Đánh giá chất lượng cuộc sống ở bệnh nhân loãng xương sau mãn kinh

KẾT LUẬN Bệnh loãng xương gây cảm nhận xấu về CLCS của người đó, đặc biệt xem xét về tương lai, nguy cơ mất độc lập và chịu đựng đau. Kết quả của nghiên cứu cho thấy sự khác biệt giữa bệnh nhân LX và nhóm chứng. Bệnh nhân LX, ngay cả khi không có GX, có trầm cảm nhiều hơn và giảm CLCS nhiều hơn. LX là một bệnh dẫn đến khó chịu nặng nề, mất khả năng, và ảnh hưởng các khía cạnh khác của cuộc sống cá nhân với nhiều hậu quả khác nhau, chẳng hạn, đau mạn tính, giảm khả năng cơ thể, giảm hoạt động xã hội, chịu đựng kém, trầm cảm, mất độc lập, tự chủ. Chúng tôi nghĩ rằng CLCS của bệnh nhân LX phải được điều tra trước khi GX để có biện pháp can thiệp thích hợp (tư vấn, hỗ trợ, chăm sóc) ở tất cả các giai đoạn khác nhau của bệnh. Điều này sẽ giúp bệnh nhân có nhiều chiến lược hữu hiệu để tiếp nhận bệnh và đối phó với nó. Thông tin qua bộ câu hỏi có thể là một công cụ mạnh mẽ đối với bác sĩ hoặc người chăm sóc trong việc quản lý bệnh nhân loãng xương tại Việt Nam.

pdf7 trang | Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 27/01/2022 | Lượt xem: 185 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đánh giá chất lượng cuộc sống ở bệnh nhân loãng xương sau mãn kinh, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 4 * 2011 Chuyên Đề Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Cấp Cứu Trưng Vương 142 ĐÁNH GIÁ CHẤT LƯỢNG CUỘC SỐNG Ở BỆNH NHÂN LOÃNG XƯƠNG SAU MÃN KINH Ngô Văn Quyền**, Nguyễn Thy Khuê** TÓM TẮT Mục tiêu: Đánh giá tác động của loãng xương (LX) trên chất lượng cuộc sống (CLCS) của phụ nữ sau mãn kinh, đặc biệt ở bệnh nhân không có gãy xương cột sống (GXCS). Phương pháp: 74 phụ nữ sau mãn kinh (55-82 tuổi) – 37 LX nguyên phát không biến chứng, 37 LX nguyên phát bị gãy xương cột sống (GXCS). Dùng bộ câu hỏi Qualeffo-41 (đã được thẩm định giá trị) để đánh giá CLCS ở phụ nữ LX. Dữ liệu được so sánh với 37 người đối chứng. Kết quả: T-score cột sống thì tương tự ở 2 nhóm nhỏ phụ nữ LX. BMI, tuổi mãn kinh thì tương tự ở 2 nhóm nhỏ của phụ nữ LX và nhóm chứng. Bệnh nhân bị LX cảm nhận rằng bệnh ảnh hưởng đến cuộc sống cá nhân với hậu quả rất khó chịu: đau kéo dài (84% phụ nữ GXCS, 59% phụ nữ không GXCS, suy giảm chức năng cơ thể, giảm hoạt động xã hội, giảm chịu đựng (43% phụ nữ không bị GXCS). Nhìn chung, 76% phụ nữ cho thấy giảm CLCS. Ngược lại, ở nhóm chứng chỉ 24% giảm CLCS. Kết luận: CLCS ở bệnh nhân LX phải được điều tra trước khi GX, mục đích là tư vấn, hỗ trợ, can thiệp thích hợp để giúp bệnh nhân có chiến lược hiệu quả để chấp nhận và đối phó với bệnh. Từ khóa: Chất lượng cuộc sống, loãng xương sau mãn kinh. ABSTRACT EVALUATION OF QUALITY OF LIFE IN PATIENTS WITH POST-MENOPAUSAL OSTEOPOROSIS Ngo Van Quyen, Nguyen Thy Khue * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 15 - Supplement of No 4 - 2011: 142 - 148 Background: To evaluate the impact of osteoporosis on the patients' quality of life, particularly in the absence of fractures. Methods: 74 post-menopausal women (age 55-82) - 37 with uncomplicated