Receiving all of virtually untreated waste water of handicraft villages along
river bank and wastewater from domestic sewage, hospital, industries, etc of Hanoi city, Nhue river
is heavily polluted. This study provides the current status of water quality of Nhue river by water
quality parameters in the years 2011-2013. The study results show that typical parameters of
organic pollution, nutrients and microbial contamination are much higher compared to the
permitted standards (QCVN 8/2008 B1 - water supply for agriculture). At some places, COD is 4.5
times higher than the B1 standard, ammonia concentration is ten times higher than the standard B1,
and coliform concentration is 20 times higher than B1 standard. Compared to some other reports
on water quality of Nhue river such as report of Vietnam Environment Administration (2010), the
pollution of Nhue River has signal of redcing at all survey locations. However, the concentrations of
organic matter, nutrient, total coliform . are still quite high, not enough quality for agricultural
water supply. To reduce polluted level of Nhue riverwater, the regular dredging, sewage collection
of residential areas, village areas, preliminary treatment before discharge into rivers and
propaganda to enhance environmental protection consciousness of people are effective actions in
order to improve water quality to meet clean water needs for river basin region .
9 trang |
Chia sẻ: honghp95 | Lượt xem: 668 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đánh giá chất lượng môi trường nước sông Nhuệ đoạn từ đầu nguồn tới Cầu Chiếc, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
280
Tạp chí Khoa học và Công nghệ Biển; Tập 14, Số 3; 2014: 280-288
DOI: 10.15625/1859-3097/14/3/3907
ĐÁNH GIÁ CHẤT LƯỢNG MÔI TRƯỜNG NƯỚC SÔNG NHUỆ
ĐOẠN TỪ ĐẦU NGUỒN TỚI CẦU CHIẾC
Vũ Thị Phương Thảo
Đại học Mỏ-Địa chất Hà Nội
Email: vtpthao1975@gmail.com
Ngày nhận bài: 17-4-2014
TÓM TẮT: Báo cáo này nghiên cứu hiện trạng chất lượng nước sông Nhuệ (đoạn từ đầu nguồn
tới Cầu Chiếc - đoạn nhận nước thải chính của thành phố Hà Nội) thông qua các thông số chất
lượng nước trong thời gian 2011-2013. Kết quả nghiên cứu cho thấy hàm lượng các chất hữu cơ,
các chất dinh dưỡng và coliform đều cao hơn nhiều lần so với quy chuẩn cho phép (QCVN 8/2008
loại B1 - Loại nước cấp cho nông nghiệp). Hàm lượng COD có chỗ cao gấp 4,5 lần tiêu chuẩn B1,
hàm lượng amoni có nơi cao gấp chục lần tiêu chuẩn B1 còn mật độ coliform có nơi cao gấp 20 lần
tiêu chuẩn B1. So với một số báo cáo khác về chất lượng nước sông Nhuệ như Báo cáo của Tổng
cục môi trường (năm 2010) thì tình trạng ô nhiễm sông Nhuệ đã có dấu hiệu giảm ở tất cả các điểm
với hầu hết các thông số. Tuy nhiên hàm lượng các chất hữu cơ, các muối dinh dưỡng, coliform
tổng số vẫn còn khá cao, không đủ điều kiện cấp nước cho nông nghiệp. Để chất lượng nước
sông Nhuệ bớt ô nhiễm hơn nữa, việc nạo vét lòng sông thường xuyên, thu gom nước thải của các
cụm dân cư, các khu làng nghề, xử lý sơ bộ trước khi xả thải vào dòng sông, tuyên truyền để nâng
cao ý thức bảo vệ môi trường của người dân là những việc làm có hiệu quả nhằm nâng cao chất
lượng nước đáp ứng nhu cầu nước sạch cho vùng lưu vực sông
Từ khóa: Chất lượng nước, sông Nhuệ, tiêu chuẩn cho phép, ô nhiễm vi sinh, ô nhiễm hữu cơ.
MỞ ĐẦU
Là phụ lưu của sông Đáy, có chiều dài
72 km, sông Nhuệ bắt đầu từ cống Liên Mạc,
chảy qua 8 quận huyện của thành phố và đổ
vào sông Đáy của tỉnh Hà Nam tại cầu Phủ Lý
[1]. Sông Nhuệ đoạn chảy qua thành phố Hà
Nội dài 64 km, chảy qua các quận Cầu Giấy,
Hà Đông, huyện Từ Liêm, Thanh Trì, Hoài
Đức, Thường Tín, Thanh Oai, Phú Xuyên, xưa
là nguồn nước cấp quan trọng cho các hoạt
động sống của cư dân vùng lưu vực, nay là
nguồn cấp nước cho những cánh đồng nông
nghiệp rộng lớn cung cấp các sản phẩm nông
nghiệp cho Hà Nội. Diện tích vùng lưu vực
khoảng gần 7.700 km² hiện là nơi cư trú của
khoảng gần 10 triệu người. Đây là khu vực có
mật độ dân số cao nhất cả nước, hơn một triệu
người/km2, cũng là vùng có sự phát triển kinh
tế xã hội nhanh chóng kèm theo tình trạng đô
thị hóa mạnh mẽ. Khoảng hơn chục năm trở lại
đây, người dân đã phải chứng kiến hiện tượng
nước sông có màu đen, bốc mùi hôi thối và cá
chết hàng loạt nổi trên mặt sông. Chất lượng
môi trường nước sông đã bị xuống cấp
trầm trọng.
