Kết luận
Nghiên cứu này đã phân tích và đánh giá
chất lượng nước vùng ven biển tại các bãi tắm
của hai tỉnh Quảng Bình và Quảng Ngãi. Kết quả
cho thấy, chất lượng nước biển ven bờ và ven
đảo vào mùa hè thể hiện qua các thông số: nhiệt
độ, độ pH, độ mặn, độ dẫn điện (EC) và tổng chất
rắn hòa tan (TDS), tổng nitơ (TN), tổng photpho
(TP), P-PO4, As, chất hữu cơ (DO, BOD5), độ
đục (NTU), amoni (N-NH4), tổng Coliform (TC)
đảm bảo chất lượng cho nhu cầu tắm biển và thể
thao biển (nằm trong giới hạn cho phép của
QCVN 10-MT:2015/BTNMT vùng bãi tắm và
thể thao dưới nước) . Song cần lưu ý: tại một số
vị trí có xu thế ô nhiễm chất hữu cơ như hai bãi
tắm Nhật Lệ và Bảo Ninh tỉnh Quảng Bình, với
giá trị COD là 6,6 1,4, n = 18 và các vùng như
Vũng Chùa, Đá nhảy (Quảng Bình), Ghềnh Yến,
Mỹ Khê và đảo Lý Sơn (Quảng Ngãi) có dấu
hiệu tiềm năng. Khu vực đảo Lý Sơn, có tổng
chất rắn lơ lửng (TSS) ở mức gần với QCVN
10:2015/BTNMT và một số vị trí cao gấp hai lần
so với giới hạn cho phép. Cần có các giải pháp
thích hợp hạn chế lượng nước thải và rác thải khu
vực ven biển và biển đảo, nhất là vào mùa du
lịch, giữ vệ sinh và an toàn sức khỏe cho du
khách, đảm bảo phát triển du lịch bền vững
11 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 10/01/2022 | Lượt xem: 292 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đánh giá chất lượng nước biển các tỉnh Quảng Bình và Quảng Ngãi cho hoạt động phát triển du lịch, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
VNU Journal of Science: Earth and Environmental Sciences, Vol. 36, No. 2 (2020) 99-109
99
Original Article
Assessment of Marine Water Quality in Quang Binh and
Quang Ngai Provinces for Tourism Development Activities
Nguyen Hai Phong1, Truong Quang Hai2, Nguyen Quang Tuan1,, Ho Xuan Anh Vu1
1University of Sciences, Hue University, 77 Nguyen Hue Street, Hue city, Vietnam
2VNU Institute o f Vietnamese Studies and Development Sciences, Vietnam National University, Hanoi
336 Nguyen Trai, Hanoi, Vietnam
Received 18 May 2020
Revised 28 May 2020; Accepted 27 June 2020
Abstract: This article assessing status of water quality in coastal areas of Quang Binh and Quang
Ngai provinces for the purpose of tourism development. The results of research showed that water
quality at monitoring sites at the beaches in Quang Binh and Quang Ngai provinces met
requirements of QCVN 10-MT:2015/BTNMT for beach and underwater sport. Particularly with
parameters such as: turbidity (NTU) at LS2, LS7 and LS14 sites exceed standards of ASEAN and
chemical oxygen demand (COD) was increased. However, COD is not regulations in QCVN 10-
MT: 2015 / BTNMT, ASEAN and Australia but when compared with QCVN 01: 2009 / BYT are
more than two times. This can influence for health when exposed to coastal water in tourist areas.
Keywords: water quality in coastal areas, Quang Binh and Quang Ngai provinces.
________
Corresponding author.
E-mail address: tuanhuegis@gmail.com
https://doi.org/10.25073/2588-1094/vnuees.4634
N.H. Phong et al. / VNU Journal of Science: Earth and Environmental Sciences, Vol. 36, No. 2 (2020) 99-109 100
Đánh giá chất lượng nước biển các tỉnh Quảng Bình
và Quảng Ngãi cho hoạt động phát triển du lịch
Nguyễn Hải Phong1, Trương Quang Hải2, Nguyễn Quang Tuấn1,, Hồ Xuân Anh Vũ1
1Trường Đại học Khoa học, Đại học Huế, 77 Nguyễn Huệ, thành phố Huế, Việt Nam
2Viện Việt Nam học và Khoa học Phát triển, Đại học Quốc gia Hà Nội, 336 Nguyễn Trãi, Hà Nội, Việt Nam
Nhận ngày 18 tháng 5 năm 2020
Chỉnh sửa ngày 28 tháng 5 năm 2020; Chấp nhận đăng ngày 27 tháng 6 năm 2020
Tóm tắt: Bài báo này đánh giá hiện trạng chất lượng nước (CLN) vùng ven biển hai tỉnh Quảng
Bình và Quảng Ngãi nhằm mục đích phát triển hoạt động du lịch. Các kết quả nghiên cứu cho thấy
rằng CLN tại các điểm quan trắc ven biển và ven đảo ở tỉnh Quảng Bình và tỉnh Quảng Ngãi nằm
trong giới hạn cho phép của QCVN 10-MT:2015/BTNMT cho mục đích vùng bãi tắm, thể thao dưới
nước. Riêng với các thông số như: độ đục (NTU) tại một số vị trí LS2, LS7 và LS14 vượt tiêu chuẩn
của ASEAN và nhu cầu oxy hóa học (COD) có xu thế tăng. Tuy nhiên, COD không được quy định
trong QCVN 10-MT:2015/BTNMT, ASEAN và Australia, song khi so sánh với QCVN
01:2009/BYT đều lớn hơn gấp hai lần trở lên. Điều này có thể ảnh hưởng đến sức khỏe khi tiếp xúc
với nước biển ven bờ tại các khu du lịch.
