Nghiên cứu của chúng tôi đã khẳng định
những quan sát đã được báo cáo ở các nghiên
cứu trước đây. Với liều dùng thích hợp, DFX có
thể kiểm soát lượng sắt trên bệnh nhân
thalassemia phụ thuộc truyền máu có quá tải sắt,
thể hiện qua giảm SF và LIC. Đối với sắt ở tim,
chúng tôi chưa đủ dữ liệu để khẳng định DFX có
khả năng loại bỏ sắt ở tim mà chỉ có thể gợi ý
rằng DFX có thể loại bỏ sắt ở tim và điều này cần
được khẳng định qua các nghiên cứu với cỡ mẫu
lớn hơn và thời gian theo dõi lâu hơn. Hiệu quả
của DFX tùy thuộc vào lượng sắt vào do truyền
máu và liều dùng thích hợp. DFX liều > 25
mg/kg/ngày có thể làm giảm gánh nặng sắt,
trong khi liều ≤ 25 mg/kg/ngày chỉ giúp duy trì
sự ổn định gánh nặng sắt. Đặc biệt đối với các
bệnh nhân có gánh nặng sắt cao, để đạt mục tiêu
trị liệu là giảm sắt thì nên khởi động liều cao
DFX 25- 30 mg/kg/ngày ngay từ đầu.
DFX nhìn chung được dung nạp tốt mà
không có biến cố bất lợi nào mới so với các
nghiên cứu đã được công bố. Các biến cố bất lợi
phổ biến thường gặp là tăng creatinin và tăng
men gan thoáng qua, đau bụng có hồi phục khi
giảm liều hay tạm ngưng thuốc.
Bác sĩ điều trị cần phải ghi nhận các biến cố
bất lợi của bệnh nhân mỗi khi bệnh nhân đến tái
khám cũng như xét nghiệm men gan ALT, AST,
creatinin định kỳ hàng tháng, SF mỗi 3- 6 tháng
để có căn cứ chỉnh liều DFX kịp thời nhằm đạt
được hiệu quả điều trị tối ưu với tác dụng phụ
tối thiểu.
8 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 08/02/2022 | Lượt xem: 58 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đánh giá bước đầu hiệu quả điều trị thải sắt bằng Deferasirox trên bệnh nhân Thalassemia phụ thuộc truyền máu tại bệnh viện truyền máu - huyết học, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 19 * Số 4 * 2015
Chuyên Đề Truyền Máu – Huyết Học 96
ĐÁNH GIÁ BƯỚC ĐẦU HIỆU QUẢ ĐIỀU TRỊ THẢI SẮT
BẰNG DEFERASIROX TRÊN BỆNH NHÂN THALASSEMIA
PHỤ THUỘC TRUYỀN MÁU TẠI BỆNH VIỆN TRUYỀN MÁU- HUYẾT HỌC
Nguyễn Thị Hồng Hoa*, Võ Thị Kim Hoa**
TÓM TẮT
Mục tiêu: Đánh giá hiệu quả điều trị thải sắt bằng Deferasirox trên bệnh nhân thalassemia phụ thuộc truyền máu
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Thử nghiệm lâm sàng không nhóm chứng, tiền cứu trên bệnh
nhân thalassemia phụ thuộc truyền máu có quá tải sắt điều trị tại bệnh viện Truyền máu - Huyết học từ tháng
8/2013 đến tháng 12/2014
Kết quả: Có 29/33 bệnh nhân hoàn tất 1 năm điều trị. Mức LIC lúc đầu là 21,5 ± 8,6 mg/gdw và ferritin
huyết thanh là 2926 ± 1610 ng/ml. Sau 1 năm điều trị Deferasirox, tỷ lệ thành công là 89,7%; LIC trung bình
giảm -10,2 ± 6,3 mg/gdw (p < 0,0001) và ferritin huyết thanh trung bình giảm -485 ± 1102 ng/ml (p = 0,02). Hầu
hết (93,7%) đều tăng liều, liều DFX khi kết thúc nghiên cứu (31,7 ± 5 mg/kg/ngày) cao hơn so với khi bắt đầu
nghiên cứu (20,9 ± 1,9 mg/kg/ngày). Có 51,5% bệnh nhân ghi nhận có biến cố bất lợi. Các biến cố bất lợi phổ biến
thường gặp nhất là tăng creatinin và tăng men gan thoáng qua, đau bụng.
Kết luận: Deferasirox hiệu quả trong việc thải sắt trên bệnh nhân thalassemia phụ thuộc truyền máu có quá
tải sắt mức độ nặng, thể hiện qua giảm ferritin huyết thanh và LIC. Deferasirox nhìn chung được dung nạp tốt
mà không có biến cố bất lợi nào mới so với các nghiên cứu đã được công bố.
Từ khóa: thải sắt, Deferasirox, thalassemia phụ thuộc truyền máu, quá tải sắt
ABSTRACT
EFFICACY OF DEFERASIROX ON TRANSFUSION DEPENDENT THALASSEMIA AT BLOOD
TRANSFUSION AND HEMATOLOGY HOSPITAL
Nguyen Thi Hong Hoa, Vo Thi Kim Hoa
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Supplement of Vol. 19 - No 4 - 2015: 96 - 103
Objective: Evaluate the efficacy of Deferasirox on transfusion dependent thalassemia patients
Methods: The prospective clinical 1-year study on transfusion dependent thalassemia patients at Blood
transfusion and hematology from Aug 2013 to Dec 2014.