primary osteoporosis and 37with primary osteoporosis complicated by vertebral fractures; were studied using the validated questionnaires: Qualeffo-41 for quality of life in osteoporosis. Data were compared to those of 37 controls. Results: T-score of spine were similar in the two subgroups of osteoporotic women. Body mass index, age at menopause were similar in the two subgroups of osteoporotic women and in the control group. The patients affected by osteoporosis perceived it as a disease affecting their personal life with undesirable consequences: chronic pain (84% of women with fractures and 59% of women without fractures), impaired physical ability, reduced social activity, poor well-being (43% of women without fractures). Overall, 76% of the women showed a reduced quality of life. On the contrary, in the control group only 24% reported a reduced quality of life. Conclusion: The quality of life of osteoporotic patients should be investigated even before fractures, in order to develop appropriate counselling, support and care interventions to help patients develop efficient strategies for accepting the disease and coping with it. ∗ Bệnh viện đa khoa Bình Dương ∗∗ Bộ môn nội tiết ĐH Y Dược TP HCM Tác giả liên lạc: BS.CKII Ngô Văn Quyền ĐT: 0983519340 Email: drquyenbd@gmail.com Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 4 * 2011 Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Cấp Cứu Trưng Vương 143 Key words: quality of life, post-menopausal osteoporosis. ĐẶT VẤN ĐỀ Loãng xương (LX) là một bệnh lý nghiêm trọng ở phụ nữ sau mãn kinh, vì qui mô lớn và hậu quả nặng nề của nó trong cộng đồng. Trên thế giới, tỷ lệ phụ nữ trên 60 tuổi bị LX là 20%(13). Ở Việt Nam, khoảng 20% phụ nữ trên 60 tuổi có triệu chứng LX(16). Hậu quả nặng nề nhất của LX là gãy xương (GX). Ở Hoa Kỳ và châu Âu, cứ hai phụ nữ sống đến tuổi 85 thì một phụ nữ bị GX(12). GX là một trong những nguyên nhân làm giảm tuổi thọ, phân nửa phụ nữ bị GX chết trong vòng 7 năm(3). Một hình thái kinh điển, phổ biến nhất của bệnh lý LX ở phụ nữ sau mãn kinh là gãy xương đốt sống (GXĐS)(4). GXĐS gây ra đau lưng kinh niên(11), biến dạng cơ thể, mất thẩm mỹ, làm tăng phụ thuộc vào người khác, giảm tự tin và hạnh phúc, hao tốn tiền cho gia đình và xã hội. Chúng tôi chưa ghi nhận nghiên cứu nào tại Việt Nam đánh giá vấn đề LX cũng như GX do LX tác động như thế nào trên chất lượng cuộc sống (CLCS) của phụ nữ sau mãn kinh. Vì vậy, chúng tôi thực hiện nghiên cứu này để đánh giá tác động của LX - độc lập với GX - trên CLCS sống ở phụ nữ LX sau mãn kinh. ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Thiết kế nghiên cứu Nghiên cứu cắt ngang có nhóm đối chứng. Đối tượng nghiên cứu Bệnh nhân bị LX sau mãn kinh đến khám tại trung tâm y tế quận Gò vấp từ 8/2008 đến 10/2008. Cỡ mẫu Theo nghiên cứu dò đường (Pilot study) trên 2 nhóm bệnh nhân LX không GXCS và LX có GXCS, chúng tôi tính cỡ mẫu dựa trên 2 số trung bình của 5 lãnh vực CLCS theo Qualeffo – 41 là 74 đối tượng (37cho mỗi nhóm); chúng tôi chọn thêm một nhóm người khoẻ mạnh