Từ khóa: chất lượng nước vùng ven biển, du lịch biển, Quảng Bình, Quảng Ngãi.
1. Mở đầu
Du lịch là một ngành kinh tế dịch vụ tổng
hợp, mang nội dung văn hóa và nhân văn sâu sắc,
đem lại hiệu quả nhiều mặt về kinh tế, văn hóa,
xã hội, môi trường, chính trị và đối ngoại. Theo
Tổ chức du lịch Thế giới, du lịch đóng vai trò
quan trọng để đạt được tất cả 17 mục tiêu của
phát triển bền vững (UNWTO, 2017) [1]. Trong
đó, du lịch biển đang tăng trưởng với tốc độ
nhanh [2,3].
Việt Nam là một quốc gia ven biển có nguồn
tài nguyên du lịch phong phú và độc đáo. Nhận
thức rõ vị thế quan trọng của du lịch và tận dụng
ưu thế về tài nguyên, trong những năm vừa qua,
ngành du lịch biển Việt Nam đã tăng trưởng khá
trong cả doanh thu và số lượt khách du lịch, đóng
góp quan trọng vào sự phát triển kinh tế biển. Tuy
vậy, du lịch vùng ven biển và biển đảo Việt Nam
________
Tác giả liên hệ.
Địa chỉ email: tuanhuegis@gmail.com
https://doi.org/10.25073/2588-1094/vnuees.4634
đang phải đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức,
đe dọa tính bền vững về kinh tế, xã hội và môi
trường. Để giải quyết vấn đề này, đề tài khoa học
cấp quốc gia “Luận cứ khoa học về tổ chức không
gian, xác lập mô hình và đề xuất giải pháp phát
triển du lịch bền vững khu vực ven biển và biển
đảo Việt Nam”, mã số KC.09.09/16-20 đã được
triển khai, trong đó đã lựa chọn một số khu vực
thuộc hai tỉnh Quảng Bình và Quảng Ngãi để thực
hiện trong khuôn khổ nghiên cứu này.
Trên thế giới đã có những hướng dẫn quản lý
chất lượng và quan trắc nước biển [4,5]. Ở Việt
Nam hiện trạng môi trường nước biển đã được
phân tích, đánh giá qua các kết quả quan trắc
[6,7]. Song còn ít các nghiên cứu đánh giá chất
lượng nước cho hoạt động phát triển du lịch.
Quảng Bình có thành phố Đồng Hới là một
trong những trung tâm du lịch chính của vùng
Bắc Trung Bộ, hội tụ và lan tỏa các tuyến du lịch
N.H. Phong et al. / VNU Journal of Science: Earth and Environmental Sciences, Vol. 36, No. 2 (2020) 99-109
101
nội tỉnh và liên tỉnh. Từ vị trí trung tâm chính trị,
hành chính của tỉnh Quảng Bình, Đồng Hới kết
nối thuận lợi với các khu vực khác theo trục Bắc
- Nam và với khu vực đồi núi theo trục Đông -
Tây, đặc biệt nối kết với Khu Di sản Thế giới
Phong Nha - Kẻ Bàng cách 40 km về phía Tây.
Quảng Ngãi có Lý Sơn là huyện đảo có mật
độ dân số cao, có cảnh quan thiên nhiên kỳ vĩ
hiện hữu dấu ấn của hoạt động núi lửa, có truyền
thống lịch sử - văn hóa đặc sắc gắn với quá trình
bảo vệ chủ quyền biển đảo của Tổ quốc.
Quảng Bình và Quảng Ngãi đều mang tính
chất khí nhiệt đới gió mùa với sự phân hóa sâu
sắc mùa khô và mùa mưa. Ở Quảng Bình mùa
mưa tập trung từ tháng 9 đến tháng 11 và kéo đến
tháng 3 năm sau, chiếm khoảng 80% lượng mưa
cả năm. Mùa khô từ tháng 4 đến tháng 8 với gió
Tây Nam khô nóng. Quảng Ngãi có mùa mưa
kéo dài từ tháng 9 đến tháng 2 năm sau, lượng
mưa tập trung trong mùa mưa khoảng 71%. Mùa
khô kéo dài từ tháng 3 đến tháng 8, thời tiết khô
và nóng do chịu ảnh hưởng của gió mùa Tây
Nam. Mùa khô cũng là mùa du lịch với đông
khách đến tham quan, nghỉ dưỡng và tắm biển,
gây ảnh hưởng mạnh đến chất lượng nước biển.