Results: 29/33 enrolled patients completed 1- year treatment. Mean baseline LIC was 21.5 ± 8.6 mg/gdw and
mean serum ferritin was 2926 ± 1610 ng/ml. After 1 yr’s Deferasirox treatment, the treatment success rate was
89.7%; a mean reduction in LIC of -10.2 ± 6.3 mg/gdw (p < 0.0001) and a mean reduction in serum ferritin of -
485 ± 1102 ng/ml (p = 0.02). Most patients (93.7%) underwent dose increases, the dose at the end (31.7 ± 5
mg/kg/d) was higher than the dose at baseline (20.9 ± 1.9 mg/kg/d). Adverse events were reported by 51.5%
patients overall. The most common drug- related adverse events were temporarily increased serum creatinine and
alanine aminotransferase/aspartate aminotransferase, abdominal pain.
* Bệnh viện Truyền máu – Huyết học TP. Hồ Chí Minh
** Trường Đại học y khoa Phạm Ngọc Thạch
Tác giả liên lạc: BS. Nguyễn Thị Hồng Hoa ĐT: 0903187501 Email: bshonghoa@yahoo.com.vn
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 19 * Số 4 * 2015 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Truyền Máu – Huyết Học 97
Conclusion: Deferasirox is effective in the removal of liver iron in the heavily iron- overload patients with
transfusion dependent thalassemia, by reduction in LIC and serum ferritin. Deferasirox was well tolerated with no
new adverse events in the previous studies.
Keywords: Iron chelation, Deferasirox, transfusion dependent thalassemia, iron overload
ĐẶT VẤN ĐỀ
Thalassemia là bệnh lý thiếu máu tán huyết
di truyền phổ biến nhất trên thế giới. Để kéo dài
thời gian sống, bệnh nhân cần phải được truyền
máu định kỳ. Sắt dư thừa do máu truyền vào sẽ
lắng đọng tại các cơ quan như tim, gan, tuyến
nội tiếtlàm suy yếu các cơ quan này và là
nguyên nhân chính có thể làm bệnh nhân
thalassemia tử vong, nhất là khi sắt lắng đọng ở
tim(1). Deferasirox (DFX) là thuốc thải sắt dạng
uống mới nhất được dùng khoảng 10 năm gần
đây. Thuốc được khẳng định là hiệu quả trong
thải sắt quá tải ở tim và gan(13).
DFX được phép sử dụng tại Việt Nam từ
giữa năm 2013 và đến nay chưa có nghiên cứu
nào về DFX được công bố. Tại Bệnh viện
Truyền máu- Huyết học, DFX được dùng cho
bệnh nhân thalassemia quá tải sắt đầu tiên vào
tháng 5/2013. Nghiên cứu này được tiến hành
nhằm đánh giá hiệu quả thải sắt cũng như độ
an toàn của DFX trên bệnh nhân thalassemia
phụ thuộc truyền máu.
ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Đối tượng nghiên cứu
Bệnh nhân thalassemia phụ thuộc truyền
máu có quá tải sắt điều trị tại bệnh viện Truyền
máu - Huyết học từ tháng 8/2013 đến tháng
12/2014
Phương pháp nghiên cứu
- Tiêu chuẩn nhận vào: Tất cả bệnh nhân
thalassemia phụ thuộc truyền máu ≥ 2 tuổi được
truyền máu tối thiểu 10 lần, có ferritin huyết
thanh (SF) ≥ 1000 ng/ml, phân suất tống máu thất
trái (LVEF) ≥ 56% và sắt ở gan (LIC) > 2 mg/gdw.
Bệnh nhân được loại khỏi nghiên cứu nếu có
ALT hay AST ≥ 3 lần ngưỡng giới hạn trên bình
thường; Creatinin huyết thanh > ngưỡng giới
hạn trên bình thường; Test HIV dương tính; mắc
bệnh viêm gan B hay C tiến triển đang điều trị
đặc hiệu, bệnh cơ tim, bệnh tâm thần, bệnh nhân
là nữ có thai hay đang cho con bú hay bệnh nhân
đang sử dụng những thuốc nghiên cứu khác
- Thiết kế nghiên cứu: Đây là thử nghiệm
lâm sàng không nhóm chứng, tiền cứu.
Tất cả bệnh nhân đủ tiêu chuẩn vào nghiên
cứu sẽ được ngưng thuốc thải sắt khác trước đó
1 ngày trước khi dùng liều DFX đầu tiên. Liều
DFX khởi đầu trung bình là 20- 25 mg/kg/ngày;
tăng liều nếu SF tăng hay SF ổn định > 1000
ng/ml; giảm liều nếu SF giảm < 1000 ng/ml hay
có tác dụng phụ như creatinin tăng > giới hạn
trên, tăng men gan ≥ 3 lần giá trị bình thường,
phát ban da. Mức tăng giảm liều là 5- 10
mg/kg/ngày và liều tối đa là 40 mg/kg/ngày. Nếu
SF < 500 ng/ml trong 2 lần xét nghiệm liên tiếp
thì sẽ ngưng DFX và dùng lại khi SF > 1000
ng/ml. Nếu men gan vẫn có khuynh hướng tăng
> 5 lần giá trị bình thường dù đã can thiệp bằng
thuốc ổn định men gan thì tạm ngưng DFX. Mục
tiêu truyền máu là giữ Hb trước truyền ổn định
ở mức 8- 9 g/dl đối với bệnh nhân ≤ 15 tuổi và 7-
8 g/dl đối với bệnh nhân > 15 tuổi.