gồm 37 đối tượng để làm nhóm chứng. Kỹ thuật chọn mẫu Thuận lợi. Tiêu chí chọn mẫu Nhóm bệnh Tiêu chuẩn đưa vào: đồng ý tham gia nghiên cứu; loãng xương. Tiêu chuẩn loại trừ LX thứ phát, bệnh ảnh hưởng đến CLCS: Ung thư, suy thận mạn, bệnh hô hấp mạn, đái tháo đường, bệnh tim mạch (tăng huyết áp không kiểm soát được). Nhóm bệnh được chia thành 2 nhóm: LX không GXCS và LX có GXCS. Tất cả GX có triệu chứng trên lâm sàng và do xương dễ gãy, không do chấn thương mạnh. Đối với bệnh nhân có tiền sử GXCS, lần GXCS sau cùng phải xảy ra ít nhất 6 tháng trước khi nghiên cứu. Nhóm chứng Là thân nhân bệnh nhân, có cùng độ tuổi với các bệnh nhân trong nhóm nghiên cứu nhưng không LX, không GXCS. Tiêu chuẩn nhận vào và loại trừ giống nhóm bệnh. Phương pháp Phỏng vấn trực tiếp bệnh nhân bằng bộ câu hỏi QUALEFFO-41.vn đã thẩm định. Bộ câu hỏi QUALEFFO-41 là bộ câu hỏi chuyên về LX, dùng để đo lường CLCS ở bệnh nhân LX, do Hội LX châu Âu phát triển (1997); gồm 41 câu, trong 5 lãnh vực(9): đau, chức năng cơ thể, chức năng xã hội, cảm nhận sức khỏe tổng quát, chức năng tinh thần. Đo mật độ xương bằng máy Achill Express (siêu âm định lượng ở gót chân). Chẩn đoán LX theo tổ chức y tế thế giới: bình thường: T- score >-1; thiếu xương: -2.5< T-score<-1; LX: T- score ≤ -2.5. Mãn kinh sinh lý: tuổi 45–55; sớm: 40–45 tuổi; rất sớm: < 40 tuổi(1). Chẩn đoán GXĐS: theo phương pháp bán Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 4 * 2011 Chuyên Đề Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Cấp Cứu Trưng Vương 144 định lượng của Genant(6): Gãy đĩa: chiều cao giữa thân đốt sống ngắn hơn chiều cao trước và sau. Gãy bờ: chiều cao của thân trước hoặc thân sau bị khuyết, ngắn hơn chiều cao tương ứng của đốt sống kế cận. Gãy lún: cả đốt sống bị nén xuống làm cho thân đốt sống bị thu ngắn lại. BMI = cân nặng (kg)/(chiều cao (m))2: thiếu cân: < 18,5; bình thường: 18,5- 22,9; thừa cân: 23- 24,9; Béo phì: ≥ 25(18). Thống kê Tất cả bộ câu hỏi được trả lời hoàn tất và được phân tích theo thang điểm. Phân tích thống kê được thực hiện bởi SPSS 11.5. Dữ kiện trình bày là trung bình ± độ lệch chuẩn hoặc phần trăm. T-test: biến số định lượng nếu có phân phối bình thường. Mann-Whitney: biến số định lượng nếu có phân phối không bình thường, biến số định tính. Giá trị p < 0.05 được xem như có ý nghĩa thống kê (test 2 đuôi). KẾT QUẢ Đặc điểm dân số nghiên cứu. Bảng 1. Đặc điểm dân số nghiên cứu Nhóm chứng LX không GXCS LX có GXCS Số lượng BN 37 37 37 Tuổi(năm) 66 ± 6 68 ±6 71 ±9* BMI(kg/m2) 23,6 3 ±3 23,38 ±3 21,20 ±4 ª Tuổi mãn kinh(năm) 50 ±5 49 ±4 49 ±5 BMD (T- score) -1,4 ±0,7 -2,7 ±0,1 -3,1 ±0,4§ Không biết chữ 2 (5%) 7 (19%) 5 (14%) Tiểu học 15 (41%) 13 (35%) 19 (51%) Trung học cơ sở 12 (32%) 6 (16%) 6 (16%) Trung học phổ thông 8 (22%) 10 (27%) 5 (14%) Trình độ văn hoá Đại học 0 (0%) 1 (3%) 2 (5%) Dữ kiện thể hiện dưới dạng trung bình ± độ lệch chuẩn * p< 0,007 khi so sánh với nhóm chứng ª p < 0,005 khi so sánh với nhóm chứng và nhóm LX không GXCS § p < 0,001 khi so sánh với nhóm chứng và so sánh với nhóm LX không GXCS Nhóm