Về hiệu quả khử khuẩn của tia gamma ở
liều 25 kGy lên mô xương vòm sọ.
Kết quả kiểm tra vi khuẩn các mẫu xương vòm
sọ chó trong cùng một điều kiện cho thấy tất cả các
mẫu đều có kết quả âm tính với nuôi cấy vi khuẩn.
Kết quả này phù hợp với kết quả của các nghiên cứu
của Lê Thị Hồng Nhung (2006) [7], Bùi Thanh Thủy
(2015) [16], Thomas F.B (2005) [23]. Điều này chứng
tỏ với liều chiếu 25 KGy, tia gamma có khả năng diệt
khuẩn hoàn toàn đối với các chủng loại vi khuẩn
thường nhiễm trong các loại mô.
Tia gamma là tia có bước sóng ngắn nhưng mang
năng lượng lớn, đủ sức tiêu diệt hầu hết vi sinh vật
trên đường đi của nó. Theo một số tác giả, ở liều
chiếu 10 kGy tia gamma đã có khả năng diệt khuẩn
[24], [25]. Tuy nhiên, tính kháng xạ của các vi sinh
vật là khác nhau, do đó, vật phẩm bị nhiễm bởi vi
sinh vật có tính kháng xạ cao thì cần phải dùng liều
bức xạ ion hóa cao hơn để khử trùng nên ít có Ngân
hàng mô sử dụng liều chiếu dưới 25 kGy. Mặt khác,
việc khống chế nhiễm các vi sinh vật ban đầu cũng
gặp nhiều khó khăn, mặc dù mô được lấy trong
điều kiện vô khuẩn ngoại khoa, song quá trình vận
chuyển, xử lý, đóng gói cũng có thể bị lây nhiễm. Tại
Mỹ, các ngân hàng mô thuộc Hiệp hội Ngân hàng Mô
Hoa Kỳ (AATB) sử dụng liều chiếu 15 kGy. Tuy nhiên,
tại Việt Nam và các nước có Ngân hàng mô thuộc
Hiệp Hội Ngân hàng mô Châu Á - Thái Bình Dương
đều sử dụng liều chiếu an toàn là 25 kGy [14].
7 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Lượt xem: 7 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đánh giá chất lượng mảnh xương vòm sọ chó sau bảo quản tại đơn vị bảo quản mô bệnh viện trường Đại học Y dược Huế, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
30
Tạp chí Y Dược học - Trường Đại học Y Dược Huế - Tập 9, số 4 - tháng 7/2019
ĐÁNH GIÁ CHẤT LƯỢNG MẢNH XƯƠNG VÒM SỌ CHÓ
SAU BẢO QUẢN TẠI ĐƠN VỊ BẢO QUẢN MÔ
BỆNH VIỆN TRƯỜNG ĐẠI HỌC Y DƯỢC HUẾ
Nguyễn Phương Thảo Tiên, Trần Anh Hùng, Lê Nghi Thành Nhân, Lê Văn Tâm,
Nguyễn Phạm Phước Toàn, Nguyễn Phan Quỳnh Anh, Võ Thị Hạnh Thảo, Võ Thị Trang
Bộ môn Mô phôi, Trường Đại học Y Dược, Đại học Huế
Tóm tắt
Mục tiêu: Đánh giá độ bền cơ học, cấu trúc vi thể của mô xương vòm sọ chó sau bảo quản lạnh sâu có
chiếu tia gamma và hiệu quả khử khuẩn của tia gamma ở những mảnh xương vòm sọ chó sau chiếu xạ. Đối
tượng và phương pháp nghiên cứu: 50 mảnh xương vòm sọ chó có kích thước 4 cm x 4 cm, được lấy ở vùng
đỉnh trán, đối xứng qua đường dọc giữa xương vòm sọ. Các mảnh xương vòm sọ chó được cưa đôi theo
đường dọc giữa để chia thành 2 lô. Lô chứng gồm 50 mảnh chỉ bảo quản lạnh sâu, không chiếu tia gamma.