Đánh giá hiệu quả DFX dựa vào LIC. Thải
sắt thành công nếu LIC giảm ≥ 3 đối với các
trường hợp LIC lúc đầu > 10 mg/gdw, LIC từ 2- 7
nếu LIC lúc đầu từ 7- 10 mg/gdw và LIC không
tăng thêm nếu LIC lúc đầu từ 2- 7 mg/gdw(2,4,10,11);
SF được đo lúc đầu và mỗi 3 tháng, là biến số hỗ
trợ thêm cho việc đánh giá hiệu quả; T2* và
LVEF góp phần đánh giá hiệu quả của DFX trên
sắt ở tim, LIC được đo bằng MRI tại bệnh viện
Chợ Rẫy, LVEF được đo tại bệnh viện Truyền
máu - Huyết học.
Độ an toàn được đánh giá mỗi tháng bằng
cách ghi nhận các biến cố bất lợi và làm các xét
nghiệm thường quy, gồm đếm số lượng tế bào
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 19 * Số 4 * 2015
Chuyên Đề Truyền Máu – Huyết Học 98
máu, ALT, AST, creatinin huyết thanh. Biến cố
bất lợi được ghi nhận trên tất cả bệnh nhân có
dùng tối thiểu 1 liều DFX.
Các số liệu được xử lý bằng phần mềm
STATA 10.0, với độ tin cậy 95%, ngưỡng p = 0,05
được chọn có ý nghĩa thống kê. Biến số định tính
được trình bày dưới dạng số tuyệt đối và tỷ lệ %.
Biến số định lượng được trình bày dưới dạng số
trung bình ± độ lệch chuẩn (mean ± SD) (nếu là
phân phối bình thường) hay số trung vị và
percentile 25% và 75% (median, 25%,75%) (nếu
là phân phối không bình thường), giá trị nhỏ
nhất (min) và giá trị lớn nhất (max). Sự khác biệt
của biến số được phân tích bằng phép kiểm t test
nếu là biến số định lượng, phép kiểm χ2 test hay
Fisher test nếu là biến số định tính.
KẾT QUẢ
Đặc điểm bệnh nhân
Tổng cộng có 33 bệnh nhân thỏa tiêu chuẩn
vào nghiên cứu. Sau 1 năm, có 29 bệnh nhân
hoàn tất nghiên cứu, không có ca nào tử vong.
Trong 33 bệnh nhân, có 23 bệnh nhân trẻ em ≤ 15
tuổi và 6 bệnh nhân người lớn > 15 tuổi với các
đặc điểm như trong Bảng 1
Bảng 1: Đặc điểm bệnh nhân
Biến số
Tuổi trung bình (nhỏ nhất- lớn nhất)
(năm)
10 (6 - 38)
Nam : Nữ (n) 14 : 15
Thalassemia Beta : Beta/HbE :
Alpha (n,%)
11(37,9) : 14(48,3 )
: 4(13,8)
Tiền căn viêm gan B (n,%) 0
Tiền căn viêm gan C (n,%) 2 (6,9)
Cắt lách (n,%) 6 (20,7)
DFO (n,%) 1 (3,5)
DFP (n,%) 10 (34,5)
DFO + DFP (n,%) 18 (62)
Thể tích máu đã truyền trong 1 năm
nghiên cứu ± SD (ml/kg)
133 ± 34,5
Lượng sắt do truyền máu trong 1
năm nghiên cứu ± SD (mg/kg/ngày)
0,23 ± 0,06
Hemoglobin trước truyền ± SD (g/dl) 8 ± 0,4
SD: standard deviation (độ lệch chuẩn)
Tình trạng quá tải sắt
Tất cả bệnh nhân đều có quá tải sắt ở gan
(LIC) mức độ từ vừa đến nặng với giá trị tuyệt
đối LIC là 21,5 ± 8,6 mg/gdw. Nhóm trẻ em có
LIC thấp hơn nhóm người lớn (19,5 ± 8,1 so với
28,7 ± 6,3 mg/gdw) (p = 0,01). Nồng độ trung
bình ferritin huyết thanh (SF) là 2926 ± 1610
ng/ml. Giá trị trung bình T2* lúc đầu của mẫu
nghiên cứu là 31,1 ± 10,8 ms; có 17,3% bệnh nhân
có quá tải sắt ở tim (T2* ≤ 20 ms). Tất cả các
trường hợp đều có phân suất tống máu thất trái
(LVEF) bình thường 67,5 ± 2,7%. Phân tích giá trị
SF, T2* và LVEF theo nhóm trẻ em và người lớn
đều không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê
(Bảng 2).