Vì vậy, việc đo đạc và lấy mẫu nước biển để phân
tích, đánh giá được thực hiện vào ngày 27-28
tháng Bảy tại Quảng Bình và ngày 2-3 tháng
Tám năm 2019 tại Quảng Ngãi.
Bài viết này tập trung đánh giá chất lượng
môi trường nước ven biển góp phần xác lập luận
cứ cho phát triển du lịch bền vững ở tỉnh Quảng
Bình và Quảng Ngãi.
2. Tài liệu và phương pháp nghiên cứu
2.1. Thông tin của các vị trí quan trắc
Đánh giá chất lượng nước biển ven bờ phục
vụ cho mục đích tắm biển và thể thao dưới nước,
do đó độ sâu lấy mẫu khoảng từ 1,0 đến 1,5 m tại
tất cả các vị trí quan trắc.
2.2. Cơ sở tài liệu và phương pháp nghiên cứu
Chuẩn bị mẫu: trong đợt khảo sát và lấy mẫu,
tiến lấy mẫu và phân tích nước ven biển tại tỉnh
Quảng Bình: 02 khu vực là bãi biển Nhật Lệ (08
mẫu) và Bảo Ninh (10 mẫu), ngoài ra còn 02 mẫu
tại Vũng Chùa, 05 mẫu tại bãi tắm Đá Nhảy, 04
mẫu tại cầu Nhật Lệ và cầu Quán Hàu để so sánh.
Tại tỉnh Quảng Ngãi: lấy mẫu 02 khu vực là Đảo
Lý Sơn (11 mẫu) và Đảo Bé (10 mẫu). Tại hai khu
vực Bãi biển Mỹ Khê, cách thành phố Quảng
Ngãi 15 km về phía đông và bãi tắm Ghềnh Yến,
cách 30 km là những bãi biển có tiềm năng cho
khai thác du lịch biển. Tại hai khu vực này đều lấy
03 mẫu. Thêm vào đó, khu vực cảng Sa Kỳ cũng
lấy 02 mẫu với mục đích so sánh. Như vậy tổng
số mẫu được lấy và phân tích tại hai tỉnh Quảng
Bình và Quảng Ngãi là 62 mẫu.
Quy cách lấy mẫu và bảo quản mẫu: tuân thủ
quy định của TCVN 6663-3:2016-Hướng dẫn bảo
quản và xử lý mẫu nước [8]. Các mẫu được bảo
quản trong chai nhựa PET (polyetylenterephtalat)
sạch và nước đá lạnh, vận chuyển về và phân tích
tại phòng thí nghiệm của Khoa Hóa học, Trường
Đại học Khoa học, Đại học Huế.
Các phương pháp phân tích chất lượng nước:
các phương pháp tiêu chuẩn Việt Nam, các
phương pháp tiêu chuẩn phân tích nước và nước
thải (SMEWW-Standard Methods for
Examination of Water and Wastewater, APHA,
2017) [9]. Các thông số nhiệt độ, pH, độ dẫn điện,
EC (tổng chất rắn hòa tan, TDS và độ mặn, NaCl
o/oo), độ đục (NTU) và oxy hòa tan được đo tại
hiện trường với thiết bị Horiba U52, Nhật Bản.
Các thông số tổng chất rắn lơ lửng (TSS), nhu cầu
oxy hóa học (COD), amoni (N -NH4+), photphat
(P – PO43-), tổng photpho (TP), tổng nitơ (TN) và
Sunfat (SO43-) được thực hiện tại Phòng thí
nghiệm Môi trường (Bộ môn Hóa phân tích, khoa
Hóa học, trường Đại học Khoa học, Đại học Huế).
Hai thông số asen (As) và tổng coliform (TC) thực
hiện bởi Trung tâm Quan trắc Tài nguyên và Môi
trường, tỉnh Thừa Thiên Huế (173 Phạm Văn
Đồng, thành phố Huế).
Chất lượng nước (CLN) được đánh giá qua
từng thông số bằng cách so sánh kết quả thu được
(xTB ± Sd với xTB là trung bình số học và Sd là
độ lệch chuẩn) với các giá trị giới hạn được quy
định trong QCVN 10-MT:2015/BTNMT (viết
tắt là QCVN10) về CLN ven biển [10], QCVN
N.H. Phong et al. / VNU Journal of Science: Earth and Environmental Sciences, Vol. 36, No. 2 (2020) 99-109 102
01:2009/BYT (viết tắt là QCVN01) về CLN ăn
uống [11] và QCVN 02:2009/BYT (viết tắt là
QCVN02) về CLN sinh hoạt [12]. Hệ số biến
động (CV) đối với mỗi thông số CLN cũng được
tính toán: CV Sd*100/xTB.
