tác quốc tế và ThS. Trần Thị Hương Lan, Trưởng Phòng khám Thừa cân Béo phì, Viện Y Dược học Dân tộc TP. Hồ Chí Minh, đã hỗ trợ và tạo mọi điều kiện thuận lợi để chúng tôi thực hiện nghiên cứu này. Cảm ơn BS. Nguyễn Thị Xuân Ngọc đã giúp chúng tôi trong việc khám và thu thập số liệu. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Chiến lược quốc gia về dinh dưỡng giai đoạn 2001 -2010 (2007), Thừa cân béo phì và một số yếu tố liên quan ở người trưởng thành Việt Nam 25 - 64 tuổi, Nhà xuất bản Y học, Hà Nội, 2007. 2. Al-Zahrani MS, Bissada NF, Borawskit EA (2003), “Obesity and periodontal disease in young, middle-aged, and older adults." J Periodontol, 74, pp.610-615. 3. André LP, Fernando OC (2012), “Association between severity of body mass index and periodontal condition in women", Clin Oral Invest, (16), pp.727-734. 4. Beck JD, Williams R, Gibbs P, Garcia R (1998), “Periodontitis: a risk for coronary heart disease?", Ann Periodontol, 3, pp.127- 141. 5. Devaux M, Jody Church, Michele Cecchini (2010), “Exploring the Relationship Between Education and Obesity", OECD Journal, pp.121-159. 6. Dinsa GD, Goryakin Y, Fumagalli E, Suhrcke M (2012), “Obesity and socioeconomic status in developing countries: a systematic review", Obesity Reviews, 13(11), pp.1067-1079. 7. Genco RJ, Alex Ho, Fusanori Nishimura (2005), “A proposed model linking inflammation to obesity, diabetes and periodontal infections", J Periodontol, 76, pp.2075-2084. 8. Judy CC, Chun Y (2011), “Dentistry and Obesity: A Review and Current Status in U.S. Predoctoral Dental Education", Journal of Dental Education, 76(9). 9. Khader YS, Haroun TF, Alomari M (2009), “The association between periodontal disease and obesity among adults in Jordan", J Clin Periodontol, 36, pp.18-24. 10. Kongstad J, Morten Grønbæk (2009), “The Relationship Between Body Mass Index and Periodontitis in the Copenhagen City Heart Study", J Periodontol, 80(8), pp.1246- 1253. 11. Larsson B, Johansson I, Weinehell L, Hallmans G, Ericson T (1997) “Cardiovascular disease risk factors and dental caries in adolescents : effect of a preventive program in Northern Sweden ", Acta Paediatr, 86, pp. 63-71 12. Mokdad AH, Bowman BA, Dietz WH, Vinicor F (2003), “Prevalence of obesity, diabetes, and obesity-related health risk factors, 2001", J Am Med Assoc, 289, pp.76-79. Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Phụ bản của Số 2 * 2015 Chuyên Đề Răng Hàm Mặt 302 13. Nishida N, Hayashi N, Nagata H, Takeshita T, Nakayama K (2005), “Determination of smoking and obesity as periodontitis risks using the classification and regression tree method", J Periodontol, 76, pp.923-928. 14. Perlstein MI, Bissada NF (1977), “Influence of obesity and hypertension on the severity of periodontitis in rats", Oral Surg Oral Med Oral Pathol, 43(5), pp.707-726. 15. Pischon N, Bernimoulin J (2007), “Obesity, Inflammation, and Periodontal Disease", J Dent Res, 86(5), pp.400-409. 16. Ramachandran A, Snehalatha C (2010), “Rising burden of obesity in Asia", J Obesity, 2010, pp.191-198 17. Saito T, Shimazaki Y, Kiyohara Y, (2005), “Relationship between obesity, glucose tolerance, & periodontal disease in Japanese women: the Hisayama study", J Periodontal Res, 40, pp.346-353. 18. Saito T, Sakamoto M (1998), “Obesity and periodontitis", N Engl J Med, 339, pp.482-483. 19. Saito T, Shimazaki Y (2000), “Metabolic disorders related to obesity and periodontal disease", Periodontology, 43, pp.254- 256. 20. Saito T, Koga T, Tsuzuki M, Ohshima A (2001), “Relationship between Upper Body Obesity and Periodontitis", J Dent Res, 80(7), pp.1631-1637. 21. Shailee F, Sogi GM, Sharma KR (2013), “Association between dental caries and body mass index among 12 and 15 years school children in Shimla, Himachal Pradesh", J. Adv Oral Research, 4(1), pp.7-13 22. Torrungruang K, Tamsailom S, Rojanasomsith K (2005), “Risk Indicators of Periodontal Disease in Older Thai Adults", J Periodontol, 76(4), pp.558-565. 23. World Health Organization, The Asia-Pacific perspective: Redefining obesity and its treatment (2000), page 17 24. World Health Organization. At: accessed: July 13, 2014. 25. World Health Organization. At: accessed: July 13, 2014. 26. Ylostalo P, Reunanen A, Knuuttila M (2003), “Association between body weight and periodontal infection”, J Clin Periodontol, 35, pp.297-304. Ngày nhận bài báo: 06/02/2015 Ngày phản biện nhận xét bài báo: 24/02/2015 Người phản biện: TS Ngô Đồng Khanh Ngày bài báo được đăng: 10/04/2015

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfdanh_gia_bien_do_van_dong_ham_duoi_sau_phau_thuat_dieu_tri_g.pdf
Tài liệu liên quan