Nguyên nhân chính gây ô nhiễm cho dòng
sông Nhuệ là do các nguồn nước thải chưa qua
xử lý hoặc xử lý chưa đạt tiêu chuẩn cho phép
đổ xả trực tiếp ra sông. Đó là các dòng thải từ
khoảng 40 làng nghề nằm ven sông hoặc gần
sông như dệt Vạn Phúc, dệt in hoa La Nội, chả
giò Ước Lễ, bún Thanh Lương, gốm sứ Bát
Tràng Các dòng thải này cũng như các hoạt
động sản xuất của nó mang tính tự phát với quy
Đánh giá chất lượng môi trường nước
281
mô không lớn, đan xen với khu sinh hoạt, bao
gồm nhiều nguồn thải phân tán trong phạm vi
những khu vực rộng lớn, là những nguồn thải
rất khó kiểm soát [2]. Cùng với những dòng
thải mang đậm nét đặc thù của hoạt động sản
xuất theo ngành nghề và loại hình sản phẩm đó,
sông Nhuệ còn “gánh” trọn vẹn
600.000 m3 nước thải/ngày đêm của Hà Nội -
thành phố với khoảng hơn 8 triệu dân sinh
sống, gồm rất nhiều loại hình nước thải sinh
hoạt, bệnh viện, dịch vụ chưa qua xử lý đổ
vào. Do đó, sông Nhuệ đậm đặc hóa chất và
chất thải hữu cơ.
Sông Nhuệ bị ô nhiễm nặng nề nhưng dân
cư quanh vùng vẫn dùng nước sông Nhuệ để
tưới cho những cánh đồng nông nghiệp. Liệu
chất lượng nước sông Nhuệ có an toàn để cung
cấp cho mục đích này không? Câu trả lời nằm ở
kết quả nghiên cứu về thực trạng nước sông bị
ô nhiễm đã được phản ánh qua các thông số
chất lượng nước được thu thập trong suốt thời
gian 3 năm với 15 đợt lấy mẫu và phân tích
mẫu nước sông.
TÀI LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN
CỨU
Vị trí, thời gian, tầng nước thu mẫu
Việc lấy mẫu nước sông được thực hiện vào
5 đợt mỗi năm tại 5 vị trí trên sông Nhuệ từ đập
Liên Mạc đến Cầu Chiếc (hình 1) vào các năm
2011, năm 2012 và năm 2013. Tọa độ của điểm
lấy mẫu được xác định bằng thiết bị định vị
toàn cầu GPS (bảng 1). Tầng nước thu mẫu là
tầng nước mặt.
Hình 1. Các vị trí lấy mẫu trên sông Nhuệ
Bảng 1. Vị trí và thời gian lấy mẫu nước
STT Vị trí lấy mẫu
Tọa độ Thời gian lấy mẫu
Vĩ độ Kinh độ Mùa khô Mùa mưa
1 Liên Mạc 21005'18'' 105046'30'' Đợt 1 Đợt 2 Đợt 5 Đợt 3 Đợt 4
2 Phúc La 20057'24'' 105047'36''
27-29/3 15-17/3 16-18/11 28-29/7 15-17/9 3 Cầu Tó 20
057'06'' 105048'42''
4 Cự Đà 20056'06'' 1050 48'18''
5 Cầu Chiếc 20052'06'' 105050'06''
Dụng cụ, phương pháp thu, bảo quản và
phân tích mẫu nước
Dụng cụ lấy mẫu là can nhựa có dung tích
2 L. Phương pháp thu mẫu tuân theo quy chuẩn
lấy mẫu trong “Hướng dẫn lấy mẫu ở sông và
suối - TCVN 6663-6:2008” [3]. Mẫu lấy xong
được vận chuyển ngay đến phòng thí nghiệm,
được bảo quản ở 40C và tuân theo TCVN 6663-
1995. Mẫu được phân tích trong phòng thí
nghiệm với các chỉ tiêu và phương pháp theo
bảng 2 [4].