chứng và 2 nhóm phụ nữ LX không có sự khác biệt về tuổi mãn kinh trung bình, trình độ văn hóa. Mật độ xương nhóm chứng bình thường, T- score nhóm LX có GXCS thấp hơn nhóm LX không GXCS. Bảng 2: Đặc điểm liên quan GXCS của nhóm LX có GXCS Đặc điểm Số mô tả Thời gian sau GXCS (tháng) 42 ± 6 Cột sống ngực 05 (14%) Vị trí gãy xương Cột sống thắt lưng 32 (86%) Một đốt 18 (48%) Hai đốt 11 (30%) Số lượng đốt sống bị gãy Từ ba đốt trở lên 8 (22%) Gãy đĩa 11 (30%) Gãy bờ 17 (46%) Kiểu gãy xương đốt sống Gãy lún 09 (24%) Dữ kiện thể hiện dưới dạng trung bình ± độ lệch chuẩn hoặc tần xuất (%). GXCS thắt lưng chiếm tỷ lệ cao hơn GXCS ngực. GXCS 1 đốt chiếm tỷ lệ cao hơn (48%) 2 đốt, 3 đốt. Gãy bờ chiếm tỷ lệ cao hơn (46%) gãy đĩa, gãy lún. Trong các lãnh vực của Qualeffo: Đau có trong 67,18% trường hợp, và 25,22% có > 10 giờ/ngày. 31 phụ nữ trong 37 trường hợp bị LX có GXCS (83,78%) và 22 phụ nữ trong 37 trường hợp LX không GXCS (59,45%) được báo cáo đau. GXCS làm tăng điểm của lãnh vực đau. Nhóm chứng thì đau có 9 trường hợp (24,42%). Trong lãnh vực chức năng cơ thể, 57,36% phụ nữ ≤ 65 tuổi có cảm nhận thay đổi cơ thể, trong khi 72% số đó > 65 tuổi. GXCS tăng cảm nhận thay đổi cơ thể. Trong lãnh vực cảm nhận sức khỏe tổng quát 63,85% phụ nữ có cảm giác chịu đựng kém. Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 4 * 2011 Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Cấp Cứu Trưng Vương 145 16 phụ nữ không GXCS (43,24%) trong 37 trường hợp được báo cáo giảm cảm nhận sức khỏe của họ. So sánh mức độ chịu đựng của họ với 10 năm trước, 68,37% phụ nữ ≤ 65 tuổi cho thấy xấu hơn, trong khi 87,67% trong số đó > 65 tuổi. Trong nhóm chứng, có 8 phụ nữ (21,62%), tuổi 65 – 85, được báo cáo giảm cảm nhận sức khỏe của họ. Nhìn chung, 76,48% phụ nữ bị ảnh hưởng bởi LX có giảm CLCS: 64,86% (24 cas) của phụ nữ LX không biến chứng và 89,18% (33cas) LX biến chứng GXCS. Ngược lại, giảm CLCS chỉ có 24,3% ở nhóm chứng. Điểm số các lãnh vực sức khỏe của Qualeffo – 41, so sánh điểm số trung bình của 5 lãnh vực sức khoẻ giữa nhóm Bảng 3. Trung bình ± độ lệch chuẩn về điểm số của 5 lãnh vực sức khoẻ P Lãnh vực Qualeffo-41 Nhóm chứng (n=37) LX không GXCS (n=37) LX có GXCS (n=37) LX không GXCS với LX có GXCS LX không GXCS với nhóm chứng LX có GXCS với nhóm chứng Đau 22,16 ±19 39,46 ±27 65,81 ±19 0,000 0,003 0,000 CNCT 12,32 ±13 25,44 ±15 40,38 ±23 0,005 0,000 0,000 CNXH 58,79 ±23 73,58 ±16 80,93 ±13 0,090 0,006 0,000 CNSK 77,70 ±19 86,26 ±14 94,37 ±8 0,005 0,037 0,000 CNTT 36,49 ±18 54,50 ±26 67,04 ±20 0,042 0,003 0,000 ĐTB 29,22 ±12 43,39 ±16 56,98 ±17 0,001 0,000 0,000 Dữ kiện thể hiện dưới dạng trung bình ± độ lệch chuẩn Bảng 4. So sánh điểm số CLCS nhóm LX có GXCS thắt lưng và ngực Lãnh vực LX có GXCS TL (n=32) LX có GXCS ngực (n=5) p Đau 70,00 ± 15,96 39,00 ± 21,03 0,000 CNCT 44,25 ± 20,95 22,00 ± 19,91 0,033 CNXH 83,09 ± 11,81 67,80 ± 13,06 0,012 CNSK 94,50 ± 8,43 93,20 ± 9,31 0,754 CNTT 72,46 ± 15,79 32,20 ± 9,65 0,000 ĐTB 67,56 ± 17,05 43,40 ± 15,38 0,031 Dữ kiện được thể hiện dưới dạng trung bình (độ lệch