Xét về mặt thời gian, phân bố vsv gây bệnh
ở sò có cùng xu hướng phân bố vsv trong
môi trường nuôi, đợt thu hoạch (tháng 8)
đều cao hơn hai đợt đầu (Bảng 3). So sánh
2 đợt tháng 5 và tháng 8, giá trị trung bình
tổng Shi-Sa trong sò (cơ và ruột) vào tháng
8 cao gấp 25 lần so với tháng 5, cao trên 12
lần đối với Vibrio, và trên 13 lần với E.
coli. Tuy bãi sò chịu ảnh hưởng của dòng
triều nhưng do nằm sâu trong kênh nên ít
chịu ảnh hưởng điều kiện thủy động học.
Mặt khác, trầm tích ở đây dạng bùn mềm,
giàu chất hữu cơ nên bề mặt trầm tích ít bị
xáo trộn rửa trôi, tạo điều kiện cho các chất
thải độc hại xâm nhập, lắng đọng, tích lũy
lâu dài trên bề mặt nền đáy. Sò huyết là
sinh vật ăn lọc với thức ăn chính là bùn bã
hữu cơ (chiếm 90%) (Trần Hoàng Phúc,
1999) nên chất lượng môi trường, trong đó
trầm tích sẽ ảnh hưởng chính đến chất
lượng sò.
Theo TCN 193:2004, mật độ E. coli
trong cơ thân mềm hai mảnh vỏ ở vùng loại
B (sản phẩm thu hoạch phải được xử lý
trước khi tiêu thụ) cho phép <4.600
MPN/100g. Kết quả phân tích cho thấy có
sự chênh lệch lớn mật độ vsv gây bệnh
trong ruột và trong cơ sò khảo sát (Bảng 3).
Mật độ E. coli trong cơ sò tại các trạm nằm
trong ngưỡng cho phép ở các tháng khảo
sát, riêng trong cơ của sò thương phẩm ở
LK2 (34.139 MPN/100g) đã vượt quá
ngưỡng trên 7 lần vào đợt thu hoạch (tháng
8). Trong khi đó, E. coli cao trong ruột sò
thương phẩm, vượt quá ngưỡng cho phép
tại các trạm, thấp nhất ở LK5 (7.482
MPN/100g), cao nhất ở LK2 (198.347
MPN/100g), đạt giá trị trung bình 58.914
MPN/100g. Vào đợt tháng 5, E. coli trong
ruột sò cũng vượt quá ngưỡng, thấp nhất ở
LK4 (937 MPN/100g), cao nhất LK5
(8.879 MPN/100g), đạt giá trị trung bình
4.327 MPN/100g, tuy nhiên vẫn không đạt
mật độ cao như sò thương phẩm. Đối với
Shi-Sa, trong khi cơ sò ở tháng 3, tháng 5
đều không có thì ở tháng thu hoạch cả cơ
lẫn ruột sò đều xuất hiện với số lượng rất
cao, cao nhất tìm thấy ở sò thương phẩm ở
trạm LK2, kế đến là ở LK5, LK3. Trong khi
đó, yêu cầu Shi-Sa trong nhuyễn thể hai
mảnh vỏ ở vùng thu hoạch loại B là không
phát hiện (28 TCN 193: 2004). Theo Trần
Cẩm Vân (2005), Shi-Sa thường có số
lượng ít hơn E. coli rất nhiều và thường
xuyên bị E. coli ức chế. Tuy nhiên ở một
điều kiện nào đó, thế cân bằng sinh thái
trong ruột bị phá vỡ, số lượng E. coli suy
giảm, lúc đó Salmonella/Shigella sẽ phát
triển và gây bệnh. Mặc khác, khi gặp những
tác nhân đột biến hoặc điều kiện môi trường
không thuận lợi Salmonella/Shigella dễ bị
biến đổi dạng khuẩn lạc từ dạng S sang
dạng R tức là mất khả năng hình thành giáp
mạc. Do đó, chúng cũng không có khả năng
gây bệnh nữa. Như vậy, tùy vào tình trạng
sức khỏe của HMV nói chung, sò huyết nói
riêng, môi trường bãi nuôi có vệ sinh không
mà 3 nhóm trên hiện diện với tỷ lệ nhiều ít
trong cơ thể sinh vật khác nhau.
8 trang |
Chia sẻ: honghp95 | Lượt xem: 651 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đánh giá chất lượng sò huyết anadara granosa (linne, 1758) tại xã Long Khánh, tỉnh Trà Vinh bằng chỉ thị vi sinh vật, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
72
Tuyển Tập Nghiên Cứu Biển, 2015, tập 21, số 1: 72-79
ĐÁNH GIÁ CHẤT LƯỢNG SÒ HUYẾT ANADARA GRANOSA (LINNE, 1758)
TẠI XÃ LONG KHÁNH, TỈNH TRÀ VINH BẰNG CHỈ THỊ VI SINH VẬT
Võ Hải Thi
Viện Hải dương học, Viện Hàn lâm Khoa học & Công nghệ Việt Nam
Tóm tắt Bài báo đề cập về chất lượng sò huyết Anadara granosa (Linne, 1758) về
mặt vi sinh an toàn thực phẩm cho người tiêu dùng. Kết quả thu được từ ba
đợt khảo sát vào năm 2010 tại xã Long Khánh, Trà Vinh cho thấy mật độ vi
sinh vật gây bệnh ở sò huyết đầu vụ (tháng 3) và giữa vụ (tháng 5) có xu
hướng thấp hơn cuối vụ thu hoạch (tháng 8). Đợt giữa vụ, tổng Salmonella –
Shigella và Vibrio trong cơ sò huyết không phát hiện, Escherichiacoli (E.