Bảng 2. Các chỉ tiêu phân tích mẫu nước và phương pháp phân tích
STT Chỉ tiêu phân tích Đơn vị đo Phương pháp phân tích
1 pH TCVN 6492-1999
2 Hàm lượng oxy hòa tan (DO) mg/l Đo nhanh bằng máy đo chất lượng nước đa chỉ tiêu TOA WQC - 22A
3 Tổng chất rắn lơ lửng(TSS) mg/l TCVN 6625-2000
4 Nhu cầu oxy hóa học (COD) mg/l TCVN 6491-1999
5 Nhu cầu oxy sinh học (BOD5 ở 200C) mg/l TCVN 6001-1995- Phương pháp cấy và pha loãng
6 Amoni (NH4+) (tính theo N) mg/l TCVN 5988 -1995. Phương pháp chưng cất và chuẩn độ
7 Photphat (PO43-) (tính theo P) mg/l TCVN 6494 -1999. Phương pháp xác định orthophosphate hòa tan bằng sắc ký lỏng ion
8 Coliform MPN/100ml TCVN 6187-1:1996 - Phát hiện và đếm vi khuẩn coliform
Vũ Thị Phương Thảo
282
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO
LUẬN
Qua các đợt đi điều tra khảo sát thực tế
cùng với kết quả phân tích mẫu nước trong 3
năm liên tục từ cuối tháng 3/2011 đến giữa
tháng 11/2013 vào 5 đợt mỗi năm, nhận thấy
chất lượng nước sông Nhuệ bị ô nhiễm khá
nặng. Đoạn đầu nguồn sông Nhuệ từ Liên Mạc
đến trước điểm nhập lưu với sông Tô Lịch (Cầu
Tó) có chiều dài khoảng 20 km lòng sông
tương đối thẳng và có chiều rộng ổn định từ 30
- 50 m. Đoạn sông này có những nhánh nhỏ là
các mương, kênh đào có chiều dài từ 3 - 6 km
phục vụ cho tưới tiêu, thoát nước, tiếp nhận
nước thải sinh hoạt, công nghiệp, các loại hình
dịch vụ và làng nghề trong lưu vực bao gồm
huyện Từ Liêm, quận Cầu Giấy, quận Hà
Đông. Trên đoạn sông này, mức độ ô nhiễm
tăng dần theo chiều dài đoạn sông. Tại Cống
Liên Mạc là đầu nguồn của sông, nơi tiếp nhận
nguồn nước từ sông Hồng nên lượng nước
cũng như chất lượng nước phụ thuộc nhiều vào
nước bổ sung từ sông Hồng, nước sông có độ
đục, hàm lượng chất rắn lơ lửng cao và đang bị
ô nhiễm bởi các chất hữu cơ, các muối dinh
dưỡng. Sự ô nhiễm tăng dần khi dòng sông tiếp
nhận nước thải của thành phố Hà Nội, đặc biệt
tại các điểm Phúc La, Cầu Tó, Cự Đà, Cầu
Chiếc, sau khi tiếp nhận nước từ các sông Cầu
Ngà, Kênh Phú Đô, kênh La Khê, có mang
theo nước thải từ các hoạt động sản xuất của
các làng nghề như làng nghề Vạn Phúc, Dương
Nội, Bún Phú Đô, các khu công nghiệp, khu
đô thị Mỹ Đình, Xa La, bệnh viện 198, bệnh
viện 103 và sông Tô Lịch với lượng nước thải
sinh hoạt của Hà Nội khoảng 600.000 m3/ngày
đêm đổ vào khiến dòng sông đen đặc, bốc mùi
và bị ô nhiễm nghiêm trọng. Nước trên sông
Nhuệ tại khu vực này không đủ tiêu chuẩn
nước cấp tưới cho nông nghiệp.
Bảng 3. Kết quả phân tích mẫu nước sông Nhuệ trong mùa khô và mùa mưa các năm 2011-2013
TT Các thông
số CLN
Đơn vị
tính
Mùa khô Mùa mưa QCVN 08:2008/BTNMT
Khoảng GTTB Khoảng GTTB A1 B1 B2
1 pH 7,14÷7,75 7,32 7,0÷ 7,5 7,18 6-8,5 5,5-9 5,5-9
2 DO mg/l 1,2 ÷ 5,1 2,5 2,3÷5,9 3,5 6 2 ≥2
3 TSS mg/l 27,5 ÷195 45,8 25÷ 52,5 36,7 20 50 100
4 COD mg/l 32÷ 134 88 15÷82 56 10 30 50
5 BOD5 mg/l 15÷54 30 6÷20 17 4 15 25
6 NH4+ mg/l 0,47÷3,94 2,2 0,15÷3,56 1,88 0,1 0,5 1
7 PO43- mg/l 0,08÷2,27 1,11 0,21÷ 0,75 0,6 0,1 0,3 0,5
8 Coliform MPN/ 100ml 2.200÷150.786 29.639 11.800÷71.667 58.959 2.500 7.500 10.000
Trong đó: GTGH (Giá trị giới hạn) A1- Sử dụng tốt cho mục đích cấp nước sinh hoạt và các mục đích
A2, B1, B2; GTGH B1- Dùng cho mục đích tưới tiêu thủy lợi hoặc mục đích B2; GTGH B2- Giao thông
thủy hoặc các mục đích khác với yêu cầu chất lượng nước thấp.
Chất lượng nước sông Nhuệ trong mùa khô
Vào các tháng mùa khô (các đợt khảo sát
1, 2, 5) nước sông đoạn đầu còn có màu xanh
đen, sau chuyển thành màu đen kịt, dòng chảy
thu nhỏ. Hệ sinh vật trên mặt sông quan sát
được rất nghèo nàn, ngoại trừ vài ngọn rau
muống và vài nhánh bèo tây thưa thớt, rất khó
khăn để có thể bắt gặp được những người sống
bằng nghề đánh bắt thủy sinh vật trên sông
Nhuệ, ngoại trừ có vài người câu lươn, bắt
ếch, nhái, gần như không có người đánh bắt cá
ở khúc sông này.