Hình 1. Sơ đồ điểm thu mẫu vùng ven bờ biển Nhật Lệ, tỉnh Quảng Bình.
(Nguồn bản đồ: Google Maps và điểm thực địa).
Hình 2. Sơ đồ điểm thu mẫu vùng ven bờ biển Mỹ Khê và Đảo Lý Sơn, tỉnh Quảng Ngãi.
(Nguồn bản đồ: Google Maps và điểm thực địa).
N.H. Phong et al. / VNU Journal of Science: Earth and Environmental Sciences, Vol. 36, No. 2 (2020) 99-109
103
3. Kết quả và thảo luận
3.1. Đánh giá chung về chất lượng nước vùng
biển các tỉnh Quảng Bình và Quảng Ngãi đối
với du lịch
Nhận xét chung về chất lượng nước ven biển
tỉnh Quảng Bình và Quảng Ngãi
Các kết quả phân tích cho thấy độ mặn tại
các khu vực ven biển tỉnh Quảng Bình là 33,7
0,4 ‰ (n = 27) trừ hai vị trí tại Cầu Quán Hàu do
đi sâu vào đất liền gần 20 km. Như vậy, độ mặn
tại các điểm quan trắc tương đương với các vùng
biển nước nông. Riêng tại hai điểm tại Cầu Quán
Hàu là 25,8 ‰ là khá phù hợp với mục đích nuôi
trồng thủy hải sản. Đối với các vị trí quan trắc tại
tỉnh Quảng Ngãi, độ mặn là 34,9 0,5 ‰ (n =
31) trừ hai vị trí tại cảng Sa Kỳ do đi sâu vào đất
liền gần hơn 5 km và chịu tác động của nước
ngọt. Như vậy, độ mặn tại các điểm quan trắc
tương đương với các vùng biển nước sâu. Điều
này cũng hợp lý là do phần lớn vị trí quan trắc là
vùng đảo Lý Sơn, chiếm 75,8 %. Riêng tại hai
điểm tại hai vị trí cảng Sa Kỳ độ mặn là 17,2 và
18,0‰.
Các thông số dinh dưỡng là tổng nitơ (TN)
và tổng photpho (TP) tại các vị trí ở hai tỉnh
Quảng Bình và Quảng Ngãi là khá thấp, giá trị
trung bình dao động từ 0,02 mg/L đến 0,07
mg/L. Nhưng mức độ dao động của hai thông số
này là rất lớn với hệ số biến động (Coefficient of
Variation - CV) đều lớn hơn 50 % đến 64,2 %.
Riêng đối với thông số P-PO4 đều nhỏ hơn giới
hạn phát hiện (GHPH), GHPH của thông số P-
PO4 là 0,026 mg/L.
Trong đợt khảo sát này, đề tài chỉ tập trung
phân tích Asen (As) nhưng trong tất cả 62 mẫu
trong khu vực nghiên cứu đều nhỏ hơn giới hạn
phát hiện là 0,0018 (mg/L).
Tóm lại, các thông số như độ mặn (độ dẫn
điện, EC và tổng chất rắn hòa tan, TDS), TN, TP,
P-PO4 và As mặc dù không được quy định trong
QCVN 10:2015/BTNMT, những tất cả đều khá
thấp. Chính vì vậy, trong báo cáo này chỉ tập
trung vào một số thông số cơ bản và có trong quy
định QCVN 10:2015/BTNMT cho mục đích
“Vùng bãi tắm, thể thao dưới nước”.
3.2. Nhiệt độ
Trong toàn vùng quan trắc bao gồm 29 vị trí
tại Quảng Bình và 33 vị trí tại Quảng Ngãi với
nhiệt độ trung bình là 31,1 0,8 (oC), n = 29 và
31,3 0,4 (oC), với n = 33. Qua đó thấy rằng
nhiệt độ dao động không đáng kể và thay đổi
không nhiều theo không gian tại hai vùng nghiên
cứu. So sánh với kết quả nghiên cứu của Lê Thị
Vinh (2013) [13] tại đảo Phú Quốc không có sự
khác biệt rõ ràng.
Hình 3. Biến thiên thông số nhiệt độ (t, oC) tại vùng ven biển tỉnh Quảng Bình (a) và Quảng Ngãi (b).
N.H. Phong et al. / VNU Journal of Science: Earth and Environmental Sciences, Vol. 36, No. 2 (2020) 99-109 104
Các bãi tắm ven biển và tiếp xúc với đất liền
có xu thế cao hơn do chịu ảnh hưởng nhiệt độ của
đất liền. Riêng tại 04 vị trí, tại cầu Nhật Lệ và cầu
Quán Hàu có nhiệt độ chênh lệch xấp xỉ 3oC. Sự
chênh lệch này dễ dàng nhận thấy tại cầu Nhật
Lệ gần cửa biển hơn so với cầu Quán Hàu do
nằm sâu trong lục địa và vì vậy, nhiệt độ cao hơn.