coli) trung bình trong cơ và ruột sò vẫn nằm trong tiêu chuẩn cho phép ở
vùng thu hoạch loại B của hai mảnh vỏ (28TCN193: 2004). Đợt thu hoạch,
tổng Salmonella – Shigella đạt giá trị trung bình trong cơ và trong ruột lần
lượt là 7.676 và 42.261 cfu/100g, E. coli đạt giá trị trung bình trong cơ 9.267
MPN/100g, trong ruột 58.914 MPN/100g. Vibrio cao với giá trị trung bình
trong cơ và ruột sò thương phẩm là 31.920 và 158.203 cfu/100g. Như vậy, sò
thu hoạch tại thời điểm nghiên cứu chưa đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm.
EVALUATION ON QUALITY OF BLOOD COCKLE ANADARA GRANOSA
(LINNE, 1758) IN LONG KHANH COMMUNE, TRA VINH PROVINCE
USING BACTERIA AS BIO-INDICATORS
Vo Hai Thi
Institute of Oceanography, Vietnam Academy of Science & Technology
Abstract The quality of blood cockle Anadara granosa (Linne, 1758) for food safety
was mentioned in this paper. Results of the three investigations in 2010 at
Long Khanh commune, Tra Vinh province showed that the density of
pathogenic bacteria in blood cockle in the beginning of harvest season
(March) and mid-season of harvesting (May) was lower than in the end-
season of harvesting (August). At mid-season of harvesting, Salmonella –
Shigella and Vibrio in the tissue of blood cockle were absent, the density of
E. coli in tissue and gut was still in the safe level for the harvest zone of type
B for bivalve (28TCN193: 2004). At harvest in August, mean total of
Salmonella – Shigella in tissue and gut of blood cockle was 7,676 and
42,261 cfu/100g respectively; mean values of E. coli in tissue and gut of
blood cockle were 9,267 MPN/100g and 58,914 MPN/100g respectively.
The amount of Vibrio was high in the tissue and gut of commercial size
blood cockle with 31,920 and 158,203 cfu/100g, respectively. Thus, the
quality of commercial size blood cockle at study area was not safe for food.
73
I. MỞ ĐẦU
Các loài hai mảnh vỏ (HMV) đều là động
vật ăn lọc. Chúng không có khả năng chủ
động kiếm mồi và chọn lọc thức ăn, nguồn
thức ăn của chúng hoàn toàn phụ thuộc vào
điều kiện sống chung quanh, trong đó
nguồn thức ăn lơ lửng trong nước sẽ quyết
định thành phần thức ăn trong ống tiêu hóa
của chúng. Với cơ chế ăn lọc và sự phong
phú của vi sinh vật (vsv) trong môi trường
biển nên HMV thường tiêu thụ một lượng
rất lớn vsv. Khi nước biển bị nhiễm bẩn,
một lượng lớn vsv, chủ yếu các vi khuẩn
gây bệnh sẽ hiện diện và được HMV tiêu
thụ. Phần đông các vi khuẩn là vô hại với
chúng, nhưng một khi đạt tới mật độ cao thì
vi khuẩn lại có thể gây bệnh cho vật chủ -
Hai mảnh vỏ. Có hai nhóm vi khuẩn chính
thường hiện diện trong vùng nước biển ven
bờ và thường có mặt trong HMV: nhóm vi
khuẩn ngoại lai (Salmonella, Shigella) có
mặt trong nước mang mầm bệnh từ con
người hay súc vật bị nhiễm phân, và nhóm
vi khuẩn bản địa có mặt trong môi trường
biển, chủ yếu là các thành viên của họ
Vibrionaceae (Pruzzo và cs., 2005).
Nhóm Vibrio thuộc họ Vibrionaceae
thường sống ở trong vịnh và cửa sông.