Hình 2. Diễn biến hàm lượng DO trên
sông Nhuệ vào mùa khô (Đợt 1, 2, 5)
Đánh giá chất lượng môi trường nước
283
Hình 3. Diễn biến hàm lượng COD trên
sông Nhuệ vào mùa khô (Đợt 1, 2, 5)
Hàm lượng oxy hòa tan (DO) đo được ở
sông Nhuệ rất thấp (hình 2). Ngoại trừ tại cống
Liên Mạc hàm lượng DO dao động từ 4,1 đến
5,2 tại các thời điểm khảo sát, đạt quy chuẩn
nước mặt Việt Nam loại nước cấp cho tưới tiêu
thủy lợi (QCVN 8/2008loại B1), còn ở các
điểm khác, hàm lượng DO luôn thấp hơn
QCVN 8/2008 loại B1. Hàm lượng DO có xu
hướng giảm dần, tại Phúc La, DO: 1,7 mg/l,
Cầu Tó DO 1,5 mg/l, tại Cự Đà 1,2 mg/l. Tại
Cầu Chiếc hàm lượng DO tăng, nằm trong
khoảng 2,1 - 2,6 mg/l, tuy nhiên vẫn không đạt
được mức QCVN 8/2008 loại B1.
Hình 4. Diễn biến hàm lượngBOD5 trên
sông Nhuệ vào mùa khô
Các thông số COD, BOD5 đặc trưng cho
các mức độ ô nhiễm hữu cơ của thủy vực ở
sông Nhuệ có hàm lượng rất cao, vượt quy
chuẩn QCVN 8/2008 loại B1. Cụ thể, trong các
đợt khảo sát vào mùa khô, hàm lượng COD ở
các điểm khảo sát luôn vượt quá ngưỡng cho
phép QCVN 8/2008 loại B1 (hình 3). Hàm
lượng COD cao gấp 4,5 lần tiêu chuẩn B1 tại
Cự Đà, gấp 4 lần tại Phúc La, Cầu Tó, gấp 3
lần ở Cầu Chiếc, gấp đôi ở Liên Mạc. BOD5
cao nhất tại Cầu Tó, gấp 3,5 lần tiêu chuẩn B1,
BOD5 gấp 3 lần giá trị giới hạn B1 tại Phúc La,
Cự Đà, Cầu Chiếc. Ở Liên Mạc, BOD5 cao hơn
giá trị giới hạn B1 vài mg/l (hình 4).
Hàm lượng NH4+ và PO43-rất cao và vượt
giá trị giới hạn B1 của QCVN8/2008 nhiều lần
(hình 5, 6). Hàm lượng NH4+ cao nhất tại Cầu
Tó (5,1 mg/l- gấp 10 lần giá trị giới hạn B1), tại
Cự Đà NH4+ là 3,52 mg/l - gấp hơn 7 lần giá trị
giới hạn B1. NH4+ thấp hơn ở các vị trí còn lại,
tại Cầu Chiếc là 1,88 mg/l, tại Phúc La:
1,73 mg/l, thấp nhất tại Liên Mạc đạt 0,67 mg/l,
cao gấp 1,5 lần giá trị giới hạn B1.
Hình 5.Diễn biến hàm lượngNH4+ trên
sông Nhuệ vào mùa khô
Hình 6. Diễn biến hàm lượngPO43- trên
sông Nhuệ vào mùa khô
Vũ Thị Phương Thảo
284
Hàm lượng PO43- ở các vị trí quan trắc nằm
trong khoảng 0,19 - 2,25 mg/l. Hàm lượng
PO43- cao nhất tại Cầu Tó = 2,25 mg/l, gấp 7,5
lần giá trị giới hạn B1 PO43- thấp nhất tại Liên
Mạc, dao động trong khoảng 0,19 - 1,21 mg/l.
Hàm lượng PO43- tại các điểm khác nằm trong
khoảng 0,52 - 2,03 mg/l, gấp đôi đến 7 lần giá
trị giới hạn B1.
Mật độ coliform tại sông Nhuệ cũng khá
cao. Vào mùa khô, ở tất cả các điểm khảo sát,
mật độ coliform cao gấp 3 đến 20 lần giá trị
giới hạn B1. Mật độ coliform cao nhất tại Cầu
Tó, Cự Đà là do ảnh hưởng của các dòng thải
sinh hoạt từ Hà Nội đổ vào qua sông Tô Lịch
(hình 7).
Hình 7. Diễn biến mật độ Coliform trên
sông Nhuệ vào mùa khô
pH đo được trong mùa khô nằm trong
khoảng 7,2 - 7,6, nước có tính kiềm yếu, luôn
nằm trong giá trị giới hạn ở tất cả các điểm
khảo sát.
Hàm lượng tổng chất rắn lơ lửng (TSS)
đo được nằm trong khoảng 17,7 - 49,5 mg/l,
thấp hơn giá trị giới hạn B1 ở tất cả các vị trí
khảo sát.