Tại các vị trí ở đảo Bé và bãi tắm Nhật Lệ
có nhiệt độ cao hơn so với đảo Lý Sơn và bãi
tắm Bảo Ninh. Điều này cũng có thể giải thích
là phụ thuộc vào thời điểm đo tại hiện trường và
vi khí hậu khác nhau sẽ dẫn đến nhiệt độ thay
đổi giữa các điểm quan trắc có khác nhau,
nhưng không nhiều. Nhiệt độ trung bình thấp
chênh lệch xấp xỉ khoảng 2oC.
3.3. Thông số pH
Giá trị pH hoàn toàn không thay đổi, điều
này thông qua giá trị trung bình là 8,6 0,1, n =
29 đối với các điểm quan trắc tại Quảng Bình
và 8,0 0,1, với n = 33 tại Quảng Ngãi. Tất cả
các kết quả đều nằm trong giới hạn cho phép
của QCVN 10:2015/BTNMT. Nhìn chung, tại
hai vùng biển Quảng Bình và Quảng Ngãi có sự
khác nhau khoảng 0,5 đơn vị pH.
Kết quả này là khá phù hợp với pH của nước
biển, bởi vì môi trường nước biển được xem là
hệ đệm cacbonat gần như không thay đổi. Tại
các điểm SK02 và DB08, giá trị pH là 7,7 và
thấp hơn so với các điểm còn lại. Kết quả nghiên
cứu của Phạm Hữu Tâm (2018) từ năm 2013
đến 2017 tại ba vùng ven biển Nha Trang, Vũng
Tàu và Rạch Giá [14] tương đương với vùng
ven biển Quảng Ngãi, nhưng thấp hơn so với
vùng ven biển tỉnh Quảng Bình.
Hình 4. Sự biến động của thông số pH tại vùng ven biển tỉnh Quảng Bình (a) và Quảng Ngãi (b).
3.4. Chất hữu cơ
Dựa vào kết quả phân tích tại Quảng Bình cho
thấy giá trị DO đều thỏa mãn QCVN
10:2015/BTNMT (4 mg/L) cho mục đích sử dụng
“Vùng bãi tắm, thể thao dưới nước”. Tuy nhiên
khi so sánh kết quả phân tích DO và COD lại nhận
thấy kết quả khác thường tại hai vùng biển Nhật
Lệ và Bảo Ninh với giá trị DO và giá trị COD đều
cao và cao hơn so với hai vùng còn lại. Sự khác
biệt có thể là do hai thông số DO và COD khá
nhỏ. Khi xem xét với thông số DO giữa các vùng
quan trắc nhận thấy, vùng Vũng Chùa và Đá Nhảy
là thấp nhất. Trong quá trình quan trắc, tại vùng
này có các mũi đất liền nhô ra biển và làm cản trở
gió và sóng, do vậy có thể DO thấp.
Giá trị DO trung bình tại ba (03) vùng quan
trắc lần lượt là: vùng biển ven bờ (sát đất liền):
6,6 0,7 (n = 8) ; Đảo Bé: 6,4 0,3 ( n = 10) và
Đảo Lý Sơn: 6,8 0,4 (n = 15) (mg/L). Như vậy,
vùng biển sát đất liền có giá trị DO dao động lớn
nhất. Riêng tại hai vị trí SK1 và SK2 gần cầu
cảng giá trị DO là thấp nhất ( 6 mg/L). Trong
khi đó, cũng tại hai vị trí này giá trị COD lại rất
cao ( 10 mg/L). Nguyên nhân là do khu vực gần
cầu cảng tập trung nhiều thuyền đánh cá của cư
N.H. Phong et al. / VNU Journal of Science: Earth and Environmental Sciences, Vol. 36, No. 2 (2020) 99-109
105
dân, nơi tiếp nhận các loại nước chất thải và cả
chất thải rắn.