chuẩn) Chúng tôi nhận thấy các lãnh vực Qualeffo- 41 của nhóm loãng xương có GXCS thắt lưng và nhóm loãng xương có GXCS ngực có sự khác biệt và có ý nghĩa thống kê, ngoại trừ lãnh vực cảm nhận sức khỏe. Bảng 5. So sánh điểm số trung bình của 5 lãnh vực sức khoẻ theo số lượng đốt sống bị gãy P Lãnh vực LX có GXCS 1 đốt (n=18) LX có GXCS 2 đốt (n=11) LX có GXCS 3 đốt (n=8) LX có GXCS 1 đốt và 2 đốt LX có GXCS 2 đốt và 3 đốt. Đau 50,00 ± 13,93 76,36 ± 6,36 86,87 ± 10,99 0,000 0,017 CNCT 27,44 ± 20,61 50,63 ± 20,78 55,62 ± 13,70 0,007 0,563 CNXH 74,77 ± 12,89 83,54 ± 10,17 91,62 ± 8,34 0,066 0,084 CNSK 90,16 ± 9,69 97,72 ± 5,44 99,00 ± 2,82 0,026 0,555 CNTT 57,61 ± 22,14 73,27 ± 14,34 79,62 ± 14,28 0,047 0,353 ĐTB 46,61 ± 15,56 64,54 ± 11,82 70,00 ± 9,28 0,003 0,276 Dữ kiện được thể hiện dưới dạng trung bình (độ lệch chuẩn) Chúng tôi ghi nhận các lãnh vực Qualeffo-41 của nhóm LX có GXCS 1 đốt và 2 đốt đều có sự khác biệt và có ý nghĩa thống kê, ngoại trừ lãnh vực chức năng xã hội. Các lãnh vực Qualeffo-41 của nhóm LX có GXCS 2 đốt và 3 đốt chỉ khác khác biệt và có ý nghĩa thống kê ở lãnh vực đau, còn các lĩnh vực khác không có sự khác biệt. Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 4 * 2011 Chuyên Đề Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Cấp Cứu Trưng Vương 146 BÀN LUẬN Đặc điểm dân số của nhóm nghiên cứu Trong nghiên cứu của chúng tôi, tuổi trung bình của nhóm LX có GXCS là 71, và nhóm LX không GXCS là 68; tuổi mãn kinh trung bình của 2 nhóm là 49. Trong nghiên cứu CLCS ở phụ nữ LX sau mãn kinh: tương quan giữa Qualeffo-41 và SF- 36, có 220 phụ nữ tham gia (tuổi từ 55 – 80), trong đó 110 phụ nữ LX và 110 phụ nữ không bị LX. Tác giả ghi nhận tuổi trung bình của nhóm LX là 64,4 và nhóm không bị LX 63,6; tuổi mãn kinh của 2 nhóm là 46,1 và 49,6(5). Theo nghiên cứu của Maria Luisa Bianchi và cộng sự thực hiện trên 135 đối tượng người Ý, các đối tượng được chia thành 2 nhóm: LX không GXCS và LX có GXCS có tuổi trung bình là 64,5 và 70,3; tuổi mãn kinh là 51,9 và 52(2). Như vậy, thời gian từ lúc mãn kinh đến lúc phát hiện ra LX của các bệnh nhân trong các nghiên cứu của chúng tôi dài hơn so với các tác giả khác. Điều này có thể phản ánh một khía cạnh tại Việt Nam là việc tầm soát bệnh LX hiện nay chưa được quan tâm đúng mức. Bên cạnh đó, mạng lưới bác sỹ gia đình cũng như y tế địa phương chưa được đầu tư đúng mức để giúp bệnh nhân phát hiện sớm bệnh, vì vậy thời điểm phát hiện LX thường trễ. Một lý do khác người dân chưa có thói quen khám sức khỏe định kỳ mà chỉ đến các cơ sở khám, chữa bệnh khi có vấn đề sức khoẻ nên khi phát hiện ra LX thì đã muộn. Đặc điểm liên quan đến GXCS trong nhóm LX có GXCS Trong nghiên cứu của chúng tôi tỷ lệ GXCS ngực là 5 người (14%) và GXCS thắt lưng là 32 người (86%). Trong nghiên cứu đánh giá đa kết quả của Raloxifen (MORE) thực hiện tại 7 nước châu Âu (Bỉ, Pháp, Đức, Anh, Ý, Hà Lan, Thuỵ Điển) đánh giá ở 751 phụ nữ LX sau mãn kinh (Tscore ≤ - 2,5) tuổi từ 55 đến 80, Oleksik, Paul và cộng sự ghi nhận trên 282 bệnh nhân GXCS; số bệnh nhân GXCS ngực là 