Chất lượng nước sông Nhuệ trong mùa mưa
So với mùa khô, vào mùa mưa, chất lượng
nước sông Nhuệ được cải thiện đáng kể do
nước mưa và nước bổ sung từ sông Hồng pha
loãng nước trong sông đi rất nhiều. Trong thời
điểm mùa mưa bắt gặp rất nhiều người sống
bằng nghề chài lưới đánh bắt cá tôm cua ốc,
chứng tỏ sự sống trong dòng sông Nhuệ đã
phong phú hơn mùa khô. Xuôi dọc theo sông,
quan sát thấy có nhiều loài động vật thủy sinh
như cá, tôm và thực vật như rau muống, bèo
tây phủ xanh trên nhiều khúc sông. Tuy
nhiên, qua những đợt quan sát và qua kết quả
phân tích mẫu nước thì sông Nhuệ vẫn còn bị
ô nhiễm nặng ở đoạn chảy qua khu vực Hà Nội
do dung tích và nồng độ các chất ô nhiễm có
trong các dòng nước thải từ các làng nghề, các
khu công nghiệp quá lớn, vượt quá khả năng
tự làm sạch của dòng sông. Hàm lượng oxy hòa
tan (DO) ở sông Nhuệ vào mùa mưa (hình 8)
nhìn chung cao hơn nhiều so với mùa khô. DO
mùa mưa cao hơn do dòng chảy sông được bổ
sung một lượng nước mưa lớn kèm theo dòng
chảy mạnh hơn làm gia tăng quá trình xáo trộn
nước sông. Tại Liên Mạc DO nằm trong
khoảng 5,5-5,9 mg/l xấp xỉ GTGH A1 của
QCVN 8/2008. Tuy nhiên, khi dòng chảy đón
nhận nước thải từ các quận huyện Từ Liêm,
Cầu Giấy, Hà Đông thì hàm lượng DO giảm đi
nhiều. Ở 4 điểm quan trắc còn lại hàm lượng
DO thấp hơn ở Liên Mạc, thấp nhất ở Cự Đà
(2,3 mg/l), Cầu Tó (2,5 mg/l), Cầu Chiếc
(2,5 mg/l), ở Phúc La cao hơn (3,2 mg/l). Như
vậy, ở 4 điểm này hàm lượng DO thấp và
không đạt GTGH B1( hình 8).
Hình 8. Diễn biến hàm lượng DO trên
sông Nhuệ vào mùa mưa
Các thông số chất lượng nước khác như
COD, BOD5, PO43-, coliformđều thấp hơn so
với mùa khô, tuy nhiên ở hầu hết các vị trí, các
thông số này vẫn cao hơn GTGH B1.
Hình 9 biểu diễn hàm lượng COD trên sông
Nhuệ vào mùa mưa. Hàm lượng COD luôn
Đánh giá chất lượng môi trường nước
285
nằm trong khoảng 31-82 mg/l, cao hơn GTGH
B1. Hàm lượng COD cao nhất tại Cầu Tó
(82 mg/l - gấp gần 3 lần GTGH B1), thấp nhất
tại Phúc La (31-44 mg/l), ở các vị trí khác hàm
lượng COD đạt cao gấp 1,5 đến gấp đôi GTGH
B1 (COD tại Liên Mạc 51 mg/l, tại Cự Đà
63 mg/l, tại Cầu Chiếc 66 mg/l).
Hình 9. Diễn biến hàm lượng COD trên
sông Nhuệ vào mùa mưa
Hàm lượng BOD5 vào mùa mưa (hình 10)
cũng đạt các giá trị cao hơn GTGH B1. BOD5
cao nhất tại Cầu Tó (27 mg/l - gấp gần 2 lần
GTGH B1), thấp nhất tại Phúc La (11 mg/l), ở
các vị trí khác hàm lượng BOD5 xấp xỉ gấp1,5
lần GTGH B1 (tại Liên Mạc BOD517 mg/l, tại
Cự Đà 21 mg/l, tại Cầu Chiếc 20 mg/l).
Hình 10. Diễn biến hàm lượng BOD5 trên
sông Nhuệ vào mùa mưa
Vào mùa mưa, hàm lượng NH4+cũng như
hàm lượng PO43- thấp hơn hẳn so với mùa khô,
lần lượt nằm trong khoảng từ 0,15÷3,56 và từ
0,09÷1,33 mg/l (hình 11, 12). Hàm lượng NH4+
ở Cầu Tó, Cự Đà, Cầu Chiếc khá cao vào cuối
mùa mưa, gấp từ 7- 5 lần GTGH B1. Hàm
lượng PO43- ở Phúc La, Cầu Tó, Cự Đà cũng
vẫn rất cao, đặc biệt là ở Cầu Tó là 1,33 mg/l,
gấp 4 lần GTGH B1 hay Cự Đà 1,02 mg/l, gấp
hơn 3 lần GTGH B1. Hàm lượng PO43- thấp
nhất tại cống Liên Mạc và thấp hơn cả GTGH
A1. Mật độ coliform cũng rất cao, cao hơn
GTGH B1 ở tất cả các vị trí và theo chiều
hướng tăng dần cho đến cuối sông, dao động từ
1,5 lần (tại Liên Mạc) đến 8 hay 9 lần (tại Cầu
Tó, Cầu Chiếc) so với GTGH B1 (hình 13). pH
thường thấp hơn mùa khô và mang tính kiềm
yếu, nằm trong khoảng 7,1÷7,5.