Giá trị COD không được quy định trong
QCVN 10:2015/BTNMT, nhưng nếu so sánh với
QCVN 10:2008/BTNMT (đã được thay thế bằng
QCVN 10:2015/BTNMT), quy định của Bộ Y tế
QCVN 01:2009/BYT-Chất lượng nước ăn uống
(2,0 mg/L) và QCVN 02:2009/BYT-Chất lượng
nước sinh hoạt (4,0 mg/L) thì tại tất cả các vị trí
quan trắc đều lớn hơn giới hạn cho phép. Như
vậy, giá trị này vẫn có thể ảnh hưởng đến sức
khỏe của người dân khi tắm biển và chơi thể thao
dưới nước. Kết quả quan trắc cho thấy giá trị
COD tại các vùng quan trắc như: Vũng Chùa, Đá
Nhảy (Quảng Bình) và Ghềnh Yến, Mỹ Khê và
đảo Lý Sơn (Quảng Ngãi) không có sự khác
nhau, khoảng 5,0 mg/L. Riêng Đảo Bé, giá trị
COD là thấp nhất với 3,89 0,71 (n = 10) và có
hệ số biến động khá thấp là 18,2 %. Đặc biệt với
hai bãi biển Nhật Lệ và Bảo Ninh tại Thành phố
Đồng Hới (Quảng Bình) lại cho kết quả COD
khá cao (6,6 1,4, n = 18) và cao nhất trong các
vị trí quan trắc. Điều này có thể nhận thấy, tại
thời điểm quan trắc có nhiều nhà hàng và dịch vụ
ăn uống ngay ven biển đang hoạt động và vì vậy,
dẫn đến sự ô nhiễm chất hữu cơ do nước thải và
chất thải rắn.
So sánh với nghiên cứu của tác giả Nguyễn
Đình Nguyên (2018) [15] tại vùng ven biển
Quảng Bình thì kết quả phân tích thông số
BOD5 trong nghiên cứu này thấp hơn khoảng
1,2 lần, nhưng COD lại cao hơn khá nhiều, gấp
gần 2,0 lần.
Hình 5. Sự biến động của thông số DO và COD tại vùng ven biển tỉnh Quảng Bình (a, b) và Quảng Ngãi (c, d).
N.H. Phong et al. / VNU Journal of Science: Earth and Environmental Sciences, Vol. 36, No. 2 (2020) 99-109 106
3.5. Tổng chất rắn lơ lửng và độ đục
Hình 6. Sự biến động của thông số TSS và NTU tại vùng ven biển tỉnh Quảng Bình (a, b) và Quảng Ngãi (c, d).
Theo QCVN 10:2015/BTNMT quy định
thông số tổng chất rắn lơ lửng (TSS) là 50 mg/L,
như vậy kết quả phân tích tại 29 vị trí tại Quảng
Bình và các vị trí Ghềnh Yến (n = 3), Mỹ Khê (n
= 3) và đảo Bé (n = 10) tại Quảng Ngãi đều nằm
dưới giới hạn cho phép. Trong khi đó, đảo Lý
Sơn sự biến động khá rộng với giá trị nhỏ nhất
và lớn nhất lần lượt là 17,8 và 136 mg/L. Giá trị
trung bình là 54,0 40,2 (n = 15). Đặc biệt các
vị trí LS13, LS14 và LS15 lớn hơn từ 2,0 đến 2,5
lần so với QCVN 10:2015/BTNMT. Điều này có
thể giải thích là trong thời điểm lấy mẫu, sóng
biển khá lớn có thể làm khuấy trộn lớp trầm tích
bề mặt và do đó, giá trị TSS tăng. Như vậy, việc
dựa vào thông số TSS để đánh giá một phần nào
đó rất phụ thuộc vào thời gian lấy mẫu, hướng
gió và điều kiện vi khí hậu tại vùng nghiên cứu.
Ngoài ra, khi xem xét đến thông số NTU,
không được quy định trong QCVN 10:2015/
BTNMT, nhưng theo QCVN01:2009/ BYT - Quy
chuẩn kỹ thuật quốc gia về chất lượng nước ăn
uống thì tất cả các vị trí đều lớn hơn 2 và do đó,
vẫn có khả năng ảnh hưởng đến sức khỏe của
người dân tại tất cả các bãi tắm ven biển tỉnh Quảng
Bình và Quảng Ngãi.
So sánh với kết quả của Phạm Hữu Tâm
(2018) [14], khi đánh giá qua thông số TSS từ
2013 đến 2017, nhận thấy kết quả phân tích TSS
cao hơn so với vùng ven biển Nha Trang, nhưng
nhỏ hơn so với vị trí Vũng Tàu và Rạch Giá.
Riêng đảo Lý Sơn tương đương với vị trí Rạch
Giá, năm 2013 là 54,73 mg/L và năm 2016 là
142,9 mg/L.
N.H. Phong et al. / VNU Journal of Science: Earth and Environmental Sciences, Vol. 36, No. 2 (2020) 99-109
107
3.6. Amoni
Kết quả phân tích thông số amoni (N-NH4)
trong các bảng từ 01 đến 04 cho thấy tất cả các giá
trị đều nhỏ hơn rất nhiều so với quy định là 0,5
mg/L với QCVN 10:2015/BTNMT. Kết quả tại hai
vùng ven biển Nhật Lệ và Bảo Ninh đều có giá trị
gần như không thay đổi và tương đương nhau (0,01
mg/L). So với vùng biển Vũng Chùa và Đá Nhảy
nồng độ amoni cao hơn, với giá trị trung bình là
0,02 0,01 mg/L (n = 7). Đối với vùng ven biển
Quảng Ngãi, giá trị trung bình tại các điểm quan
trắc là 0,018 0,010 mg/L (n = 33).