Bảng 2: Tình trạng quá tải sắt lúc đầu
Biến số Trẻ em Người lớn Tất cả
LIC 2- < 7 mg/gdw
(n,%)
0
LIC 7- 15 mg/gdw
(n,%)
7 (24,1%)
LIC > 15 mg/gdw
(n,%)
22 (75,9%)
Giá trị trung bình LIC
± SD (mg/gdw)
19,5 ±
8,1
28,7 ± 6,3 21,5 ± 8,6
Nồng độ trung bình
SF ± SD (ng/ml)
2685 ±
1507
3851 ±
1793
2926 ± 1610
Giá trị trung bình T2*
± SD (ms)
32,5 ±
9,3
25,6 ± 15,3 31,1 ± 10,8
Giá trị trung bình
LVEF ± SD (%)
67,7 ±
2,7
66,6 ± 2,9 67,5 ± 2,7
Liều Deferasirox thực dùng
Liều DFX trung bình dùng trong 1 năm
nghiên cứu là 26,6 ± 3,1 mg/kg/ngày, liều khi kết
thúc nghiên cứu cao hơn so với khi bắt đầu
nghiên cứu (31,7 ± 5 so với 20,9 ± 1,9
mg/kg/ngày). Hầu hết các trường hợp (93,7%)
đều tăng liều từ tháng thứ ba; có 24,1% giảm liều
DFX do tác dụng phụ.
Hiệu quả của Deferasirox trên LIC
Tỷ lệ bệnh nhân điều trị thành công là 89,7%.
Có 10,3% bệnh nhân thất bại (3/29), trong đó có 2
bệnh nhân có LIC tăng thêm và 1 bệnh nhân có
LIC lúc kết thúc là 9,6 so với lúc đầu là 9,8
mg/gdw. Tỷ lệ thành công ở nhóm trẻ em và
người lớn lần lượt là 91,3% và 83,3%.
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 19 * Số 4 * 2015 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Truyền Máu – Huyết Học 99
Sau 1 năm điều trị DFX, nồng độ LIC giảm ở
tất cả bệnh nhân, ở nhóm quá tải sắt gan mức độ
vừa và nặng lần lượt là -10,2 ± 6,3 mg/gdw (p <
0,0001); -5,4 ± 4 mg/gdw (p = 0,01); -11,6 ± 6,2
mg/gdw (p < 0,0001) (Bảng 3)
Bảng 3: Thay đổi LIC sau 1 năm điều trị với
Deferasirox
LIC
(mg/gdw)
Lúc đầu Kết thúc ∆ LIC p
Tất cả 21,5 ± 8,5 11,3 ± 6,6 -10,2 ± 6,3 < 0,0001
LIC 7-15 11,1 ± 2,2 5,7 ± 2,3 -5,4 ± 4 < 0,0001
LIC > 15 24,7 ± 7,1 13,1 ± 6,6 -11,6 ± 6,2 0,01
Mức giảm LIC ở nhóm LIC mức độ nặng
nhiều hơn nhóm mức độ vừa (-11,6 ± 6,2 so với -
5,4 ± 4 mg/gdw (p = 0,02), mức giảm LIC ở nhóm
DFX ≤ 25 thấp hơn nhóm DFX > 25 mg/kg/ngày
(-5,6 ± 5,4 so với -11,3 ± 6,1mg/gdw (p= 0,04).
Tỷ lệ bệnh nhân có quá tải sắt ở gan mức độ
nặng (> 15 mg/gdw) lúc đầu là 75,9% đã giảm
còn 31% lúc kết thúc nghiên cứu. Trước điều trị
không có trường hợp nào quá tải sắt ở gan mức
độ nhẹ nhưng sau điều trị đã xuất hiện 37,9% có
mức độ nhẹ (p = 0,008).
Hiệu quả của Deferasirox trên Ferritin
huyết thanh (SF)
Sau 1 năm điều trị, mức giảm SF ở tất cả
bệnh nhân, nhóm LIC mức độ vừa, nhóm LIC
mức độ nặng lần lượt là -485 ± 1102 ng/ml (p =
0,02); -46,5 ± 1114 ng/ml (p = 0,9); -624 ± 1086
ng/ml (p = 0,01) (Bảng 4)
Bảng 4: Thay đổi SF sau 1 năm điều trị DFX
SF (ng/ml) Lúc đầu Kết thúc ∆ SF p
Tất cả 2926 ±
1610
2441 ±
1334
-485 ±
1102
0,02
LIC 7-15
mg/gdw
2364 ±
992
2317 ±
793
-46,5 ±
1114
0,9
LIC > 15
mg/gdw
3105 ±
1742
2480 ±
1478
-624 ±
1086
0,01
Mức giảm SF ở nhóm LIC mức độ nặng
nhiều hơn mức độ vừa (-624 ± 1086 so với -46,5 ±
1114 ng/ml) (p = 0,2). Mức giảm SF ở nhóm
người lớn nhiều hơn nhóm trẻ em (-1690 ± 1187
so với -170 ± 852 ng/ml) (p= 0,001).
Sau 1 năm điều trị, tỷ lệ bệnh nhân có SF >
2500 ng/ml lúc đầu là 44,8% đã giảm còn 31%, tỷ
lệ bệnh nhân có SF từ 1000-2500 ng/ml đã tăng từ
55,2% lên 69% (p = 0,04)
Ảnh hưởng của Deferasirox trên tim
Sau 1 năm điều trị, mức tăng T2* ở tất cả
bệnh nhân, nhóm LIC mức độ vừa, nhóm LIC
mức độ nặng lần lượt là 1,2 ± 5,9 ms; 2,6 ± 6,1 ms;
0,7 ± 5,9 ms. Tuy nhiên các sự khác biệt đều
không có ý nghĩa thống kê. Tỷ lệ bệnh nhân có
T2* ≤ 20 ms không đổi (17,3%)
So sánh giá trị phân suất tống máu thất trái
(LVEF) lúc đầu và sau 1 năm điều trị của mẫu
nghiên cứu thì không có sự khác biệt (67,5 so với
67,7 mg/gdw) cũng như theo mức độ LIC vừa và
nặng thì cũng không có sự khác biệt.
Biến cố bất lợi của Deferasirox
Biến cố bất lợi được ghi nhận trên bệnh nhân
có dùng ít nhất 1 liều DFX nên tổng số trường
hợp được phân tích trên biến số này sẽ là 33
trường hợp. Có 51,5% bệnh nhân ghi nhận có
biến cố bất lợi xảy ra trong thời gian dùng thuốc,
cụ thể được liệt kê trong bảng 5. Chúng tôi xét
tình trạng tăng creatinin huyết thanh theo liều
Deferasirox thì không thấy có sự khác biệt giữa 2
nhóm dùng DFX ≤ 25 và > 25 mg/kg/ngày
Bảng 5: Tỷ lệ các loại biến cố bất lợi
Biến cố bất lợi Số lượng bệnh nhân (n,
%)
Phát ban da 3 (9,1)
Buồn nôn 1 (3)
Nôn ói 1 (3)
Đau bụng 4 (12,1)
Tiêu chảy 1 (3) (liều 40 mg/kg/ngày)
Giảm tiểu cầu < 100K/μl 1 (3)
Tăng ALT/AST từ 3 - 5 lần
giới hạn trên
6 (20,6)
Tăng ALT/AST ≥ 5 lần giới
hạn trên
3 (10,3)
Tăng creatinin
*
9 (31)
* > 33% so với lúc đầu nhưng ≤ giới hạn trên, hai lần liên
tiếp
BÀN LUẬN
Nghiên cứu của chúng tôi là nghiên cứu đầu
tiên ở Việt Nam nhằm đánh giá hiệu quả và độ
an toàn của DFX ở bệnh nhân thalassemia. Mẫu
nghiên cứu có đặc điểm là quá tải sắt nặng dù
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 19 * Số 4 * 2015
Chuyên Đề Truyền Máu – Huyết Học 100
đang dùng thuốc thải sắt trước đó. Giá trị LIC
trung bình và SF trung bình lúc đầu đều cao hơn
ngưỡng được xem là có dự hậu không tốt. Giá trị
tuyệt đối trung bình LIC lúc đầu đo được là 21,5
± 8,6 mg/gdw. Không có trường hợp nào quá tải
sắt ở gan mức độ nhẹ. Khi phân tích tình trạng
quá tải sắt ở gan lúc đầu theo nhóm tuổi, chúng
tôi ghi nhận nhóm trẻ em có quá tải sắt ở gan ít
hơn nhóm người lớn (19,5 so với 28,7 mg/gdw)
(p = 0,01). Kết quả này tương tự với nghiên cứu
ESCALATOR(11) (17 so với 20 mg/gdw). Điều này
có thể lý giải là do bệnh nhân trẻ em được can
thiệp điều trị thải sắt sớm nên gánh nặng sắt
chưa kịp lắng đọng nhiều bằng bệnh nhân người
lớn. Nồng độ trung bình SF lúc đầu là 2926 ±
1610 ng/ml. Chúng tôi phân tích giá trị trung
bình SF theo nhóm trẻ em và người lớn thì
không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê giữa 2
nhóm này.
Các nghiên cứu trước đây đều đồng thuận
rằng hiệu quả của DFX tùy thuộc vào cả hai yếu
tố liều dùng và lượng sắt quá tải(7,8,10,11). Liều DFX
trung bình dùng trong 1 năm nghiên cứu của
chúng tôi là 26,6 và liều bắt đầu là 20,9
mg/kg/ngày. Có 93,7% bệnh nhân được tăng liều
DFX vì SF có khuynh hướng tăng thêm sau 3
tháng đầu điều trị, chứng tỏ bệnh nhân chưa đạt
được mục tiêu giảm gánh nặng sắt. Nghiên cứu
ESCALATOR(11) cũng ghi nhận liều DFX 20
mg/kg/ngày không đủ để làm giảm gánh nặng
sắt ở những bệnh nhân quá tải sắt nặng và có
đến 78% phải tăng liều > 20 mg/kg/ngày. Theo
thông tin từ nhà sản xuất, phần lớn bệnh nhân
đều được bắt đầu với liều Deferasirox 20
mg/kg/ngày, tuy nhiên có thể điều chỉnh dựa
vào lượng sắt vào do truyền máu, gánh nặng sắt
hiện tại và mục đích trị liệu. Các dữ liệu trên
càng nhấn mạnh tầm quan trọng của việc chỉnh
liều DFX kịp thời dựa trên SF và lượng máu
truyền vào để chắc chắn rằng bệnh nhân sẽ đạt
được mục tiêu giảm hay duy trì ổn định gánh
nặng sắt.