Hình 11. Diễn biến hàm lượng NH4+ trên
sông Nhuệ vào mùa mưa
Hình 12. Diễn biến mật độ coliform trên
sông Nhuệ vào mùa mưa
Vũ Thị Phương Thảo
286
Hình 13. Diễn biến hàm lượng PO43- trên
sông Nhuệ vào mùa mưa
Đánh giá chung hiện trạng chất lượng nước
sông Nhuệ
Kết quả phân tích chất lượng nước trong 3
năm trở lại đây cho thấy tại hầu hết các vị trí
khảo sát lấy mẫu phân tích, các thông số chỉ
mức độ ô nhiễm hữu cơ cũng như dinh dưỡng
và vi sinh đều không đạt GTGH B1 của Quy
chuẩn QCVN 08:2008/BTNMT, nước dùng
cho mục đích tưới tiêu thủy lợi, thậm chí ở một
số vị trí như Phúc La, Cầu Tó, Cự Đà nước
cũng không đủ tiêu chuẩn để dùng làm nước
giao thông thủy. Hàm lượng các thông số chất
lượng nước thường cao gấp đôi đến vài lần, đặc
biệt là hàm lượng amoni, mật độ coliform có
thể gấp đến chục lần GTGH theo quy chuẩn
chất lượng nước mặt. Từ đầu nguồn là cống
Liên Mạc, ô nhiễm nước sông Nhuệ tăng dần
theo chiều dài đoạn sông, đặc biệt sau khi nhận
nước thải của quận Hà Đông ở Phúc La và
nước từ sông Tô lịch ở Cầu Tó. Điều này thể
hiện rõ qua hàm lượng các thông số chất lượng
nước. Hàm lượng DO ở Liên Mạc vào cả hai
mùa khô và mưa đều đạt QCVN loại B1 (4,1 -
5,9 mg/l) nhưng khi đến Phúc La chỉ là
1,7 mg/l vào mùa khô và 3,2 mg/l vào mùa
mưa, rất thấp ở Cầu Tó (1,5 mg/l vào mùa khô
và 2,5 mg/l vào mùa mưa) và Cự Đà (1,2 mg/l
vào mùa khô và 2,3 mg/l vào mùa mưa), Cầu
Chiếc (2,5 mg/l). Hàm lượng BOD5, COD,
amoni, cũng có xu hướng tương tự, xấp xỉ
hoặc đạt chuẩn ở Liên Mạc, không đạt chuẩn từ
Phúc La, cao gấp 2-3 lần ở Cầu Tó, Cự Đà,
Điều này chứng tỏ những ảnh hưởng rõ rệt của
các dòng thải từ các làng nghề, từ dòng sông
Tô Lịch mang theo dòng thải của thành phố Hà
Nội Những dòng thải này chính là nguyên
nhân khiến cho dòng sông vốn trong xanh xưa
kia nay trở nên đen đặc bởi lượng thải đã vượt
quá khả năng tự làm sạch của dòng sông.
Mức độ nhiễm có sự khác nhau rõ rệt giữa
mùa khô và mùa mưa. Mùa mưa (khoảng từ
tháng 6 đến tháng 10), mực nước sông Nhuệ
lên cao do được bổ sung nước mưa và nước từ
sông Hồng nên nước sông Nhuệ ít bị ô nhiễm
hơn. Mùa khô là các tháng còn lại, (từ tháng 11
đến giữa tháng 5 năm sau), sông Nhuệ chỉ được
bổ sung một lượng nước rất ít ỏi từ sông Hồng
cũng như nước mưa. Mặc dù chính quyền đã có
một số biện pháp tích cực như bơm nước sông
Nhuệ ra sông Hồng (ở trạm Yên Sở) vào mùa
khô để giảm bớt tải trọng ô nhiễm, 1/3 dung
tích dòng sông vẫn là nước thải đổ vào nên chất
lượng nước sông vẫn bị ô nhiễm nặng nề, nước
đen đặc và luôn bốc mùi hôi thối. Hàm lượng
các chất hữu cơ, các muối dinh dưỡng, coliform
tăng dần theo suốt chiều dài đoạn sông, càng
chứng tỏ hậu quả của những dòng nước thải
chưa được xử lý từ các hoạt động dân sinh cũng
như từ các hoạt động công nông nghiệp, dịch
vụ của vùng lưu vực tới chất lượng nước
sông Nhuệ là rất nghiêm trọng.