Vibrio từ lâu đã được xem là nhóm đại diện
cho nhiều loài vi khuẩn gây bệnh nguy
hiểm nhất trong nuôi trồng do khả năng lây
lan rộng trong sinh vật biển như cá, tôm và
động vật thân mềm, trong đó nhiều loài gây
bệnh cho người và/hoặc liên kết gây bệnh
trong chuỗi thức ăn (Vandenberghe và cs.,
2003). Theo Romalde & Barja (2010), các
loài Vibrio alginolyticus (V. alginolyticus),
V. tubiashii và V. anguillarum là những tác
nhân gây bệnh “mô hoại tử” (bacillary
necrosis) trên các ấu trùng HMV (hàu
Crassostrea virginica, hàu Ostrea edulis, sò
Mercenaria mercenaria, điệp Argopecten
irradians và hà Teredo navalis) sau 4-5 giờ
nhiễm bệnh. Ngoài việc gây bệnh cho ấu
trùng, Vibrio còn gây bệnh cho HMV còn
nhỏ và trưởng thành V. tubiashii và V.
alginolyticus cũng là nguyên nhân làm các
loài HMV trưởng thành (sò Mercenaria
mercenaria, sò Mya arenaria, hàu
Crassostrea virginica, vẹm Mytilus edulis)
từ trạng thái khỏe mạnh chuyển sang suy
yếu. V. tapetis được xem là vi khuẩn chính
gây ra bệnh vòng nâu (Brown Ring Disease
– BRD). Khi nhiễm V. tapetis, nghêu
Ruditapes phillipinarum sẽ dễ bị rối loạn
sinh hóa và chết hơn nghêu R. decussatus,
sò M. mercenaria hay hàu C. virginica
(Jean và cs., 2011; Paillard và cs., 2006;
Allam và cs., 2001). Hàng năm, tại Mỹ, loài
Vibrio đã được xác nhận gây khoảng 8.000
chứng bệnh cho người và/hoặc liên kết gây
bệnh trong chuỗi thức ăn. Trong đó, V.
cholerae là loài nguy hiểm nhất, là tác nhân
gây dịch tả ở người. Theo WHO (2001),
ước khoảng 120.000 người trên toàn cầu
chết vì vi khuẩn tả này. Các loài khác
(V. vulnificus, V. parahaemolyticus, V.
alginolyticus, V. damsela, V. fluvialis, V.
furnissii, V. hollisae, V. metschnikovii và V.
mimicus) là các tác nhân gây tiêu chảy,
nhiễm trùng tiêu hóa, nhiễm trùng huyết,
viêm phúc mạc, ở người khi ăn thủy sản
sống hoặc cả khi nấu chín (Pruzzo và cs.,
2005; Lothigius, 2009).
Hầu hết vi khuẩn gây bệnh đường ruột
đều thuộc họ Enterobacteriaceae với trên
130 loài (Lothigius, 2009), với nhiều nhóm
khác nhau, song quan trọng nhất là
Escherichia coli (E. coli), Salmonella và
Shigella (Trần Cẩm Vân, 2005). E. coli
thuộc giống Escherichia, chiếm tới 80% vi
khuẩn hiếu khí trong ruột và luôn giữ thế
cân bằng sinh thái nên E. coli được chọn
làm vi sinh vật chỉ thị ô nhiễm. Có nghĩa ở
đâu có E. coli chứng tỏ có ô nhiễm phân và
có ô nhiễm các loại vsv gây bệnh khác.
Bình thường chúng không gây bệnh, nhưng
khi cơ thể suy yếu một số chủng mới có khả
năng gây bệnh. Gần đây, người ta còn
chứng minh E. coli cũng hiện diện ở những
vùng nước ấm, không bị ô nhiễm chất hữu
cơ. Do phân bố rộng rãi trong tự nhiên nên
E. coli dễ dàng nhiễm vào thực phẩm từ
nguyên liệu hay thông qua nguồn nước
trong quá trình sản xuất, chế biến (Trần
Đình Thước, 2009).
74
Shigella là nhóm vi khuẩn gây bệnh
đường ruột. Shigella dễ dàng bị tiêu diệt bởi
sức nóng và pH thấp nhưng ở một điều kiện
nào đó chúng có thể sống nhiều giờ bên
ngoài vật chủ. Chẳng hạn, Shigella sonnei
và Shigella flexneri có thể sống sót ở 250C
hơn 50 ngày trong nghêu, sò và hơn 30
ngày trong hàu (Ahmed, 1991). Phần lớn
các dịch bệnh do Shigella gây ra trong thủy
sản đều liên quan đến việc ăn thực phẩm
nấu còn tái. Ngoài ra không loại trừ trường
hợp Shigella sống trong nguyên liệu thủy
sản, bị lây nhiễm trong quá trình vận
chuyển cùng với các thực phẩm khác mang
mầm bệnh (Ahmed, 1991).
Salmonella cũng là nhóm vi khuẩn gây
bệnh đường ruột. Salmonella có sức đề
kháng tốt, có thể ở ngoài cơ thể trong thời
gian dài. Trong đất hoặc nước, chúng có thể
sống từ 2-3 tuần, trong nước đá tồn tại 2-3
tháng. Chúng cũng có thể tồn tại được ở
nhiệt độ 1000C trong 5 phút, ở 600C sống
được 10-20 phút (Trần Cẩm Vân, 2005).
Nghiên cứu ở Florida (Mỹ) cho thấy
khoảng 20% hàu, sò, cua bị nhiễm
Salmonella trong suốt những tháng hè. Việc
tiêu thụ HMV nuôi ở những vùng ô nhiễm
chất thải cũng là nguyên nhân bị nhiễm
Salmonella (Ahmed, 1991).