Lô thực nghiệm gồm 50 mảnh, được bảo quản lạnh sâu và chiếu tia gamma. Đánh giá chất lượng của mảnh
xương vòm sọ chó (độ bền cơ học, cấu trúc vi thể và hiệu quả khử khuẩn) sau chiếu tia gamma và bảo quản
lạnh sâu ở - 85 0C trong 3 tháng. Kết quả: Độ bền cơ học của mô xương vòm sọ chó giảm 8,28%, cấu trúc vi
thể không có biến đổi so với lô xương vòm sọ chỉ bảo quản lạnh sâu, không chiếu tia gamma. 100% mảnh
xương vòm sọ chó lô thực nghiệm âm tính với xét nghiệm nuôi cấy vi khuẩn. Kết luận: Mô xương vòm sọ chó
sau chiếu tia gamma liều 25 KGy và bảo quản lạnh sâu ở - 85 0C trong 3 tháng tại Đơn vị Bảo quản Mô - Bệnh
viện Trường Đại học Y Dược Huế: Độ bền cơ học giảm không đáng kể; Cấu trúc mô học ở mức độ vi thể không
có biến đổi; Âm tính với kiểm tra nuôi cấy vi khuẩn
Từ khóa: Xương vòm sọ chó, tia gamma, độ bền, khử khuẩn
Abstract
THE QUALITY OF CRYOPRESERVED GAMMA-STERILIZED DOG
SKULL AT TISSUE CRYOPRESERVATION UNIT,
HUE UNIVERSITY OF MEDICINE AND PHARMACY HOSPITAL
Nguyen Phuong Thao Tien, Tran Anh Hung, Le Nghi Thanh Nhan, Le Van Tam,
Nguyen Pham Phuoc Toan, Nguyen Phan Quynh Anh, Vo Thi Hanh Thao, Vo Thi Trang
Hue University of Medicine and Pharmacy, Hue University
Objective: To evaluate the effect of gamma sterilization and the changes in the durability and the
histological structure of cryopreserved gamma-sterilized dog skull. Subjects and methods: 50 dog skull
fragments had the same size (4 x 4 cm), which were taken at parieto-frontal region, symmetrically through the
midline of the skull were divided into two lots. Evident lot consisting of 50 fragments were just cryopreserved,
not irradiated by gamma rays. Experimental lot which composed of 50 fragments were cryopreserved and
exposed to 25 kGy of gamma radiation. Afterwards, evaluating the changes in the durability, microscopic
structure and the effectiveness of sterilization on the dog skull after being cryopreserved at -85 0C in 3 months
and exposed a gamma sterilization. Results: The durability was decreased of 8.28% compared with the lot
of dog skull just cryopreserved at -85 0C and not exposed a gamma sterilization. On histological structure, no
difference was found between the two lots and there was no structural change in the irradiated dog skull.
All gamma-sterilized dog skull fragments were negative with bacteria culture test. The gamma ray had the
ability to kill bacteria completely in the type of bacteria commonly infected tissue. Conclusion: After being
cryopreserved at -85 0C in 3 months and exposed a gamma sterilization dose of 25 KGy, the durability of dog
skull was insignificantly decreased and the microscopic structure was not changed. All irradiated dog skull
fragments were negative with bacteria culture test.
Key words: dog skull, gamma, durability, irradiated.
Địa chỉ liên hệ: Nguyễn Phương Thảo Tiên, email: npttien@huemed-univ.edu.vn DOI: 10.34071/jmp.2019.4.4
Ngày nhận bài: 27/4/2019, Ngày đồng ý đăng: 11/6/2019; Ngày xuất bản: 1/7/2019
31
Tạp chí Y Dược học - Trường Đại học Y Dược Huế - Tập 9, số 4 - tháng 7/2019
1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Bảo quản lạnh sâu mảnh xương vòm sọ để ghép
tự thân cho bệnh nhân bị khuyết sọ sau phẫu thuật
sọ não là phương pháp có nhiều ưu điểm và được sử
dụng rộng rãi ở các ngân hàng mô trên thế giới cũng
như ở Việt Nam. Trên thế giới, từ năm 1885, William
Macewen đã sử dụng các mảnh xương vòm sọ để
ghép tự thân cho bệnh nhân. Sau đó, việc sử dụng
xương tự thân để ghép xương sọ đã trở nên phổ
biến ở giai đoạn đầu thế kỷ 20 [1], [2]. Ở Việt Nam,
ghép xương sọ tự thân bắt đầu từ năm 1999. Nhiều
nghiên cứu đã cho thấy kết quả tốt sau phẫu thuật
tạo hình khuyết vòm sọ lớn sau mổ giải áp do chấn
thương bằng xương vòm sọ tự thân bảo quản lạnh
sâu [3]. Ghép xương sọ tự thân thường đạt hiệu quả
cao và nhanh nhất trong việc tái tạo xương vì có sự
tương hợp sinh học hoàn hảo, không có nguy cơ thải
hồi mảnh ghép. Ghép xương sọ tự thân được đánh
giá là tiêu chuẩn vàng trong bất kỳ trường hợp ghép
xương nào, đây là phương pháp được sử dụng nhiều
nhất [4],[5].