Tỷ lệ điều trị thành công ở tất cả bệnh
nhân, nhóm trẻ em và người lớn lần lượt là
89,7%; 91,3% và 83,3% cao hơn so với nghiên
cứu ESCALATOR(11) là 57%; 57,4% và 56%. Sự
khác biệt này có lẽ là do chúng tôi dùng liều
DFX cao hơn (26,6 so với 23,1 mg/kg/ngày)
trong khi lượng máu truyền vào của chúng tôi
ít hơn. Sau 1 năm điều trị, mẫu nghiên cứu đã
đạt được cân bằng sắt âm tính với nồng độ
LIC lúc đầu từ 21,5 giảm còn 11,3 mg/gdw với
mức giảm LIC là -10,2 mg/gdw (p < 0,0001),
tương đương với mức giảm LIC -10,2 mg/gdw
ở nhóm T2* > 20 ms trong nghiên cứu của
Pathare(7) (18 còn 7,8 mg/gdw), cao hơn so với
nghiên cứu CORDELIA(8) là -8,9 mg/gdw. Việc
giảm LIC ở bệnh nhân có quá tải sắt ở gan
nặng rất có ý nghĩa trong việc cải thiện dự hậu
của bệnh nhân(5,11).
So sánh mức thay đổi LIC theo nhóm tuổi
thì mức giảm LIC ở nhóm trẻ em thấp hơn
người lớn (-9,9 so với -11 mg/gdw) dù sự khác
biệt không có ý nghĩa thống kê. Kết quả này
tương tự như trong nghiên cứu
ESCALATOR(11) với các giá trị lần lượt là -2,9
và -4,4 mg/gdw. Chúng tôi cho rằng vì nhóm
bệnh nhân trẻ em có mục tiêu giữ Hemoglobin
cao hơn nhóm người lớn nên lượng máu
truyền vào nhiều hơn và như vậy lượng sắt
vào do truyền máu cũng nhiều hơn. Hơn nữa,
các nghiên cứu về dược động học đã cho thấy
rằng khả năng bộc lộ với DFX ở trẻ em thấp
hơn 20- 30% so với người lớn(3,6,9). Vì vậy,
chúng tôi nghĩ cần có nghiên cứu với cỡ mẫu
lớn hơn để đánh giá sự khác biệt này có ý
nghĩa thống kê hay không và nếu có thì cần
xác định sự khác biệt này có liên quan đến liều
dùng, lượng sắt vào do truyền máu, đặc điểm
dược động học của DFX hay là phối hợp các
yếu tố trên.
So sánh mức thay đổi LIC theo liều DFX,
chúng tôi ghi nhận mức giảm LIC ở nhóm dùng
DFX liều ≤ 25 thấp hơn nhóm dùng DFX liều > 25
mg/kg/ngày (-5,6 so với -11,3 mg/gdw) (p= 0,04).
Điều này khẳng định thêm quan sát của các
nghiên cứu trước đây cho rằng DFX liều 25- 30
mg/kg/ngày có tác dụng giảm gánh nặng sắt
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 19 * Số 4 * 2015 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Truyền Máu – Huyết Học 101
trong khi liều 20 mg/kg/ngày chỉ có tác dụng duy
trì sự ổn định của LIC(10,11). Cappellini cũng ghi
nhận mức giảm LIC theo liều DFX: liều 20
mg/kg/ngày giúp duy trì LIC (-0,4 mg/gdw)
trong khi liều 30 mg/kg/ngày làm giảm LIC (-8,9
mg/gdw)(3).
Sau 1 năm điều trị, hơn ½ trong số bệnh
nhân có LIC mức độ nặng đã chuyển sang mức
độ vừa/nhẹ (p = 0,008). Sự cải thiện này cũng
được quan sát thấy trong các nghiên cứu như
của Porter(10) với 60% bệnh nhân có LIC lúc đầu
7- <10 mg/gdw đã chuyển sang LIC < 7 mg/gdw;
24,1% bệnh nhân có LIC lúc đầu ≥ 10 mg/gdw đã
chuyển sang LIC < 10 mg/gdw, cũng như trong
nghiên cứu ESCALATOR(11) với tỷ lệ bệnh nhân
có quá tải sắt ở gan mức độ nhẹ đã tăng từ 9,9%
lên 26,2%.
Sau 1 năm điều trị, mức giảm SF là -485
ng/ml (p = 0,02), thấp hơn nghiên cứu
CORDELIA(8) là -1044 ng/ml. Điều khác biệt này
là do nghiên cứu CORDELIA(8) dùng DFX liều
cao hơn chúng tôi (36,7 so với 26,6 mg/kg/ngày).
So sánh mức thay đổi SF theo nhóm tuổi thì mức
giảm SF ở nhóm người lớn nhiều hơn nhóm trẻ
em (-1690 so với -170 ng/ml) (p= 0,001). Kết quả
này tương tự như nghiên cứu ESCALATOR(11),
với giá trị lần lượt là -846 và -166 ng/ml. Điều
này có lẽ là do bệnh nhân trẻ em được truyền
máu nhiều hơn người lớn nên lượng sắt quá tải
do truyền máu sẽ cao hơn.