Sò huyết là một trong những nguồn lợi
thủy sản quan trọng của tỉnh Trà Vinh.
Ngoài giá trị kinh tế to lớn, nguồn lợi này
đảm bảo cuộc sống và việc làm của hàng
chục ngàn ngư dân ven biển. Để có thể đưa
HMV nói chung, sò huyết nói riêng nuôi tại
Trà Vinh vào thị trường xuất khẩu thế giới
cũng như tiêu thụ nội địa cần có những biện
pháp quản lý chặt chẽ nuôi trồng thủy sản
để đảm bảo sản xuất ra các sản phẩm đáp
ứng được các yêu cầu của các thị trường
tiêu thụ như an toàn vệ sinh thủy sản, có
chứng nhận xuất xứ, bảo vệ môi trường,
góp phần quan trọng vào việc tạo đầu ra
cho các sản phẩm nuôi.
Trong phạm vi bài báo, một số vi sinh
vật gây bệnh được sử dụng như là chỉ thị
sinh học để đánh giá chất lượng sò huyết tại
xã Hiệp Thạnh, tỉnh Trà Vinh.
II. PHƯƠNG PHÁP
1. Địa điểm, thời gian và phương pháp
thu mẫu
Nghiên cứu được thực hiện tại bãi nuôi sò
huyết ở xã Long Khánh, Duyên Hải, Trà
Vinh (Hình 1, bảng 1). Tiến hành thu mẫu
nước tầng mặt, trầm tích và mẫu sò huyết
vào 3 đợt (đầu vụ, giữa vụ, cuối vụ) tại 4
trạm LK2, LK3, LK4, LK5 dọc theo bãi sò.
Đợt đầu vụ - tháng 3/2010, sò huyết vừa
mới thả vào bãi, chỉ thu đại diện tại trạm
LK3, kích thước vỏ sò trung bình (Dài (D)-
19 mm, Cao (C)- 14 mm), khoảng 600-800
con/kg. Giữa vụ - tháng 5/2010, kích thước
vỏ trung bình (D- 24 mm, C- 17 mm). Thu
hoạch- tháng 8/2010, kích thước vỏ trung
bình (D- 29 mm, C- 22 mm), khoảng 84
con/kg. Giữa vụ và cuối vụ thu mẫu sò tại
các trạm LK2, LK3, LK4, LK5.
Tại 3 đợt, mẫu nước tầng mặt và mẫu
trầm tích tại các trạm trên cũng được thu.
Mẫu nước thu bằng bình thu mẫu Niskin-5L
và trầm tích thu bằng cuốc trầm tích (kích
thước 20 cm x 15 cm). Ngoài 4 trạm trên
còn thu 2 trạm LK1 và LK6 nằm ngoài bãi
sò. Các mẫu thu được bảo quản trong thùng
đá trong suốt quá trình đi thực địa. Sò sau
khi mang về phòng thí nghiệm, dùng dao
nhọn cạy hai vỏ. Tách phần thịt và phần
ruột ra riêng, rửa sạch bằng nước muối tiệt
trùng 2%. Sau đó, đem nghiền bằng cối sứ.
Đem cơ/ruột đã nghiền, hòa với nước muối
sinh lý 0,85% theo tỷ lệ 1:10 và tiến hành
phân tích ngay. Mọi dụng cụ sử dụng trong
thu mẫu và thí nghiệm đã qua tiệt trùng cẩn
thận (Austin, 1988; Đỗ Thị Hòa, 1999).
2. Phương pháp phân tích
Các chỉ tiêu vi sinh vật sử dụng để đánh giá
chất lượng môi trường (nước, trầm tích) bãi
nuôi sò: Tổng Coliform, tổng Salmonella và
Shigella và tổng Vibrio.
Các chỉ tiêu vi sinh vật sử dụng để đánh
giá chất lượng sò huyết dựa theo tiêu chuẩn
an toàn thực phẩm đối với hải sản (Ahmed,
1991): Tổng Salmonella và Shigella, tổng
Vibrio, và E.coli.
75
Trong đó, định lượng Coliform và E. coli
bằng phương pháp nhiều ống (Multi-tube).
Coliform nuôi cấy trong môi trường
MacConkey Broth Purple, E. coli nuôi cấy
trong môi trường nước thịt – pepton –
lactoza, tổng Shigella –Salmonella (Shi-Sa)
và Vibrio xác định bằng phương pháp
đổ đĩa (Pour plate). Shi-Sa nuôi cấy
trên môi trường Salmonella - Shigella
(SS) Agar, Vibrio nuôi cấy trong môi
trường Thiosulfate-citrate-bile salts-sucrose
(TCBS) agar. Quy trình nuôi cấy vi sinh vật
được thực hiện theo Austin, 1988; APHA,
2005.
Sử dụng Microsoft Excel để tính toán
thống kê.