Mục đích bảo quản xương sọ là để ghép lại nên
tiêu chuẩn tối ưu sau khi được bảo quản là các sản
phẩm phải vô khuẩn và không bị mất đi những đặc
tính sinh học vốn có của nó. Hầu hết các sản phẩm
mô ghép cũng nh ư các vật liệu sinh học thay thế mô
đều đ ược khử trùng bằng tia gamma nhờ có những
ưu điểm như: loại trừ được mầm bệnh có trong mô,
không phá huỷ mô ở liều phù hợp và có thể giảm
đáng kể tính kháng nguyên của mô. Tại Việt Nam,
các Ngân hàng mô của Học viện Quân Y, Đại học Y
Phạm Ngọc Thạch và Trung tâm Công nghệ mô ghép
Đại học Y Hà Nội đều dùng tia gamma để khử trùng
mô ghép. Tuy nhiên, một số nghiên cứu chỉ ra rằng
liều chiếu xạ càng cao thì tổn thương mô càng lớn,
làm giảm các đặc tính vật lý cần thiết của mô ghép.
Theo nghiên cứu năm 2016 của Farzaneh Allaveisi
và Majid Mirzaei, liều chiếu 50kGy có thể giảm tới
30% độ bền cơ học của mô xương [6]. Liều chiếu xạ
thường dùng tại các Ngân hàng Mô các nước theo
tiêu chuẩn của Hiệp hội Ngân hàng Mô Châu Á -
Thái Bình Dương là 25kGy. Đây cũng là liều chiếu tia
gamma được sử dụng tại Trung tâm Công nghệ Mô
ghép - Bộ môn Mô - Phôi, Trường Đại học Y Hà Nội
[7], [8].
Vấn đề được nhiều nhà khoa học quan tâm trong
quá trình bảo quản lạnh sâu mảnh xương sọ có chiếu
tia gamma là chất lượng các mảnh xương sọ sẽ bị
ảnh hưởng như thế nào sau bảo quản? Liều chiếu tia
gamma tối ưu là bao nhiêu để vừa đạt hiệu quả khử
trùng cho mô ghép vừa không làm biến đổi đáng kể
cấu trúc vi thể cũng như độ bền của mảnh xương
vòm sọ? Đây là một lĩnh vực nghiên cứu rất cần thiết
để đánh giá chất lượng của mô ghép, nhất là mô
xương sọ ghép tự thân, nhằm nâng cao chất lượng
điều trị. Tuy nhiên, có rất ít nghiên cứu được thực
hiện trên xương vòm sọ người do những hạn chế
về vấn đề đạo đức y học. Do đó, chúng tôi tiến hành
đề tài nghiên cứu thực nghiệm trên chó: “Đánh giá
chất lượng mảnh xương sọ chó sau bảo quản theo
qui trình bảo quản trên thực nghiệm tại Đơn vị Bảo
quản mô - Bệnh viện Trường Đại học Y Dược Huế”
để đánh giá chất lượng mô xương sọ sau bảo quản,
với các mục tiêu:
1. Đánh giá sự biến đổi về độ bền và cấu trúc vi
thể của mảnh xương vòm sọ chó sau bảo quản lạnh
sâu có chiếu tia gamma.
2. Đánh giá hiệu quả khử khuẩn của tia gamma
đối với xương vòm sọ chó sau chiếu xạ.
2. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Đối tượng nghiên cứu
- Mảnh xương vòm sọ chó: lấy từ các chó ta khỏe
mạnh (không phân biệt đực cái) có trọng lượng
khoảng 10 kg/con.
- Tiêu chuẩn chọn mẫu: Chọn vào nhóm nghiên
cứu các mảnh xương vòm sọ chó có cấu trúc vi thể
bình thường:
• Chất căn bản xương mịn, đồng nhất, có nhiều
ổ xương hình bầu dục hoặc hình tròn, thấy được các
tế bào xương bên trong ổ xương.
• Cấu trúc của các lá xương rõ.
• Các hốc tủy thông nhau, ngăn cách nhau bởi các
vách xương, trong hốc tủy chứa các tế bào máu: hồng
cầu, bạch cầu, tế bào nhân khổng lồ
- Lấy các mảnh xương vòm sọ có kích thước
khoảng 4 x 4 cm ở vùng đỉnh trán, theo nguyên tắc
đối xứng qua đường dọc giữa.
- Sau khi được cắt rời khởi cơ thể sống, các mảnh
xương được xử lý theo quy trình xử lý xương sọ và
bảo quản ở nhiệt độ -85 0C tại Đơn vị Bảo quản Mô,
Bệnh viện Trường Đại học Y Dược Huế.
2.2. Cỡ mẫu: 50
2.3. Phân lô nghiên cứu
Mỗi mảnh xương vòm sọ chó được được cưa
thành 2 phần bằng nhau theo đường dọc giữa gồm
lô A: lô chứng, chỉ bảo quản ở -85 0C, không chiếu xạ
và lô B: lô thực nghiệm, bảo quản ở -85 0C và chiếu
xạ liều 25 KGy.
2.4. Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu thực
nghiệm
2.4.1. Quy trình thu nhận, xử lý và bảo quản
lạnh sâu:
- Áp dụng quy trình bảo quản xương vòm sọ
người của Hiệp Hội Ngân hàng Châu Á - Thái Bình
Dương (APASTB) [9].