Đối với vị trí Cầu Quán Hàu (Quảng Bình),
thì tại vị trí CQH02 có nồng độ amoni khá cao
(0,07, mg/L). Điều này là do tại vị trí này người
dân có nuôi trồng thủy hải sản và vùng xung
quanh có khá nhiều hộ dân sinh sống. Chính vì
vậy, các loại chất thải sinh hoạt cũng như nuôi
trồng thủy hải sản đã ảnh hưởng đến chất lượng
nước trong đó có amoni. Ở Quảng Ngãi, tại hai
điểm là SK2 và LS15 có giá trị amoni cao hơn so
với các điểm khác ( 0,04 mg/L) khoảng từ 4 đến
5 lần. Đây là các điểm có tiềm năng ô nhiễm
amoni cao. Bởi vì Khu vực điểm SK2 thuộc cảng
Sa Kỳ là nơi cư trú của các tàu thuyền và do vậy,
các chất thải là nguyên nhân chính gây nên sự
gia tăng này, tương tự như thông số COD. Đối
với điểm LS15 ven đảo Lý Sơn, đây cũng là nơi
cư trú của nhiều tàu thuyền. Điều này làm cho
thông số amoni và COD ( 10 mg/L) tăng đáng
kể. Như vậy, vùng biển ven đất liền và ven đảo
có thể bị tác động bởi sinh hoạt và dịch vụ ven
biển như nhà hàng, dịch vụ du lịch và chất thải
từ cửa sông.
Hình 7. Sự biến động của thông số N-NH4 tại vùng ven biển tỉnh Quảng Bình (a) và Quảng Ngãi (b).
Hình 8. Sự biến động của thông số Tổng Coliform tại vùng ven biển tỉnh Quảng Bình (a) và Quảng Ngãi (b).
N.H. Phong et al. / VNU Journal of Science: Earth and Environmental Sciences, Vol. 36, No. 2 (2020) 99-109 108
3.7. Tổng Coliform
Kết quả phân tích TC trong 29 mẫu tại
Quảng Bình và 33 mẫu tại Quảng Ngãi đều có
giá trị nhỏ hơn rất nhiều lần, khoảng xấp xỉ 100
lần so với QCVN 10:2015/BTNMT (1000
MNP/100 mL). Như vậy có thể cho rằng vùng
ven biển tại Quảng Bình và Quảng Ngãi chưa có
dấu hiệu ô nhiễm vi sinh vật gây bệnh. Các điểm
SK1, SK2 và LS15 có giá trị TC cao hơn hẳn so
với các điểm quan trắc khác. Điều này hoàn toàn
phù hợp với kết quả phân tích các thông số COD
và amoni.
4. Kết luận
Nghiên cứu này đã phân tích và đánh giá
chất lượng nước vùng ven biển tại các bãi tắm
của hai tỉnh Quảng Bình và Quảng Ngãi. Kết quả
cho thấy, chất lượng nước biển ven bờ và ven
đảo vào mùa hè thể hiện qua các thông số: nhiệt
độ, độ pH, độ mặn, độ dẫn điện (EC) và tổng chất
rắn hòa tan (TDS), tổng nitơ (TN), tổng photpho
(TP), P-PO4, As, chất hữu cơ (DO, BOD5), độ
đục (NTU), amoni (N-NH4), tổng Coliform (TC)
đảm bảo chất lượng cho nhu cầu tắm biển và thể
thao biển (nằm trong giới hạn cho phép của
QCVN 10-MT:2015/BTNMT vùng bãi tắm và
thể thao dưới nước) . Song cần lưu ý: tại một số
vị trí có xu thế ô nhiễm chất hữu cơ như hai bãi
tắm Nhật Lệ và Bảo Ninh tỉnh Quảng Bình, với
giá trị COD là 6,6 1,4, n = 18 và các vùng như
Vũng Chùa, Đá nhảy (Quảng Bình), Ghềnh Yến,
Mỹ Khê và đảo Lý Sơn (Quảng Ngãi) có dấu
hiệu tiềm năng. Khu vực đảo Lý Sơn, có tổng
chất rắn lơ lửng (TSS) ở mức gần với QCVN
10:2015/BTNMT và một số vị trí cao gấp hai lần
so với giới hạn cho phép. Cần có các giải pháp
thích hợp hạn chế lượng nước thải và rác thải khu
vực ven biển và biển đảo, nhất là vào mùa du
lịch, giữ vệ sinh và an toàn sức khỏe cho du
khách, đảm bảo phát triển du lịch bền vững.