Hình 1. Bản đồ vị trí thu mẫu ở bãi sò huyết xã Long Khánh
Fig. 1. Sampling sites in Long Khanh ground
Bảng 1. Tọa độ trạm vị nghiên cứu ở bãi sò huyết Long Khánh
Table 1. The location of sampling sites in Long Khanh ground
Trạm Tọa độ
LK1 N 090 36.027’, E 1060 26.537’
LK2 N 090 36.076’, E 1060 26.476’
LK3 N 090 36.082’, E 1060 26.412’
LK4 N 090 36.014’, E 1060 26.346’
LK5 N 090 35.894’, E 1060 26.319’
LK6 N 090 35.822’, E 1060 26.318’
III. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN
1. Phân bố vi sinh vật gây bệnh trong
môi trường nuôi sò huyếtAnadara
granosa
1.1. Trong môi trường nước:
Kết quả thu được từ 3 đợt khảo sát – đầu vụ
(3/2010), giữa vụ (5/2010) và cuối vụ
(8/2010) cho thấy mật độ trung bình
Coliform, Vibrio trong nước tại 4 trạm ở bãi
nuôi sò huyết xã Long Khánh đều trong
ngưỡng cho phép đối với vùng nước nuôi,
lưu giữ thủy sản (Coliform < 104/100ml,
QCVN 08:2008/BTNMT; Vibrio < 105
cfu/100ml, TCN 101:1997) (Bảng 2). Tổng
Shigella và Salmonella (Shi-Sa) không phát
hiện ở trạm LK3 vào tháng 3, nhưng đã
được tìm thấy trong nước tại hầu hết các
trạm, đạt giá trị trung bình 50 ± 58
cfu/100ml vào tháng 5, và tăng lên 750 ±
493 cfu/100ml vào tháng 8. Xét về phân bố
không gian, các vi sinh vật (vsv) gây bệnh
76
biến động không theo quy luật. Tuy nhiên,
xét về mặt thời gian, mật độ trung bình Shi-
Sa và Vibrio ở các trạm khảo sát có xu
hướng cao vào tháng mùa mưa hơn tháng
mùa khô. Chênh lệch giá trị trung bình tổng
Shi-Sa giữa tháng 8 và tháng 5 ở khu vực
khảo sát khoảng 15 lần, đối với Vibrio
khoảng 1,5 lần.
Đối với hai trạm ngoài bãi (LK1, LK6),
các vsv khảo sát có cùng xu hướng với các
trạm trong bãi nuôi. Mật độ Coliform và
Vibrio trong nước vẫn nằm trong giới hạn
cho phép, Shi-Sa đều hiện diện trong nước
vào đợt tháng 5, tháng 8. Shi-Sa, Vibrio đạt
giá trị cao nhất vào tháng 8.
Bảng 2. Mật độ vi sinh vật gây bệnh trong môi trường nước và
trầm tích tại bãi sò huyết Long Khánh
Table 2. Density of pathogenic bacteria in water and sediment in Long Khanh ground
Mẫu nước
Coliform (MPN/100ml) Shi-Sa (cfu/100ml) Vibrio (cfu/100ml)
T3/2010 T5/2010 T8/2010 T3/2010 T5/2010 T8/2010 T3/2010 T5/2010 T8/2010
Trong LK2N
2.400 2.400
0 700
8.700 3.200
bãi LK3N 0 430 930 0 100 700 2.400 13.900 42.000
LK4N
930 36
0 200
6.400 3.400
LK5N
1.500 1.500
100 1.400
11.200 9.800
TB
1.315 1.217
50 750
10.050 14.600
±SD
845 993
58 493
3.230 18.522
Ngoài LK1N 92 2.400 2.400 0 200 5.200 1.600 1.700 23.000
bãi LK6N 92 430 930 0 100 300 1.000 3.600 11.300
Tiêu chuẩn < 104MPN/100ml
<105cfu/100ml
cho phép QCVN 08: 2008/BTNMT TCN 101: 1997
Mẫu trầm tích
Coliform (MPN/100g) Shi-Sa (cfu/100g) Vibrio (cfu/100g)
T3/2010 T5/2010 T8/2010 T3/2010 T5/2010 T8/2010 T3/2010 T5/2010 T8/2010
Trong LK2TT
591 2.916
2.054 11.288
65.731 288.462
bãi LK3TT 1.078 2.384 3.016 1.875 1.794 11.027 104531 142.515 66.486
LK4TT
3.107 12.308
1.002 4.281
141.648 11.773
LK5TT
98 9.662
271 6.039
40.416 55.153
TB
1.545 6.976
1.280 8.159
97.578 105.469
±SD
1.432 4.754
808 3.538
52.419 124.253
Ngoài LK1TT 2.968 634 2.926 957 2.757 38.695 21.064 87.116 393.876
bãi LK6TT 821 623 879 357 542 7.263 15.357 10.300 46.636
Ghi chú: N- trong nước, TT- trong trầm tích, TB- giá trị trung bình, SD- độ lệch chuẩn
1.2. Trong môi trường trầm tích:
Kết quả từ bảng 2 cũng cho thấy mật độ
trung bình Coliform trong trầm tích vào
tháng 8 là 6.976 ± 4.754 MPN/100g cao
hơn tháng 5 (1.545 ± 1.432 MPN/100g) trên
4,5 lần; Shi-Sa vào tháng 8 đạt giá trị trung
bình 8.159 ± 3.538 MPN/100g cao hơn
tháng 5 (1.280 ± 808 MPN/100g) là 6,4 lần.