32
Tạp chí Y Dược học - Trường Đại học Y Dược Huế - Tập 9, số 4 - tháng 7/2019
- Nhiệt độ bảo quản: -85 0C
- Thời gian bảo quản: 3 tháng
2.4.1. Chiếu xạ:
- Lô xương vòm sọ chó thực nghiệm được chiếu
xạ liên tục trong 24 giờ với liều chiếu 25 kGy tại
Trung tâm Chiếu xạ quốc gia (Hà Nội). Trước, trong
và sau chiếu xạ các mảnh xương vòm sọ chó được
bảo quản trong đá khô.
- Liều chiếu 25 kGy là liều chiếu xạ được Hiệp
Hội Ngân Hàng Mô Châu Á - Thái Bình Dương khuyến
cáo.
2.4.2. Phương pháp đo độ bền xương [10]
Đo lực kháng uốn của các mảnh xương vòm sọ
chó theo từng cặp trước và sau chiếu xạ, xác định
lực phá hủy (lực kháng uốn) các mẫu xương sọ bằng
máy đo độ bền vật liệu phòng thí nghiệm Triaxial
load frame 50kN của Mỹ, trong cùng một điều kiện
nhiệt độ, độ ẩm với kích thước mỗi mẫu đo là 10mm
x 40 mm.
2.4.4. Phương pháp nghiên cứu mô học:
- Kỹ thuật làm tiêu bản mô học: Áp dụng quy
trình làm tiêu bản mô học thường quy tại Bộ môn
Mô Phôi, trường Đại học Y Dược Huế
- Quan sát và chụp ảnh vi thể bằng kính hiển vi
truyền hình chụp ảnh Nikon. Quan sát cấu trúc vi thể
của mảnh xương vòm sọ chó trước và sau chiếu xạ ở
độ phóng đại x 100 và x 400.
2.4.5. Phương pháp đánh giá hiệu quả khử
trùng của tia gamma:
- Nuôi cấy vi khuẩn các mảnh xương vòm sọ lần
1: ngay trước khi thu nhận mảnh xương vòm sọ chó.
- Nuôi cấy vi khuẩn các mảnh xương vòm sọ lần 2
sau khi mảnh xương vòm sọ chó đã được bảo quản
lạnh sâu và chiếu xạ.
- Quy trình thực hiện tại Khoa Vi sinh - Bệnh viện
Đại học Y Dược Huế.
2.4.6. Chỉ tiêu nghiên cứu
- Kết quả nuôi cấy vi khuẩn của các mảnh xương
vòm sọ chó trước và sau chiếu xạ
- Cấu trúc vi thể của mảnh xương vòm sọ chó
trước và sau chiếu xạ: Chất nền mô xương, lá xương,
tế bào xương, hốc tủy
- Độ bền cơ học mảnh xương vòm sọ chó trước
và sau chiếu xạ
3. KẾT QUẢ
3.1. Sự biến đổi về cấu trúc vi thể xương vòm sọ chó sau chiếu xạ
Hình 3. 1. Hình ảnh vi thể mô xương vòm sọ lô chứng (A
1
: HE x 100; A
2
: HE x 400), lô hấp thụ tia gamma
liều 25 kGy (B
1
: HE x 100; B
2
: HE x 400).
1. Tế bào xương, 2. Chất căn bản, 3. Hốc tủy
A1 A2
B1 B2
33
Tạp chí Y Dược học - Trường Đại học Y Dược Huế - Tập 9, số 4 - tháng 7/2019
Kết quả đánh giá vi thể các mẫu xương vòm sọ chó ở cả lô chứng và lô thực nghiệm, chúng tôi đều nhận
thấy mô xương vòm sọ chó có chất căn bản ưa acid, các lá xương chạy song song và có cấu trúc tương đối rõ.
Trên các lá xương có nhiều ổ xương hình tròn hay hình bầu dục chứa tế bào xương. Bào tương tế bào xương
ưa acid có thể nhìn thấy nhân bắt màu tím, nhân tròn hạt nhân rõ. Tùy vị trí cắt mà ta có thể nhìn thấy rõ bào
tương, nhân tế bào xương. Hình thái cấu tạo của sợi collagen vùi trong chất căn bản của mô xương không
quan sát được ở mức độ vi thể.
Như vậy quan sát cấu trúc mô vòm xương vòm sọ chó được bảo quản lạnh sâu và chiếu tia gamma liều 25
KGy, ở mức độ vi thể không phát hiện thấy các tổn thương mô và tế bào.
3.2. Sự biến đổi độ bền cơ học của mô xương vòm sọ chó sau bảo quản lạnh sâu và chiếu xạ
Độ bền cơ học của mô xương vòm sọ chó được xác định bằng lực kháng uốn của mô xương
Bảng 3.2. Kết quả đo lực kháng uốn cơ học mô xương vòm sọ chó.