So sánh các kết quả phân tích trên với các
báo cáo công bố trước đây về chất lượng nước
sông Nhuệ vào các năm 2005 [1], hoặc chất
lượng nước sông Nhuệ năm 2012 [2] nhận
thấy: mặc dù chất lượng nước sông Nhuệ đã
được cải thiện nhưng thực sự thì vẫn chưa đáp
ứng được yêu cầu sử dụng làm mục đích tưới
tiêu cho nông nghiệp. Cụ thể, so với năm 2006,
thì hàm lượng DO, COD, BOD5, PO43-,
amoni, trên sông Nhuệ đều được cải thiện
đáng kể. Năm 2005, hàm lượng BOD5cao gấp
gần 8 lần GTGH theo quy chuẩn QCVN 8/2008
loại B1 thì trong giai đoạn 2011- 2013, BOD5
cao nhất cũng chỉ gấp gần 4 lần tại Cự Đà.
Hàm lượng NH4+ năm 2012 có thể gấp tới hơn
chục lần QCVN 8/2008 loại B1 [2] thì trong
các năm 2011- 2013 NH4+ cao nhất tại Cầu Tó
cũng chỉ gấp 10 lần QCVN 8/2008 loại B1.
Theo Nguyễn Mạnh Khải và cộng sự [2], mật
độ coliform năm 2012 có chỗ vượt đến gần 30
lần QCVN 8/2008 loại B1 thì trong giai đoạn
Đánh giá chất lượng môi trường nước
287
2011- 2013, coliform cao nhất cũng chỉ gấp đến
20 lần QCVN 8/2008 loại B1 tại Cầu Tó.
Đề xuất một số giải pháp giảm thiểu ô nhiễm
nước sông Nhuệ
Nguồn nước sông Nhuệ sạch, đáp ứng tiêu
chuẩn cho tưới tiêu là nhu cầu của người dân.
Nhưng ngày nay, do sự xả thải nước ô nhiễm
quá nhiều vào dòng sông nên nước sông Nhuệ
không còn đủ sạch để đáp ứng cho nhu cầu này
nữa. Để bảo vệ và nâng cao chất lượng nước
sông Nhuệ, bên cạnh việc duy trì hoạt động
thường xuyên, xây dựng và phát triển những
công cụ giám sát, kiểm soát, phát hiện và xử lý
các nguồn nước thải ô nhiễm để dần dần giảm
thiểu được các nguồn thải không đạt chuẩn vào
sông để nước sông không bị ô nhiễm thêm nữa.
Nhìn vào thực tế, từ khi Đề án tổng thể bảo vệ
môi trường lưu vực sông Nhuệ - sông Đáy đi
vào thực hiện (từ năm 2010), ta thấy chất lượng
nước sông Nhuệ đã được cải thiện. Tuy nhiên
trong quá trình thực hiện gặp không ít khó khăn
và những tồn tại đòi hỏi sự phối hợp chặt chẽ
hơn giữa các cấp, các ngành.Việc nạo vét bùn
đáy thường xuyên, thu gom nước thải của các
khu dân cự, làng nghề rồi xử lý sơ bộ, tăng
cường các chương trình giáo dục tuyên truyền
để người dân lựa chọn phát triển kinh tế theo
hướng đi đôi với bảo vệ môi trường tiến tới
phát triển bền vững cũng cần được đẩy mạnh.
Tình trạng ô nhiễm này cũng có thể được
cải thiện đáng kể nếu áp dụng một số phương
pháp sinh học như cánh đồng lọc, bãi lọc ven
sông đã được nghiên cứu và áp dụng để xử lý
nước ô nhiễm ở Việt Nam [5] và nhiều nước
trên thế giới như sau:
Bãi lọc trồng cây: Nước thải sinh hoạt
được thu gom rồi cho chảy qua các bãi lọc
trồng cây sau đó mới xả vào sông. Thực vật
trồng trong bãi lọc thường là các loại thực vật
thủy sinh thân thảo sống nổi trên bề mặt nước
hoặc ngập hẳn trong nước, thường trồng cỏ
nến, sậy, bèo tây, bèo cái, sen, sung Nhờ
quá trình sinh trưởng của hệ thực vật, vi sinh
vật và các quá trình vật lý như: lắng, lọc, bốc
hơi ... mà các chất ô nhiễm trong nước thải
được xử lý với hiệu quả cao. Bãi lọc cũng có
khả năng lưu giữ tốt một số kim loại nặng, khử
vi trùng bởi bức xạ tử ngoại [6].
Hồ sinh học: là các thủy vực tự nhiên hoặc
nhân tạo, với quy mô nhỏ sẽ diễn ra quá trình
chuyển hóa các chất bẩn. Nước thải sinh hoạt
từ các khu dân cư sẽ được dẫn vào các hồ sinh
học rồi mới thoát vào sông. Quá trình này
tương tự như quá trình tự làm sạch trong các
sông hồ tự nhiên với vai trò chủ yếu là các loài
vi khuẩn và tảo. Hệ thống hồ sinh học có thể
loại bỏ được 80% nitơ. Phốt pho được loại bỏ
khỏi nước trong hồ ổn định bằng cách hấp thụ
vào sinh khối của tảo, hô hấp và lắng đọng [7].