Giá trị trung bình Vibrio vào tháng 8
(105.469 ± 124.253 cfu/100g) cao hơn
tháng 5 (97.578 ± 52.419 cfu/100g) nhưng
không chênh lệnh nhiều. Thông thường,
giữa khu hệ vi khuẩn trong nước và trầm
77
tích có mối liên hệ nhất định, việc tách biệt
rõ ràng giữa vi khuẩn trong trầm tích và
trong nước là điều khó làm, đặc biệt ở
những vùng nước ít xáo trộn do động lực
nước yếu như bãi sò sẽ tạo điều kiện cho
các vsv trong nước lắng đọng xuống trầm
tích. Vì vậy, phân bố vsv trong trầm tích
thường có cùng xu hướng phân bố trong
nước.
So sánh phân bố vsv ở 6 trạm, sự chênh
lệch mật độ vsv của 4 trạm trong bãi và 2
trạm ngoài bãi không theo xu hướng rõ ràng
và chưa thấy rõ việc nuôi sò đã ảnh hưởng
đến chất lượng môi trường nước nuôi hay
không. Sự phân bố mật độ vsv gây bệnh
trên cũng có thể bị ảnh hưởng lượng chất
thải từ các khu vực nuôi tôm trên đất liền,
từ sông Động Cao đưa vào dưới tác động
dòng triều (mỗi ngày có 2 lần triều lên và 2
lần triều xuống) bên cạnh nguồn thải trực
tiếp từ sinh hoạt của người dân sống quanh
bãi.
2. Đánh giá vệ sinh an toàn thực phẩm ở
sò huyết Anadara granosa
Xét về mặt thời gian, phân bố vsv gây bệnh
ở sò có cùng xu hướng phân bố vsv trong
môi trường nuôi, đợt thu hoạch (tháng 8)
đều cao hơn hai đợt đầu (Bảng 3). So sánh
2 đợt tháng 5 và tháng 8, giá trị trung bình
tổng Shi-Sa trong sò (cơ và ruột) vào tháng
8 cao gấp 25 lần so với tháng 5, cao trên 12
lần đối với Vibrio, và trên 13 lần với E.
coli. Tuy bãi sò chịu ảnh hưởng của dòng
triều nhưng do nằm sâu trong kênh nên ít
chịu ảnh hưởng điều kiện thủy động học.
Mặt khác, trầm tích ở đây dạng bùn mềm,
giàu chất hữu cơ nên bề mặt trầm tích ít bị
xáo trộn rửa trôi, tạo điều kiện cho các chất
thải độc hại xâm nhập, lắng đọng, tích lũy
lâu dài trên bề mặt nền đáy. Sò huyết là
sinh vật ăn lọc với thức ăn chính là bùn bã
hữu cơ (chiếm 90%) (Trần Hoàng Phúc,
1999) nên chất lượng môi trường, trong đó
trầm tích sẽ ảnh hưởng chính đến chất
lượng sò.
Theo TCN 193:2004, mật độ E. coli
trong cơ thân mềm hai mảnh vỏ ở vùng loại
B (sản phẩm thu hoạch phải được xử lý
trước khi tiêu thụ) cho phép <4.600
MPN/100g. Kết quả phân tích cho thấy có
sự chênh lệch lớn mật độ vsv gây bệnh
trong ruột và trong cơ sò khảo sát (Bảng 3).
Mật độ E. coli trong cơ sò tại các trạm nằm
trong ngưỡng cho phép ở các tháng khảo
sát, riêng trong cơ của sò thương phẩm ở
LK2 (34.139 MPN/100g) đã vượt quá
ngưỡng trên 7 lần vào đợt thu hoạch (tháng
8). Trong khi đó, E. coli cao trong ruột sò
thương phẩm, vượt quá ngưỡng cho phép
tại các trạm, thấp nhất ở LK5 (7.482
MPN/100g), cao nhất ở LK2 (198.347
MPN/100g), đạt giá trị trung bình 58.914
MPN/100g. Vào đợt tháng 5, E. coli trong
ruột sò cũng vượt quá ngưỡng, thấp nhất ở
LK4 (937 MPN/100g), cao nhất LK5
(8.879 MPN/100g), đạt giá trị trung bình
4.327 MPN/100g, tuy nhiên vẫn không đạt
mật độ cao như sò thương phẩm. Đối với
Shi-Sa, trong khi cơ sò ở tháng 3, tháng 5
đều không có thì ở tháng thu hoạch cả cơ
lẫn ruột sò đều xuất hiện với số lượng rất
cao, cao nhất tìm thấy ở sò thương phẩm ở
trạm LK2, kế đến là ở LK5, LK3. Trong khi
đó, yêu cầu Shi-Sa trong nhuyễn thể hai
mảnh vỏ ở vùng thu hoạch loại B là không
phát hiện (28 TCN 193: 2004). Theo Trần
Cẩm Vân (2005), Shi-Sa thường có số
lượng ít hơn E. coli rất nhiều và thường
xuyên bị E. coli ức chế. Tuy nhiên ở một
điều kiện nào đó, thế cân bằng sinh thái
trong ruột bị phá vỡ, số lượng E. coli suy
giảm, lúc đó Salmonella/Shigella sẽ phát
triển và gây bệnh. Mặc khác, khi gặp những
tác nhân đột biến hoặc điều kiện môi trường
không thuận lợi Salmonella/Shigella dễ bị
biến đổi dạng khuẩn lạc từ dạng S sang
dạng R tức là mất khả năng hình thành giáp
mạc. Do đó, chúng cũng không có khả năng
gây bệnh nữa. Như vậy, tùy vào tình trạng
sức khỏe của HMV nói chung, sò huyết nói
riêng, môi trường bãi nuôi có vệ sinh không
mà 3 nhóm trên hiện diện với tỷ lệ nhiều ít
trong cơ thể sinh vật khác nhau.