Lô nghiên cứu
Lực kháng uốn (Mpa)
X
P
Lô chứng (n = 50) 11,59 ± 0,64
p < 0,001
Lô thực nghiệm (n = 50) 10,63 ± 0,78
Theo kết quả bảng 3.2, độ bền cơ học giảm có ý nghĩa thống kê sau chiếu xạ. Trung bình lực kháng uốn của
các mảnh xương vòm sọ chó sau chiếu xạ thấp hơn các mảnh xương vòm sọ chó trước chiếu xạ là 0,954 Mpa.
Mức độ suy giảm độ bền cơ học của mô xương vòm sọ chó sau chiếu xạ là 8,28% (p < 0,001).
3.3. Kết quả nuôi cấy vi khuẩn mô xương vòm sọ chó
Trong 50 mẫu được cấy khuẩn ngay khi thu nhận mẫu, có 39 mẫu xương vòm sọ (78%) có kết quả nuôi cấy
vi khuẩn dương tính, 11 mẫu có kết quả âm tính (22%). Sau bảo quản lạnh sâu -85 0C và chiếu xạ liều 25 KGy,
tất cả 50 mẫu được kiểm tra vi khuẩn lần 2 đều cho kết quả âm tính (100%).
Bảng 3.3. Kết quả cấy khuẩn các mẫu xương vòm sọ chó
Loại mẫu
Kết quả
Trước chiếu xạ
n = 50
Sau chiếu xạ
n = 50
SL % SL %
Âm tính 11 22 50 100
Dương tính 39 78 0 0
4. BÀN LUẬN
4.1. Về sự biến đổi cấu trúc vi thể của mô xương
vòm sọ chó sau bảo quản lạnh sâu có chiếu tia
gamma
Trong nghiên cứu của chúng tôi, các mảnh xương
vòm sọ chó ở cả lô chứng và lô thực nghiệm đều
được bảo quản lạnh sâu ở -85 0C trong 3 tháng. Các
mảnh xương vòm sọ ở lô thực nghiệm được tiếp tục
chiếu xạ liều 25 kGy sau bảo quản lạnh sâu. Trên tiêu
bản nhuộm HE, cho thấy không có sự khác nhau về
chất căn bản của mô xương giữa các lô chứng và lô
thực nghiệm. Quan sát cấu trúc vi thể xương vòm
chó ở cả 2 lô đều thấy chất căn bản mô xương mịn,
ưa acid, không có cấu trúc; các lá xương chạy song
song tương đối rõ; trên lá xương quan sát được
nhiều ổ xương chứa tế bào xương bình thường.
Hình thái cấu tạo của sợi collagen trong chất căn
bản mô xương không quan sát được ở mức độ vi
thể. Theo các nghiên cứu của Fölscha C. và cộng sự
(2012), Pelker R.R và cộng sự (1984), các đặc tính
vật lý, sinh học của xương không bị ảnh hưởng bất
lợi nào khi bảo quản ở nhiệt độ từ -70 0C đến -1960C
[11], [12]. Ngoài ra, các đặc tính của xương vẫn
không thay đổi vì enzym bị bất hoạt hoàn toàn khi
mô được bảo quản lạnh ở nhiệt độ -80 0C trong 3
năm [11]. Ở nhiệt độ bảo quản lạnh-85 0C trong 3
tháng, mảnh xương vẫn không bị biến tính, cấu trúc
mô xương vẫn không bị ảnh hưởng bởi nhiệt độ và
thời gian bảo quản [13].
Trong nghiên cứu của chúng tôi, lô thực nghiệm
được bảo quản lạnh ở -85 0C và được tiệt trùng
bằng chiếu xạ tia gamma nguồn Cobalt 60, liều 25
kGy. Hiện nay, chiếu xạ bằng tia gamma là phương
pháp vô trùng phổ biến nhất cho mô ghép [13], [15].
Kết quả nghiên cứu của chúng tôi ở lô chứng cho
thấy không có sự biến đổi cấu trúc vi thể của tất cả
các mảnh xương vòm sọ chó sau chiếu xạ bằng tia
gamma liều 25 kGy. Ngoài ra, chúng tôi không quan
sát được sự đứt gãy của các sợi collagen ở mức độ
vi thể. Kết quả này phù hợp với nghiên cứu của Lê
Thị Hồng Nhung (2010) [7], Bùi Thanh Thủy (2016)
[16]. Chúng tôi chưa tìm thấy công trình nghiên cứu
34
Tạp chí Y Dược học - Trường Đại học Y Dược Huế - Tập 9, số 4 - tháng 7/2019
nào chỉ ra sự biến đổi cấu trúc hình thái vi thể của
mô xương trước và sau chiếu xạ. Tuy nhiên, một số
công trình nghiên cứu đã chỉ ra rằng, với liều chiếu
từ 25 kGy trở lên, quan sát dưới kính hiển vi điện
tử quét ở mức độ siêu cấu trúc, có thể nhận thấy
được sự đứt gãy các sợi collagen trong chất căn bản
xương [7], [17]. Nghiên cứu của Lê Thị Hồng Nhung
(2006) cho thấy: ở mức độ siêu vi thể, tia gamma
liều 10 kGy và 15 kGy không làm biến đổi cấu trúc hệ
thống sợi collagen trong chất căn bản xương, nhưng
liều 25 kGy làm biến đổi các sợi collagen, đứt và co
rút một số sợi collagen [7]. Điều này chứng tỏ rằng
có thể có sự đứt gãy các sợi collagen trong chất căn
bản của mô xương sọ chó sau bảo quản và chiếu xạ
trong nghiên cứu của chúng tôi mà không thể quan
sát được dưới kính hiển vi quang học.