Lời cảm ơn
Bài báo này được hoàn thành trong khuôn
khổ của đề tài cấp quốc gia, mã số KC.09.09/16-
20. Nhóm nghiên cứu xin chân thành cảm ơn.
Tài liệu tham khảo
[1] UNWTO (2017), World Tourism Organization and
United Nations Development Programme, 2017,
Tourism And The Sustainable Development Goals -
Journey To 2030 Highlights, UNWTO, Madrid.
pp.34 eISBN: 978-92-844-1934-0|ISBN: 978-92-
844-1933-3. (www.e-unwto.org/doi/pdf/10.18111/ 97
89284419340).
[2] C. Cvitanovic, E.I. Van Putten, A.J. Hobday, M.
Mackay, R. Kelly, J. McDonald, K. Waples, P.
Barnes. Building trust among marine protected
area managers and community members through
scientific research: Insights from the Ningaloo
Marine Park, Australia. Marine Policy 93 (2018)
195-206. https://doi.org/10.1016/j.marpol.2018.04.
010.
[3] Silvia Giuliani, Luca G. Bellucci, D.H. Nhon
(2018), Chapter 19 - The Coast of Vietnam:
Present Status and Future Challenges for
Sustainable Development. Published in World
Seas: An Environmental Evaluation (2nd Edition),
Pages 415-435. eBook ISBN: 9780128052037.
[4] ANZECC, Australian Water Quality Guidelines
for Fresh and Marine Waters. National Water
Quality Management Strategy Paper No.4,
Australian and NewZealand Environment and
Conservation Council, Canberra, 1992.
[5] Australian Government, ASEAN Marine Water
Quality Management Guidelines and Monitoring
Manual. Asean Marine Water Quality Criteria,
2008.
[6] Pham Huu Tam, Application of Water Quality
Index to Assess Environmental Quality in Coastal
Monitoring Stations in the South Viet Nam in the
Last 5 Years (2011-2015), VNU Journal of
Science: Earth and Environmental Studies 32 (4)
(2017) 36-45. https://js.vnu.edu.vn/EES/article/
view/4062. (in Vietnamese).
[7] Le Van Nam, Duong Thanh Nghi, Nguyen Xuan
Sang, Quality assessment of coastal waters in the
Northern part of Vietnam, 2016. Journal of marine
science and technology (Vietnam Maritime
University) 52 (2017) 41-45. https://www.
researchgate. net/publication/321509054. (in
Vietnamese).
[8] Ministry of Natural Resources and Environment
(2016), “TCVN 6663-3:2016 - Water quality -
Sampling - Part 3: Preservation and handling of
water samples”, Hanoi 2016. https://vanbanphap
luat.co/data/2018/05/310750_tcvn6663-3-2016.
pdf. (in Vietnamese).
[9] Rodger B. Baird, Andrew D, Eaton, Eugene W,
Rice, (2017), “Standard Methods for the
Examination of Water and Wastewater”, 23rd
N.H. Phong et al. / VNU Journal of Science: Earth and Environmental Sciences, Vol. 36, No. 2 (2020) 99-109
109
Edition, American Public Health Association, 800
I Street, NW, Washington, DC 20001-3710, ISSN
55-1979.
[10] Ministry of Natural Resources and Environment
(2015), “QCVN 10:2015/BTNMT - National
technical regulation on marine water quality”,
Hanoi 2015.
article/1010/QCVN%2010.2015_Nuoc%20bien.p
df. (in Vietnamese).
[11] Ministry of Health of Vietnam (2009), “QCVN
01:2009/BYT - National technical regulation on
drinking water quality”, Hanoi 2009.
fsi.org.vn/pic/files/qcvn-01-2009-byt-ve-nuoc-an
-uong.pdf. (in Vietnamese).
[12] Ministry of Health of Vietnam (2009), “QCVN
02:2009/BYT - National technical regulation on
domestic water quality”, Hanoi 2009.
fsi.org.vn/pic/files/qcvn-02-2009-byt-ve-nuoc-
sinh-hoat.pdf. (in Vietnamese).
[13] Le Thi Vinh, Water environmental quality at the
coastal area of Phu Quoc island, Journal of Marine
Science and Technology 13(3) (2013) 289-297.
https://www.vjs.ac.vn/index.php/jmst. (in
Vietnamese).
[14] Pham Huu Tam, “Coastal Seawater Quality from
Data at South Vietnam Monitoring Stations during
2013 -2017”, VNU Journal of Science: Earth and
Environmental Studies 34(2) (2018) 95-109. https://
doi.org/10.25073/2588-1094/vnuees.4250. (in
Vietnamese).
[15] Nguyen Dinh Nguyen, Nguyen Dinh Thai, Vu
Van Tich, Vu Viet Duc, Hoang Van Hiep,
Characteristics of Seawater Environment and
Geochemistry of Surface Sediment in Quang Binh
Sea Area (60-100m Depth), VNU Journal of
Science: Earth and Environmental Studies 34(4)
(2018) 89-97. https://doi.org/10.25073/2588-1094
/vnuees.4309. (in Vietnamese).
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- danh_gia_chat_luong_nuoc_bien_cac_tinh_quang_binh_va_quang_n.pdf