KẾT LUẬN
Qua kết quả nghiên cứu nhận thấy chất
lượng nước sông Nhuệ đoạn từ Liên Mạc đến
Cầu Chiếc vẫn bị ô nhiễm nặng. Điều này thể
hiện qua hàm lượng các thông số chỉ mức độ ô
nhiễm hữu cơ, dinh dưỡng, vi sinh không đạt
GTGH B1 củaQuy chuẩn QCVN 08:2008/
BTNMT, nước dùng cho mục đích tưới tiêu
thủy lợi. Sự ô nhiễm nhẹ ở đầu nguồn (vị trí
cống Liên Mạc), các thông số chất lượng nước
chỉ xấp xỉ hoặc vượt quá chút ít so với GTGH
B1, nhưng sau đó sự ô nhiễm nước sông Nhuệ
tăng dần theo chiều dài đoạn sông, đặc biệt sau
khi nhận nước thải của quận Hà Đông ở Phúc
La và nước từ sông Tô lịch ở Cầu Tó. Hàm
lượng các thông số chất lượng nước đoạn từ
Phúc La đến Cầu Chiếc thường cao gấp đôi
đến vài lần, đặc biệt là hàm lượng amoni, mật
độ coliform có thể gấp đến chục lần GTGH
B1. Nguyên nhân là do các dòng thải từ các
làng nghề hai bên bờ sông, từ dòng sông Tô
lịch mang theo dòng thải của thành phố Hà
Nội vốn chứa các chấtcos hàm lượng rất cao
đổ vào sông.
So sánh các kết quả phân tích trên với các
báo cáo công bố trước đây về chất lượng nước
sông Nhuệ nhận thấy: mặc dù chất lượng nước
sông Nhuệ đã được cải thiện là do kết quả của
các biện pháp và việc làm hạn chế các nguồn
thải ô nhiễm nhưng thực sự thì vẫn chưa đáp
ứng được yêu cầu sử dụng làm mục đích tưới
tiêu cho nông nghiệp. Để chất lượng nước sông
Nhuệ bớt ô nhiễm hơn nữa, việc nạo vét lòng
sông thường xuyên, thu gom nước thải của các
cụm dân cư, các khu làng nghề, xử lý sơ bộ
trước khi xả thải vào dòng sông, tuyên truyền
để nâng cao ý thức bảo vệ môi trường của
người dân là những việc làm mang lại hiệu quả.
Vũ Thị Phương Thảo
288
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ Tài nguyên và Môi trường, 2006. Báo
cáo Môi trường Quốc gia 2006.
2. Nguyễn Mạnh Khải, Nguyễn Thị Huyền
Trang, Nguyễn Thùy Linh, Chu Anh Đào,
Phạm Mạnh Cổn, Nguyễn Thị Nga, 2012.
“Nghiên cứu chất lượng nước sông Nhuệ
khu vực Hà Nội”. Tạp chí khoa học
ĐHQGHN, Khoa học tự nhiên và công
nghệ, Tập 28, số 4S.
3. Bộ Tài nguyên và Môi trường, 2008.
Hướng dẫn lấy mẫu ở sông và suối -
TCVN 6663-6:2008.
4. Bộ Tài nguyên và Môi trường, 2009.
QCVN 08/2008/BTNMT- Quy chuẩn kỹ
thuật quốc gia về chất lượng nước mặt.
5. Trần Đức Hạ, 2002. Xử lý nước thải sinh
hoạt quy mô nhỏ và vừa. Nxb. Khoa học và
Kỹ thuật.
6. D. Xanthoulis, Lều Thọ Bách, Wang Cheng
Duan, Hans Brix, 2008. Xử lý nước thải chi
phí thấp. Nxb. Xây dựng.
7. MaraDuncan, 2005.Domestic wastewater
treatment in developing countries.
Earthscan Publisher, London.
ASSESSING WATER QUALITY OF NHUE RIVER FROM
HEADWATERS TO CAU CHIEC
Vu Thi Phuong Thao
Hanoi University of Maning and Geology
ABSTRACTS: Receiving all of virtually untreated waste water of handicraft villages along
river bank and wastewater from domestic sewage, hospital, industries, etc of Hanoi city, Nhue river
is heavily polluted. This study provides the current status of water quality of Nhue river by water
quality parameters in the years 2011-2013. The study results show that typical parameters of
organic pollution, nutrients and microbial contamination are much higher compared to the
permitted standards (QCVN 8/2008 B1 - water supply for agriculture). At some places, COD is 4.5
times higher than the B1 standard, ammonia concentration is ten times higher than the standard B1,
and coliform concentration is 20 times higher than B1 standard. Compared to some other reports
on water quality of Nhue river such as report of Vietnam Environment Administration (2010), the
pollution of Nhue River has signal of redcing at all survey locations. However, the concentrations of
organic matter, nutrient, total coliform ... are still quite high, not enough quality for agricultural
water supply. To reduce polluted level of Nhue riverwater, the regular dredging, sewage collection
of residential areas, village areas, preliminary treatment before discharge into rivers and
propaganda to enhance environmental protection consciousness of people are effective actions in
order to improve water quality to meet clean water needs for river basin region ...
Keywords: Water quality, Nhue river, permitted standard, organic pollution, microbial
contamination.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 3907_20921_1_pb_3642_2079614.pdf