Sự giảm SF bắt đầu xảy ra ở liều DFX trung
bình > 20 mg/kg/ngày vào khoảng tháng thứ 3
của nghiên cứu. Nghiên cứu EPIC(5) cũng ghi
nhận mức giảm SF xảy ra ở nhóm dùng DFX liều
≥ 30, liều ≥ 20- 30 và liều < 20 mg/kg/ngày lần
lượt là -926; -93; -45 ng/ml. Hai nhóm có mức
giảm SF thấp được cho là vì chậm tăng liều (tuần
24 trong 52 tuần). Các tác giả đều đồng thuận
rằng hiệu quả thải sắt của DFX tăng lên theo liều
và điều quan trọng là bác sĩ điều trị phải chọn
được liều tối ưu cho bệnh nhân. Vì vậy, các tác
giả đều khuyến cáo nên theo dõi SF mỗi 3 tháng
để kịp thời chỉnh liều DFX nhằm đạt hiệu quả
cao nhất và liều DFX ≥ 30 mg/kg/ngày nên được
bắt đầu ở những bệnh nhân có lượng sắt do
truyền máu cao và/hay có gánh nặng sắt cao từ
lúc đầu(3,5,11). Sau 1 năm điều trị với DFX, 1/3
trong số bệnh nhân có SF mức độ nặng đã
chuyển sang mức độ vừa. Kết quả này cũng
tương tự trong nghiên cứu ESCALATOR(11) với
tỷ lệ bệnh nhân có SF < 2500 ng/ml đã tăng lên
40,5% so với lúc đầu là 35,8%.
Y văn ghi nhận rằng những bệnh nhân
thalassemia có quá tải sắt nặng sẽ tăng nguy cơ
biến chứng tim và chết sớm. Nếu bệnh nhân
được dùng liệu pháp thải sắt hợp lý có thể làm
đảo ngược tác hại này(13). Các nghiên cứu trước
đây ở bệnh nhân có T2* bình thường hay giảm
đều ghi nhận sự cải thiện T2* sau điều trị với
DFX(7,8,11). Trong nghiên cứu của chúng tôi, sau 1
năm điều trị DFX, giá trị T2* lúc đầu từ 31,1 ms
tăng lên 32,2 ms. Dù sự khác biệt không có ý
nghĩa thống kê nhưng kết quả trên cũng gợi ý
DFX có ảnh hưởng tốt trên chức năng tim và
chúng tôi cho rằng một nghiên cứu với cỡ mẫu
lớn hơn và thời gian theo dõi lâu hơn rất có thể
khẳng định được điều này. LVEF là một dấu
chứng đại diện cho chức năng tim và thường
được dùng khi đánh giá ảnh hưởng trên tim của
thuốc thải sắt. Chúng tôi so sánh giá trị LVEF lúc
đầu và sau 1 năm điều trị thì không có sự khác
biệt (67,5 so với 67,7 mg/gdw). Kết quả này
tương tự như nghiên cứu CORDELIA(8) (66,9% so
với 66,3%). Việc cải thiện LVEF có ý nghĩa rất
quan trọng bởi vì chỉ cần cải thiện LVEF dù nhỏ
cũng có thể làm giảm nguy cơ suy tim(14).
Nhìn chung DFX được dung nạp tốt qua 1
năm nghiên cứu. Có 51,5% bệnh nhân ghi nhận
biến cố bất lợi. Chỉ có một trường hợp được
chúng tôi quyết định ngưng thuốc vì phát ban
da kèm sưng mắt và môi nhiều. Có 10,3% bệnh
nhân có ít nhất 1 lần tăng men gan ≥ 5 lần so với
giới hạn trên bình thường. Tỷ lệ này cao hơn các
nghiên cứu khác dao động từ 1- 5,8%(3,10,12). Giống
như các nghiên cứu khác, tất cả các trường hợp
tăng men gan của chúng tôi đều được giảm liều
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 19 * Số 4 * 2015
Chuyên Đề Truyền Máu – Huyết Học 102
hay tạm ngưng DFX 2- 4 tuần và dùng thêm
thuốc ổn định men gan, sau đó được dùng tiếp
DFX khi men gan trở về bình thường. Không có
trường hợp nào tăng men gan 2 lần liên tiếp hay
tăng men gan tiến triển mà buộc phải ngưng
điều trị. Có 31% bệnh nhân tăng creatinin 2 lần
liên tiếp ≥ 33% so với lúc đầu nhưng vẫn thấp
hơn giới hạn trên.Tỷ lệ này tương đương các
nghiên cứu khác ghi nhận khoảng 1/3 bệnh nhân
có tình trạng tăng creatinin nhẹ thoáng qua
nhưng vẫn nằm trong giới hạn trên (5,11) và
khoảng 2/3 bệnh nhân sau đó có creatinin tự
động trở về bình thường(5). Một số biến cố bất lợi
khác như bệnh cúm, bón, điếc, đục thủy tinh thể,
hạ huyết áp được báo cáo rải rác từng ca trong
các nghiên cứu khác(3,10,12) chưa thấy xuất hiện
trong mẫu nghiên cứu của chúng tôi.