203 người (72%), GXCS thắt lưng là 79 người (28%)(14). Trong nghiên cứu Rotterdam Study, tác giả phân tích 129 trường hợp GXCS và nhận thấy tỷ lệ GXCS ngực và GXCS thắt lưng tương ứng là 49,6% và 50,4%(16). Như vậy, nghiên cứu của chúng tôi có tỷ lệ GXCS ngực ít hơn GXCS, điều này không tương đồng với tác giả Oleksik và Van der Klift. Điều đặc biệt ở đây là tỷ lệ GXCS ngang L1 nhiều. Các lãnh vực Qualeffo: Đau, Chức năng cơ thể, Cảm nhận sức khỏe trong nghiên cứu của chúng tôi có tỉ lệ cao hơn nghiên cứu của Biachi và cộng sự(2). Tình huống này phản ánh khía cạnh rất thực tế là: Về phía bệnh nhân Phần lớn bệnh nhân chưa nhận thức được tầm quan trọng của bệnh LX, do không hiểu biết về căn bệnh: cứ nghĩ rằng đó là quy luật tất yếu của đời người cứ đến tuổi già thì sẽ bị đau lưng nên không cần phải điều trị; Thông thường người bệnh tự điều trị trước khi đến nhân viên y tế, khi có đau lưng, giảm chiều cao thì mới đi khám bệnh, chụp phim x - quang. Phần lớn bệnh nhân trình độ văn hóa thấp, không hiểu biết về biến chứng GX do LX, làm việc tay chân, khiêng vác nặng, nên cột sống thắt lưng bị ảnh hưởng nhiều; sống một mình, điều này không thích hợp đối với người mắc bệnh LX. Ngoài ra do đời sống kinh tế chưa cao, không có bảo hiểm y tế, việc đo mật độ xương có chi phí cao nên bệnh nhân ít đi tầm soát bệnh. Về phía bác sĩ Nhân viên y tế cho rằng GX do LX rất khó trị, không nỗ lực điều trị; phần lớn chưa được huấn luyện, chưa ý thức được tầm quan trọng và hậu quả của bệnh LX, chưa có chuyên khoa riêng, chưa được đầu tư đúng mức máy móc, phương tiện để đo LX nên chưa chú ý đến bệnh nhiều. Mạng lưới dịch vụ y tế: chính quyền chưa nhận thức được ảnh hưởng xấu của gãy xương Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 4 * 2011 Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Cấp Cứu Trưng Vương 147 do LX nên chưa tuyên truyền kiến thức cơ bản về căn bệnh: nhận biết triệu chứng, cách điều trị, biện pháp phòng ngừa. Điều này lý giải phần nào các trường hợp GXCS thắt lưng đạt tỷ lệ cao (86%) trong nghiên cứu của chúng tôi. So sánh điểm số trung bình các lãnh vực sức khoẻ của Qualeffo-41.vn Chúng tôi thấy nhóm LX có GXCS giảm CLCS nhiều hơn nhóm LX không GXCS ở tất cả các lãnh vực sức khoẻ, có ý nghĩa thống kê, ngoại trừ chức năng xã hội. Điều này có thể lý giải là đa số bệnh nhân trong nhóm có GXCS do có thời gian mắc bệnh dài hơn, không điều trị tốt nên ảnh hưởng nhiều đến các lãnh vực hơn là nhóm LX không GXCS. Điều này tương tự như kết quả nghiên cứu của Bianchi và cộng sự(2). Khi so sánh với nhóm đối chiếu (là người khoẻ mạnh), chúng tôi thấy là CLCS của nhóm LX có GXCS giảm nhiều hơn chứng. Nhóm LX không GXCS có CLCS cũng giảm hơn nhóm chứng. Do nhóm đối chiếu là người khoẻ mạnh, là thân nhân của bệnh nhân LX nên có thể có cùng hoàn cảnh sống, tình trạng kinh tế và do vậy sự khác biệt CLCS ở đây nhiều khả năng liên quan đến biến cố GX với tác động nặng nề và toàn diện lên CLCS của các đối tượng LX. Điều này cũng phù hợp với nghiên cứu của Hall SE, et al trong đánh giá CLCS ở bệnh nhân LX với bộ câu hỏi SF-36(7). So sánh điểm số trung bình của các lãnh vực sức khoẻ của Qualeffo-41.vn trong nhóm LX có GXCS. Tác động rõ ràng nhất của biến cố GXĐS trên bệnh nhân LX là làm giảm CLCS của nhóm GXCS thắt lưng so với nhóm GXCS ngực, sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê ở tất cả các lĩnh vực trừ lãnh vực cảm nhận sức khỏe. Điều này cũng phù hợp với kết quả của tác giả Oleksik, Paul Lips và cộng sự trong nghiên cứu MORE(14). Các nghiên cứu trước trước đây rằng GXCS đi kèm giảm CLCS mà chức năng tinh thần và thể lực thì không bị ảnh hưởng(15). Sử dụng bộ câu hỏi chuyên biệt cho thấy giảm CLCS phụ thuộc số lượng đốt sống bị gãy với điểm số khác biệt có ý nghĩa thống kê(14). Tương tự như thế, kết quả nghiên cứu của chúng tôi cho thấy CLCS của bệnh nhân LX GXCS phụ thuộc vào số lượng đốt sống bị gãy, nhất là lãnh vực đau. Tuy nhiên, các đối tượng LX đã trải qua GXCS thường trải qua thời gian mắc bệnh kéo dài nên thường đã có nhiều biến chứng khác của bệnh LX và những trường hợp có GXCS thắt lưng cũng có thể có nhiều biến chứng trước đây hơn là nhóm có GXCS ngực. LX được xem như là một bệnh yên lặng trước khi GX. Đau mãn tính trong LX thì ít được quan tâm ngay cả có GXĐS(8) và nó rõ ràng hơn khi chúng ta đánh giá quá thấp nó. Hiện tại, có nhiều đồng thuận rằng đau mãn tính không điều trị có thể trở thành “bệnh trong bệnh“ và thường là một nguyên nhân gây trầm cảm lâm sàng hoặc dưới lâm sàng(10). Do vậy, sự khiếm khuyết hoạt động chức năng thể hiện rõ ở nhóm LX có GXCS thắt lưng và số lượng đốt sống bị gãy. Tuy nhiên, chúng tôi nghĩ rằng cần nhiều nghiên cứu để đánh giá tác động đầy đủ của biến cố GXCS trên lãnh vực sức khoẻ này. KẾT LUẬN Bệnh loãng xương gây cảm nhận xấu về CLCS của người đó, đặc biệt xem xét về tương lai, nguy cơ mất độc lập và chịu đựng đau. Kết quả của nghiên cứu cho thấy sự khác biệt giữa bệnh nhân LX và nhóm chứng. Bệnh nhân LX, ngay cả khi không có GX, có trầm cảm nhiều hơn và giảm CLCS nhiều hơn. LX là một bệnh dẫn đến khó chịu nặng nề, mất khả năng, và ảnh hưởng các khía cạnh khác của cuộc sống cá nhân với nhiều hậu quả khác nhau, chẳng hạn, đau mạn tính, giảm khả năng cơ thể, giảm hoạt động xã hội, chịu đựng kém, trầm cảm, mất độc lập, tự chủ. Chúng tôi nghĩ rằng CLCS của bệnh nhân LX phải được điều tra trước khi GX để có biện pháp can thiệp thích hợp (tư vấn, hỗ trợ, chăm Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 4 * 2011 Chuyên Đề Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Cấp Cứu Trưng Vương 148 sóc) ở tất cả các giai đoạn khác nhau của bệnh. Điều này sẽ giúp bệnh nhân có nhiều chiến lược hữu hiệu để tiếp nhận bệnh và đối phó với nó. Thông tin qua bộ câu hỏi có thể là một công cụ mạnh mẽ đối với bác sĩ hoặc người chăm sóc trong việc quản lý bệnh nhân loãng xương tại Việt Nam. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Bianchi ML, Orsini MR, Saraifoger S et al (2005). Quality of life in post-menopausal osteoporosis. Health Qual Life Outcomes. Dec 1;3:78. 