Tương tự như E. coli và Shi-Sa, phân bố
Vibrio rất cao ở cơ và ruột sò thương
phẩm (Bảng 3), vượt quá tiêu chuẩn
cho phép (<300 cfu/100g, WHO, 1990)
78
(Setyobudiandi, 1999) từ 3 đến trên 1.800
lần, đạt giá trị cao nhất tại trạm LK2 (mật
độ Vibrio trong cơ là 108.108 cfu/100g,
trong ruột là 550.413 cfu/100g). Điều đáng
chú ý, Vibrio cao, dao động từ 1.629 -
48.095 cfu/100g trong ruột của sò vào
tháng 3 và tháng 5 thì trong cơ hoàn toàn
không có. Do sò cùng những loài HMV
khác lọc thức ăn (các hạt nhỏ và tảo) trong
nước thông qua mang vào ruột và quá trình
này nhìn chung không có sự chọn lọc.
Chúng lọc mọi thứ trong nước kể cả các hạt
chất thải. Các hạt này có thể có hại cho
người tiêu thụ các loài HMV này, nhưng
không nhất thiết có hại cho chính HMV đó.
Vì vậy, khi vsv gây bệnh theo các hạt thức
ăn vào ruột, tại đây, một số vsv theo những
hạt thức ăn phù hợp được tiêu hóa hoặc
theo những hạt thức ăn không phù hợp bài
tiết ra ngoài ở dạng phân. Một số bám vào
thành ruột và ở lại trên đó, số khác đi qua
khỏi thành ruột vào máu hoặc đi vào các
mô. Vì vậy, ruột là nơi vsv luôn luôn có
mặt đầu tiên với mật độ cao hơn so các bộ
phận khác trong cơ thể loài HMV (Boulter,
1999).
Căn cứ vào các chỉ tiêu vi sinh, sò huyết
thương phẩm ở bãi Long Khánh (tháng
8/2010) chưa đảm bảo an toàn vệ sinh thực
phẩm (vùng B). E.coli trong cơ đạt giá trị
trung bình 9.267 ± 16.592 MPN/100g,
trong ruột 58.914 ± 93.022 MPN/100g vượt
quá ngưỡng cho phép (< 4.600 MPN/100g)
từ 2 đến 13 lần. Shi-Sa đạt giá trị trung bình
trong cơ và ruột lần lượt là 7.676 ± 8.150 và
42.261 ± 65.081 cfu/100g, trong khi đó yêu
cầu không phát hiện trong sản phẩm thu
hoạch. Và Vibrio quá cao với giá trị trung
bình trong cơ và ruột sò thương phẩm là
31.920 ± 51.424 và 158.203 ± 262.132
cfu/100g, vượt quá ngưỡng (<300 cfu/100g)
từ 100 đến trên 500 lần. Theo Solic và cs.
(1999), vsv gây bệnh có thể sống sót trong
cơ thể các loài HMV lâu hơn trong nước
biển, hơn nữa khi sống trong cơ thể HMV,
vsv vẫn tiếp tục sinh sản. Ăn HMV đã qua
nấu chín là phương cách tốt nhất nhằm đảm
bảo sức khỏe cho người tiêu thụ.
Bảng 3. Mật độ vi sinh vật gây bệnh trong sò huyết tại bãi Long Khánh
Table 3. Density of pathogenic bacteria in blood cockle in Long Khanh ground
Sò
huyết
E. coli (MPN/100g) Shi-Sa (cfu/100g) Vibrio (cfu/100g)
T3/2010 T5/2010 T8/2010 T3/2010 T5/2010 T8/2010 T3/2010 T5/2010 T8/2010
LK2C
557 34.139
0 18.492
0 108.108
LK2R
1.522 198.347
5.117 138.843
6.726 550.413
LK3C 450 209 1.767 0 0 3.072 0 0 768
LK3R 1.095 5.969 15.075 476 0 5.025 6.190 4.377 25.754
LK4C
263 322
0 0
0 17.889
LK4R
937 14.751
0 1.844
1.629 51.014
LK5C
1.437 841
0 9.141
0 914
LK5R
8.879 7.482
1.745 23.331
48.095 5.632
TB Cơ
617 9.267 0 0 7.676 0 0 31.920
±SD
568 16.592
0 8.150
0 51.424
TB Ruột
4.327 58.914
1.716 42.261
15.207 158.203
±SD 3.776 93.022 2.412 65.081 22.024 262.132
Tiêu
chuẩn
< 4600MPN/100g Không phát hiện < 300cfu/100g
Vùng loại B- 28 TCN 193: 2004 Vùng loại B - 28 TCN 193: 2004 WHO, 1990
Ghi chú: C- cơ, R- ruột, TB- giá trị trung bình, SD- độ lệch chuẩn.