Sợi collagen tham gia trực tiếp vào độ chịu lực
cơ học của xương, do đó tổn thương sợi collagen
sẽ làm giảm độ bền của mô xương. Ngoài ra sợi
collagen còn tham gia dẫn tạo xương trong quá trình
sinh xương. Do đó, trong thực hành lâm sàng, mô
ghép xương tỏ ra chậm liền khi bị chiếu xạ liều cao
> 50 kGy [17].
4.2. Sự biến đổi về độ bền cơ học của mô xương
vòm sọ chó
Sau khi chiếu xạ mảnh sọ với liều 25 kGy ở nhiệt
độ -85 0C , chúng tôi tiến hành đo lực kháng uốn của
các mảnh xương sọ chó ở cả lô chứng và lô thực
nghiệm ở cùng một điều kiện nhiệt độ, độ ẩm với
kích thước mỗi mẫu đo là 10 mm x 40 mm. Kết quả
sau đo cho thấy độ kháng uốn trung bình của các
mẫu xương sọ chó ở lô chứng là 11,59 Mpa, ở lô
thực nghiệm là 10,63 Mpa. Như vậy, sau khi chiếu
xạ, độ bền cơ học của mảnh xương vòm sọ chó giảm
8,28% so với nhóm không chiếu xạ. Sự khác biệt có
ý nghĩa thống kê với p < 0,001. Kết quả về sự giảm
độ kháng uốn mô xương sau chiếu xạ trong nghiên
cứu của chúng tôi phù hợp với các nghiên cứu của
các tác giả trước đây như: nghiên cứu của Lê Thị
Hồng Nhung 2006 [7] với tỷ lệ suy giảm độ đàn hồi
là 8,89%, các nghiên cứu khác của Huynh Nguyen,
David A.F.Morgan [18] cũng cho kết quả tương tự.
Nguyên nhân của các biến tính cơ lí mô ghép
dưới tác dụng của bức xạ chủ yếu do hiện tượng
cắt mạch liên kết trên các phân tử collagen của chất
căn bản. Bức xạ gamma ảnh hưởng xấu đến đặc
tính cơ học, sinh học và tính chất của mô xương.
Bức xạ gamma với liều chiếu càng cao thì hiện
tượng phân cắt các sợi collagen diễn ra càng nhiều
[19], đặc biệt là các sợi collagen chéo (nối giữa các
bó sợi collagen). Sợi collagen tham gia trực tiếp
vào độ chịu lực cơ học của xương, do đó, sự đứt
gãy các sợi collagen làm cho độ bền của mô xương
giảm. Nghiên cứu của Anderson và CS (1992) cho
thấy collagen ở trạng thái đông lạnh chiếu liều 25
kGy tan không đáng kể [20]. Nghiên cứu của Loty
B. và CS (1990) chiếu liều 27 kGy trên xương đặc
người lực nén và modul đàn hồi giảm 20% [2]. Theo
nghiên cứu năm 2016 của Farzaneh Allaveisi và
Majid Mirzaei, liều chiếu 50kGy có thể giảm tới 30%
độ bền cơ học của mô xương [6].