2. Center JR, Nguyen TV, Schneider D, et al (1999). Mortality after all major types of osteoporotic fracture in men and women: an observational study. Lancet ; 353: 878-882. 3. Cooper C, Atkinson EJ, O’Fallon WM et al (1992). Incidence of clinically diagnosed vertebral fractures: a population-based study in Rochester, Minnesota, 1985-1989. J Bone miner Res. 7: 221-227. 4. De Oliveira FN, Arthuso M, da Silva R, et al (2008). Quality of life in women with postmenopausal osteoporosis: correlation between QUALEFFO-41 and SF-36. Maturitas. 2009 Jan 20; 62(1): 85-90. Epub 2008 Dec 18 5. Genant HK, Wu CY, Van Kuijk C, Nevitt MC. (1993). Verterbral fracture assessment using a semiquantitative technique. J Bone Miner Res, 8: 1137-1148 6. Hall S. E., Criddle R. A., Comito T. L. and Prince R. L (1999). A Case–Control Study of Quality of Life and Functional Impairment in Women with Long–Standing Vertebral Osteoporotic Fracture. Osteopor Int; 9: 508-15 7. Huang C, Ross PD, Wasnich RD. (1996). Vertebral fractures and other predictors of back pain among older women. J Bone Min Res, 11: 1026-1032. 8. Lips P, Cooper C, Agnusdei D. et al (1999). Quality of life in patients with vertebral fractures: validation of the quality of life questionnaire of the European Foundation for Osteoporosis (QUALEFFO). Osteopor Int, 10: 150-160. 9. Mai Thế Trạch - Nguyễn Thy Khuê (2007). Mãn kinh. Nội tiết học đại cương: 329- 330. 10. Mitchell C (2001). Assessment and management of chronic pain in elderly people. Br J Nur, 10: 296-304. 11. Nevitt MC, Ettinger B, Black DM et al (1998). The association of radiographically detected vertebral fractures with back pain and function: a prospective study. Ann Intern Med, 128: 793-800 12. Nguyen ND, Ahlborg H, Center J et al (2005). Residual lifetime risk of fracture in elderly men and women. Bone; 36:S131 13. Nguyen ND, Nguyen TV. Assessment of fracture risk. In Marcus R, Feldman D, Nelson D, Rosen C, Eds. Osteopor 2006, 3 rd Edition. San Diegp CA: Elsevier Inc 14. Olesik A, Lips P, Dawson A. et al. (2000). Health-related quality of life (HRQOL) in postmenopausal women with low BMD with or without prevalent verterbral fractures. J Bone Miner Res, 15: 1384-1392. 15. Silverman SL, Minshall ME, Shen W. et al. (2001). The relationship of health-related quality of life to prevalent and incident vertebral fractures in postmenopausal women with osteoporosis: results from the multiple outcomes of Raloxilene evaluation study. Arthritis Rheum, 44: 2611-2619. 16. Van der Klift M. et al (2002). The incidence of vertebral fracture in men and women: the Rotterdam Study. J Bone Miner Res; 17: 1051-1056. 17. Vu TTT, Tran TC, et al. (2003). Assessment of low bone mass in Vietnamese: comparison of QUS calcaneal ultrasonometer and data- derived T –score. J Bone Miner Metab; 21(2): 114-9. 18. WHO Expert Consultation (2004). Appropriate body-mass index for Asian populations and its implications for policy and intervention strategies. Lancet 2004 Jan; 363: 157-63.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfdanh_gia_chat_luong_cuoc_song_o_benh_nhan_loang_xuong_sau_ma.pdf