KẾT LUẬN
Nghiên cứu của chúng tôi đã khẳng định
những quan sát đã được báo cáo ở các nghiên
cứu trước đây. Với liều dùng thích hợp, DFX có
thể kiểm soát lượng sắt trên bệnh nhân
thalassemia phụ thuộc truyền máu có quá tải sắt,
thể hiện qua giảm SF và LIC. Đối với sắt ở tim,
chúng tôi chưa đủ dữ liệu để khẳng định DFX có
khả năng loại bỏ sắt ở tim mà chỉ có thể gợi ý
rằng DFX có thể loại bỏ sắt ở tim và điều này cần
được khẳng định qua các nghiên cứu với cỡ mẫu
lớn hơn và thời gian theo dõi lâu hơn. Hiệu quả
của DFX tùy thuộc vào lượng sắt vào do truyền
máu và liều dùng thích hợp. DFX liều > 25
mg/kg/ngày có thể làm giảm gánh nặng sắt,
trong khi liều ≤ 25 mg/kg/ngày chỉ giúp duy trì
sự ổn định gánh nặng sắt. Đặc biệt đối với các
bệnh nhân có gánh nặng sắt cao, để đạt mục tiêu
trị liệu là giảm sắt thì nên khởi động liều cao
DFX 25- 30 mg/kg/ngày ngay từ đầu.
DFX nhìn chung được dung nạp tốt mà
không có biến cố bất lợi nào mới so với các
nghiên cứu đã được công bố. Các biến cố bất lợi
phổ biến thường gặp là tăng creatinin và tăng
men gan thoáng qua, đau bụng có hồi phục khi
giảm liều hay tạm ngưng thuốc.
Bác sĩ điều trị cần phải ghi nhận các biến cố
bất lợi của bệnh nhân mỗi khi bệnh nhân đến tái
khám cũng như xét nghiệm men gan ALT, AST,
creatinin định kỳ hàng tháng, SF mỗi 3- 6 tháng
để có căn cứ chỉnh liều DFX kịp thời nhằm đạt
được hiệu quả điều trị tối ưu với tác dụng phụ
tối thiểu.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Anderson LJ, Holden S, Davis B et al (2001) “Cardiovascular
T2-star (T2*) magnetic resonance for the early diagnosis of
myocardial iron overload”. Eur Heart J, 22 (23), pp. 2171- 9.
2. Cappellini MD (2007) “Exjade ® (deferasirox, ICL670) in the
treatment of chronic iron overload associated with blood
transfusion”. Therapeutics and Clinical Risk Management, 3
(2), pp. 291- 299.
3. Cappellini MD, Cohen A, Piga A et al (2006) “A phase 3 study
of deferasirox (ICL670), a once-daily oral iron chelator, in
patients with beta-thalassemia”. Blood, 107, pp. 3455- 3462.
4. Cappellini MD, Galanello R, Piga A et al (2008) “Efficacy and
safety of Deferasirox (Exjade®) with up to 4.5 years of
treatment in patients with β-thalassemia major: A pooled
analysis”. Blood, 112(11), abstract 3878.
5. Cappellini MD, Porter J, El-Beshlawy A et al (2010) A on
behalf of the EPIC study investigators. “Tailoring iron
chelation by iron intake and serum ferritin: the prospective
EPIC study of deferasirox in 1744 patients with transfusion-
dependent anemias”. Haematologica, 95 (4), pp. 557- 566.
6. Galanello R, Piga A, Alberti D et al (2003). “Safety, tolerability,
and pharmacokinetics of ICL670, a new orally active iron-
chelating agent in patients with transfusion-dependent iron
overload due to beta-thalassemia”. J Clin Pharmacol, 43, pp.
565- 572.
7. Pathare A, Taher A, Daar S (2010) “Deferasirox (Exjade®)
significantly improves cardiac T2* in heavily iron-overloaded
patients with β-thalassemia major”. Ann Hematol, 89, pp. 405-
409.
8. Pennell DJ, Porter JB, Piga A, et al (2014) “A 1-year
randomized controlled trial of deferasirox versus
deferoxamine for myocardial iron removal in beta-thalassemia
major (CORDELIA)”. Blood. 123, pp. 1447-1454.
9. Piga A, Forni GL, Kattamis A (2008) “Deferasirox (Exjade) in
pediatric patients with beta thalassemia: Update of 4.7 years
efficacy and safety from extension studies blood. ASH annual
meeting abstract;112, 3883.
10. Porter JB, Tanner MA, Pennell DJ, Eleftheriou P (2005)
“Improved Myocardial T2* in Transfusion Dependent
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 19 * Số 4 * 2015 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Truyền Máu – Huyết Học 103
Anemias Receiving ICL670 (Deferasirox)”. Blood, 106:1003a,
Abstract 3600.
11. Taher A, El-Beshlawy A, Elalfy MS et al (2009) “Efficacy and
safety of deferasirox, an oral iron chelator, in heavily iron-
overloaded patients with β-thalassaemia: the ESCALATOR
study”. Eur J Haematol, 82(6), pp. 458- 465.
12. Taher A, Cappellini MD, Vichinsky E et al (2009) “Efficacy
and safety of Deferasirox doses of > 30 mg/kg per d in patients
with transfusion-dependent anaemia and iron overload”. Br J
Haematol, 147, pp. 752-759.
13. TIF (2014), Guidelines for the management of transfusion
dependent thalassaemia, 3rd revised edition, pp. 42- 98.
14. Westwood MA, Anderson LJ, Maceira AM et al (2007).
“Normalized left ventricular volumes and function in
thalassaemia major patients with normal myocardial iron”. J
Magn Reson Imaging, 25 (6), pp. 1147- 51.
Ngày nhận bài báo: 19/6/2015
Ngày phản biện nhận xét bài báo: 29/6/2015
Ngày bài báo được đăng: 03/08/2015
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- danh_gia_buoc_dau_hieu_qua_dieu_tri_thai_sat_bang_deferasiro.pdf