Bức xạ gamma phân chia chuỗi polypeptide làm
giải phóng các gốc tự do ở những sợi collagen chéo
gây ra hiện tượng đứt và vón cục của sợi collagen
dẫn tới làm tổn thương mạng lưới không gian do
các sợi collagen tạo nên [21]. Vì vậy khi có lực tác
động lên mảnh xương thì khả năng chia sẻ lực tác
động lên các các cấu trúc mạng lưới collagen bị
giảm xuống gây ra hiện tượng giảm đặc tính cơ học
của xương. Ngoài ra, việc mạng lưới không gian sợi
collagen bị tổn thương tạo điều kiện cho các yếu
tố ăn mòn khác hủy hoại chất cơ bản một cách dễ
dàng hơn. Trên thực tế việc phục hồi khuyết sọ bằng
xương ghép có hai chức năng chính, đó là chức năng
sinh xương và chức năng chống đỡ cơ học. Đặc tính
này chủ yếu do các sợi liên kết có trong xương, trong
đó thành phần chính là sợi collagen đảm nhiệm. Các
chất vô cơ nói chung và chất vô cơ có trong xương
chủ yếu là CaC03 không bị tác động của tia xạ. Thành
phần chính chịu tác động của tia xạ là các sợi collagen
[22]. Nhiều tác giả cũng chỉ ra rằng, ở liều cao (> 25
kGy) tia xạ có khả năng làm biến đổi các đặc tính sinh
học của các sợi collagen, từ đó giảm độ bền cơ học
của xương. Ngoài ra, trong thực hành lâm sàng, mô
ghép xương tỏ ra chậm liền khi bị chiếu xạ liều cao
> 50 kGy [17]. Do đó, trong bảo quản xương sọ để
ghép tự thân cần lựa chọn liều chiếu tia gamma phù
hợp để không làm giảm độ bền mô xương quá giới
hạn cho phép.
4.3. Về hiệu quả khử khuẩn của tia gamma ở
liều 25 kGy lên mô xương vòm sọ.
Kết quả kiểm tra vi khuẩn các mẫu xương vòm
sọ chó trong cùng một điều kiện cho thấy tất cả các
mẫu đều có kết quả âm tính với nuôi cấy vi khuẩn.
Kết quả này phù hợp với kết quả của các nghiên cứu
của Lê Thị Hồng Nhung (2006) [7], Bùi Thanh Thủy
(2015) [16], Thomas F.B (2005) [23]. Điều này chứng
tỏ với liều chiếu 25 KGy, tia gamma có khả năng diệt
khuẩn hoàn toàn đối với các chủng loại vi khuẩn
thường nhiễm trong các loại mô.
Tia gamma là tia có bước sóng ngắn nhưng mang
năng lượng lớn, đủ sức tiêu diệt hầu hết vi sinh vật
trên đường đi của nó. Theo một số tác giả, ở liều
chiếu 10 kGy tia gamma đã có khả năng diệt khuẩn
[24], [25]. Tuy nhiên, tính kháng xạ của các vi sinh
vật là khác nhau, do đó, vật phẩm bị nhiễm bởi vi
35
Tạp chí Y Dược học - Trường Đại học Y Dược Huế - Tập 9, số 4 - tháng 7/2019
sinh vật có tính kháng xạ cao thì cần phải dùng liều
bức xạ ion hóa cao hơn để khử trùng nên ít có Ngân
hàng mô sử dụng liều chiếu dưới 25 kGy. Mặt khác,
việc khống chế nhiễm các vi sinh vật ban đầu cũng
gặp nhiều khó khăn, mặc dù mô được lấy trong
điều kiện vô khuẩn ngoại khoa, song quá trình vận
chuyển, xử lý, đóng gói cũng có thể bị lây nhiễm. Tại
Mỹ, các ngân hàng mô thuộc Hiệp hội Ngân hàng Mô
Hoa Kỳ (AATB) sử dụng liều chiếu 15 kGy. Tuy nhiên,
tại Việt Nam và các nước có Ngân hàng mô thuộc
Hiệp Hội Ngân hàng mô Châu Á - Thái Bình Dương
đều sử dụng liều chiếu an toàn là 25 kGy [14].
5. KẾT LUẬN
Mô xương vòm sọ chó sau chiếu tia gamma liều
25KGy và bảo quản lạnh sâu ở -85 0C trong 3 tháng
tại Đơn vị Bảo quản Mô - Bệnh viện Trường Đại học
Y Dược Huế:
- Cấu trúc của mô học ở mức độ vi thể không có
biến đổi;
- Độ bền cơ học giảm không đáng kể;
- Âm tính với kiểm tra nuôi cấy vi khuẩn.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Ngô Duy Thìn, Quách Thị Yến (2012). “Đặc điểm dịch
tễ các mảnh xương vòm sọ bảo quản lạnh sâu tại labo bảo
quản mô Đại học Y Hà Nội từ 2002 đến 2010”, Tạp chí Y học
thực hành, 9-840, trang 57-59.
2. Loty B, courpied JP, Tomeno B, Postel M, Forest
M, Abelanet R (2005), “Bone allografts sterilized by
irradiation. Biological properties, procurement and results
of 150 massive allografts”, Scand J Surg 94 (1),pp: 67 – 70
3. Nguyễn Công Tô (2009). “Tạo hình khuyết xương
vòm sọ bằng mảnh vá carbon “Intost -2”, Tạp chí Nghiên
cứu y học, 62(3), trang 87-90.
4. Neumann A, Kevenhoerster K (2011). Biomaterials
for craniofacial reconstruction, Published online March10.
5. Sultan SM, Davidson EH, Butala P et al (2011).
Interval cranioplasty: comparison of current standards,
Plast Reconstr Surg, May;127(5):1855-1864.