79
Lời cảm ơn. Chúng tôi xin chân thành cám
ơn PGS.TS. Tạ Thị Kim Oanh, Viện Địa lý
Tài nguyên Tp. HCM, chủ nhiệm đề tài:
“Đánh giá tổng thể điều kiện tự nhiên và
môi trường phục vụ khai thác và nuôi trồng
các loài nhuyễn thể (nghêu, sò huyết) phát
triển kinh tế khu vực ven biển tỉnh Trà
Vinh” đã tạo điều kiện cho chúng tôi thực
hiện nghiên cứu này.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Ahmed F. E., 1991. Seafood safety.
Committee on Evaluation of the Safety
of Fishery Products. National Academy
Press, Washington D.C., 86 p.
Allam B., A. A. Kathryn, E. F. Susan, 2001.
Haemocyte parameters associated with
resistance to brown ring disease in
Ruditapes spp. clams. Developmental
and Comparative Immunology, 25: 365-
375.
APHA, 2005. Standard methods for the
examination of water and wastewater.
21th ed., American Public Health
Association, Washington D. C., part
9.000.
Austin B., 1988. Methods in aquatic
bacteriology: Modern microbiological
methods. A Wiley - Interscience
Publication, 495 p.
Boulter M., 1999. Depuration centre
management. Revised Course Notes. A
COMETT programme administered by
Aqua TT UETP Ltd, 212 p.
Đỗ Thị Hòa, 1999. Phương pháp nghiên
cứu bệnh do vi khuẩn ở động vật thủy
sản. Tài liệu tập huấn “Chẩn đoán xác
định bệnh tôm và môi trường ao nuôi”.
Tổ chức tại Khánh Hòa, 12-18/8/1999.
Jean F., Jonathan Flye-Sainte-Marie,
Clémence Oudard, Christine Paillard,
2011. Handling enhances the develop-
ment of brown ring disease signs in
Ruditapes philippinaru. Journal of
Shellfish Research, 30(1): 13-15.
Lothigius A., 2009. Presence and viability
of enterotoxigenic Escherichia coli
(ETEC) in aquatic environments.
Institute of Biomedicine at Sahlgrenska
Academy. University of Gothenburg,
Sweden, 56 p.
Paillard C, S. Gausson, J. L. Nicolas, Jean
Paul le Pennec, D. Haras, 2006.
Molecular identification of Vibrio
tapetis, the causative agent of the brown
ring disease of Ruditapes philippinaru.
Aquaculture (0044 - 8486) (Elsevier),
2006-03, vol. 253, no. 1-4, p. 25-38.
Pruzzo C., G. Gabriella and C. Laura, 2005.
Persistence of vibrios in marine bivalves:
the role of interactions with haemolymph
components. Environmental Micro-
biology, 7(6): 761-772.
Romalde J. L., and J. L. Barja, 2010.
Bacteria in molluscs: good and bad guys.
Current Research, Technology and
Education Topics in Applied Microbial
Biotechnology. A. Méndez-Vilas (Ed.),
p. 136-147.
Setyobudiandi I., M. Alifuddin, M.
Krisanti, H. Effendie, 1999. Bacteria in
green mussel Perna viridis (L.) and its
environment. Phuket Marine Biological
Center, Special Publication, 19(1): 145-
150.
Solic M., N. Krstulovic, S. Jozic and D.
Curac, 1999. The rate of concentration
of Fecal coliforms in shellfish under
different environmental conditions.
Environment International, 25(8): 991-
1.000.
Trần Cẩm Vân, 2005. Giáo trình vi sinh vật
học môi trường. Nhà xuất bản Đại học
Quốc gia Hà Nội, 159 trang.
Trần Đình Thước, 2009. Phương pháp phân
tích vi sinh vật trong nước, thực phẩm và
mỹ phẩm. Nhà xuất bản Giáo dục, 232
trang.
Trần Hoàng Phúc, 1999. Nghiên cứu các
biện pháp khai thác hợp lý và bảo vệ một
số giống loài thủy sản ven biển Trà
Vinh. Luận án thạc sĩ khoa học.
Vandenberghe J., F. Thompson, B. Gomez-
Gil, J. Swings, 2003. Phenotypic
diversity amongst Vibrio isolates from
marine aquaculture systems. Aqua-
culture, 219: 9-20.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 09_vohaithi_trang72_79_3543_2070864.pdf