6. Farzaneh Allaveisi và Majid Mirzaei (2016). Effects
of high-dose gamma irradiation on tensile properties
of human cortical bone: “Comparison of different
radioprotective treatment methods”, Journal of the
mechanical behavior of biomedical materials 61, p: 475–
483.
7. Lê Thị Hồng Nhung (2006). Nghiên cứu thực nghiệm
lựa chọn liều chiếu tia gamma khử trùng cho mảnh xương
vòm sọ bảo quản lạnh sâu, Luận văn Thạc sỹ Y học, Trường
Đại học Y Hà Nội.
8. Ngô Duy Thìn, Lê Thị Hồng Nhung (2012). “Khử khuẩn
bằng tia gamma và ảnh hưởng đến độ bền mô xương vòm
sọ chó bảo quản lạnh sâu”, Tạp chí Nghiên cứu Y học, Phụ
trương 80, số 3C, trang135-139.
9. APASTB (1989). Asia Pacific Association of Surgical
Tissue Banking.
10. Đỗ Quang Thiên, Phan Văn Sỹ (2013), Giáo trình
Vật liệu xây dựng, NXB Đại Học Huế
11. Fölsch C, Mittelelmeier W, Bilderbeek U et al (2012).
“Effect of Storage Temperature on Allograft Bone”, Transfus
Med Hemother, Feb;39(1): 36- 40.
12. Pelker R.R., Friedlaender G.E., Markham C.T. et
al. (1984). “Effects of Freezing and Freeze-Drying on
the Biomechanical Properties of Rat Bone”, Journal of
Orthopaedic Research, 1(4), p405–411.
13. Nguyễn Thị Chuyên (2007). Biến đổi cấu trúc và
khả năng dung nạp sau ghép đồng loại xương tươi, đông
khô và bảo quản lạnh sâu trên thực nghiệm, Luận văn
Thạc sĩ Y học, Trường Đại học Y Hà Nội
14. Dziedzic-Goclawska Anna Et al. (2005), “Irradiation
as a Safety Procedure in Tissue Banking” , Cell and Tissue
Banking, September 2005, Volume 6, Issue 3, pp 201–
219
15. Singh R., Singh D., Singh A. (2016),
“Radiation sterilization of tissue allografts: A review”.
World J Radiol, 8(4), p355-369.
16. Bùi Thanh Thủy (2015), Đánh giá hiệu quả của
phương pháp ghép tự thân mảnh xương vòm sọ bảo quản
lạnh sâu trên thực nghiệm và ở người, Luận án tiến sỹ y
học, Trường Đại học Y Hà Nội.
17. Burchardt H (1997), “Biology of bone
transplantation” Orthop. Clin. North. Am.18, pp: 187-196.
18. Nguyen H., Morgan D.A, Forwood M.R. (2007).
“Sterilization of allograft bone: is 25 kGy the gold standard
for gamma irradiation”. Cell Tissue Bank,8(2), p81-91.
19. Artur Kaminski, Anna Jastrzebska et all.
(2012), “Effect of gamma irradiation on mechanical
properties of human cortical bone: influence of different
processingmethods”, Cell Tissue Bank (2012) 13: p 363–
374.
20. Anderson MJ, Keyak JH and Skinner HB (2002).
“Compressive mechanical properties of human cancellous
bone after gamma irradiation irradiation”, J Bone Joint
Surg, 74A, 5, p747 – 752
21. Rita Singh, Durgeshwer Singh, Antaryami Singh
(2016) “Radiation sterilization of tissue allografts: A
review”, World J Radiol 2016 April 28; 8(4): p355-369.
22. Nguyễn Ngọc Bá và cộng sự (2004). “Nghiên cứu
ứng dụng phẫu thuật tạo hình khuyết vòm sọ bằng xương
tự thân”. Hội nghị tổng kết 10 năm chấn thương thần kinh,
36
Tạp chí Y Dược học - Trường Đại học Y Dược Huế - Tập 9, số 4 - tháng 7/2019
Hội Phẫu thuật thần kinh Việt Nam, trang 86-87
23. Thomas F. Baker, Chad J.Ronholdt, MBA and Simon
Bogdansky, Ph.D (2005), “Validating low dose gamma
sterilization for allografts using iso 111337 method 2B”,
Cell and Tissue Banking 6, pp: 271 -275
24. Aydin S, Kucukyuruk B, Abuzayed B et al (2011).
“Cranioplasty: Review of materials and techniques”, J
Neurosci Rural Pract, Jul – Dec; 2(2): p162 – 167.
25. Rozen B., Brosh T., Salai M. et al. (2009). “The
effects of prolonged deep freezing on the biomechanical
properties of osteochondral allografts”, Cell and Tissue
Banking, 10(1), p27-31.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
danh_gia_chat_luong_manh_xuong_vom_so_cho_sau_bao_quan_tai_d.pdf