Phương pháp điều trị
Trong loạt nghiên cứu của chúng tôi thì mổ
mở chiếm tỉ lệ khá cao là 81,58%, trong khi đó thì
tán sỏi nội soi chỉ chiếm tỉ lệ 18,42%, điều này đặt
ra câu hỏi tại sao tỉ lệ mổ mở lại có tỉ lệ cao? có
khó khăn gì trong can thiệp bằng nội soi? phẫu
thuật trên người bệnh có biến đổi chức năng
thận thì có khó khăn không? Vai trò của kỹ thuật
tán sỏi nội soi trong bệnh lý sỏi niệu quản phụ
thuộc vào chỉ định và chống chỉ định của kỹ
thuật. Trong nghiên cứu này có 7/38 trường hợp
có nhiễm trùng và ứ mủ ở thận và cấy mủ (+)
(18,42%). Những trường hợp này chống chỉ định
can thiệp bằng nội soi. Ngoài ra, tuỳ theo vị trí,
kích thước, và tính chất của sỏi mà kết quả điều
trị có khác nhau: đối với sỏi niệu quản 1/3 dưới
thì tỉ lệ thành công cao trên 90%, nhưng đối với
sỏi niệu quản 1/3 giữa và 1/3 trên thì tỉ lệ thành
công thấp hơn. Sự đánh giá thiếu chính xác các
biến đổi chức năng sinh học để có hướng điều trị
bổ sung thích hợp trước và sau khi giải phóng bế
tắc đóng vai trò rất lớn trong khả năng phục hồi
chức năng thận. Chúng ta cần nên tránh quan
điểm là bác sĩ ngoại khoa chỉ biết phẫu thuật mà
cần nên biết rằng còn có nhiều yếu tố khác quan
trọng hơn và quyết định hiệu quả điều trị hơn là
phẫu thuật. Chúng tôi thấy rằng chỉ định điều trị
ngoại khoa là bắt buộc và khẩn cấp trong trường
hợp có kèm theo tình trạng nhiễm trùng nặng
mà không đáp ứng với điều trị nội khoa dù ở bất
kỳ mức độ nào của tình trạng suy giảm chức
năng thận, trong trường hợp không có nhiễm
trùng thì chỉ định điều trị ngoại khoa cũng phải
dè dặt và phải chú ý đến tiên lượng khả năng
phục hồi chức năng của thận. Trong những
trường hợp nghiên cứu của chúng tôi thì không
có trường hợp nào được xử trí bằng phương
pháp tán sỏi ngoài cơ thể. Với những chống chỉ
định rộng rãi của phương pháp này thì vấn đề
áp dụng kỹ thuật tán sỏi ngoài cơ thể vào loạt
bệnh nghiên cứu này là hạn chế.
5 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 09/02/2022 | Lượt xem: 52 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đánh giá chức năng thận trước và sau khi điều trị ngoại khoa sỏi niệu quản, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 1 * 2013
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Bệnh Viện Chợ Rẫy Năm 2012 368
ĐÁNH GIÁ CHỨC NĂNG THẬN TRƯỚC VÀ SAU KHI ĐIỀU TRỊ
NGOẠI KHOA SỎI NIỆU QUẢN
Phạm Việt Phong*, Vũ Lê Chuyên**
TÓM TẮT
Đặt vấn đề: đánh giá chức năng thận trước và sau khi điều trị ngoại khoa sỏi niệu quản là quan trọng và
cần thiết.
Mục tiêu: đánh giá chức năng thận trước và sau khi điều trị ngoại khoa sỏi niệu quản.
Phương pháp: tiến cứu.
Kết quả: Ure huyết thanh: trước mổ, 50% > 13,5mmol/l; 34,21% bình thường.; sau mổ 50% trở về bình
thường. Creatinine huyết thanh: 87% có tăng creatinin trước mổ, sau mổ một tuần 56,67% trở về bình thường.
Tỉ lệ suy thận độ 2 là 33,33% và độ 3 là 30%; sau mổ 43,33% GFR trở về bình thường và còn suy thận độ 1 - 2
khoảng 20%.
Kết luận: Chẩn đoán sớm và thời gian phát bệnh càng ngắn thì khả năng phục hồi chức năng thận sau khi
giải quyết bế tắc càng cao.
Từ khóa: sỏi niệu quản, ure huyết thanh, creatinin huyết thanh, mức lọc cầu thận
ABSTRACT
EVALUTION OF RENAL FUNCTION BEFORE AND AFTER SURGICAL TREATMENT OF URETERAL
STONES
Pham Viet Phong, Vu Le Chuyen * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 17 - Supplement of No 1 - 2013: 368 - 373
Background: Evaluation of renal function before and after surgical treatment of ureteral stones is important
and necessary.
Objective: To evaluate renal function before and after surgical treatment of ureteral stones
Methods: The prospective study.
Results: Serum urea: before surgery, 50%> 13.5 mmol / l; 34.21% normal.; After surgery 50% back to
normal. Serum creatinine: 87% have increased creatinine before surgery, after surgery a week 56.67% back to
normal. The rate of second kidney was 33.33% and the third is 30%, 43.33% postoperative GFR returned to
normal levels and even renal failure 1 to 2 of about 20%.
Conclusion: Early diagnosis and shorter duration of illness, the possibility of recovery of renal function after
surgical treatment is higher.
Keywords: ureteral stones, serum urea, serum creatinine, glomerular filtration rate.
ĐẶT VẤN ĐỀ
Sỏi thận là một bệnh thường gặp và hay tái
phát do sự kết tinh của một số thành phần trong
nước tiểu ở những điều kiện lý hoá nhất định.
Tần số mắc bệnh từ 1 – 14% tuỳ theo từng vị trí
địa lý. Tuổi mắc bệnh thường từ 25 – 60 tuổi.
Nam giới mắc bệnh gấp đôi nữ giới(1,5,7). Một khi
sỏi gây tắc nghẽn niệu quản thì gây biến chứng
rất nhanh và nặng: nhiễm khuẩn đường tiết
niệu, thận trướng nước, thận ứ mủ, vô niệu, suy
thận cấp, suy thận mạn... Tuy nhiên không phải
lúc nào sỏi niệu quản cũng gây biến chứng
nhanh chóng mà có trường hợp bệnh diễn tiến
* Khoa Nội Hô hấp - BV Nguyễn Tri Phương TPHCM
Tác giả liên lạc: TS.BS. Lê Tiến Dũng ĐT: 0913723129 Email: ledungcuc@yahoo.com.
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 1 * 2013 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Bệnh Viện Chợ Rẫy Năm 2012 369
âm thầm và kéo dài cho đến khi tình cờ phát
hiện thì đã xảy ra bệnh lý suy giảm chức năng
thận nên việc điều trị trở nên khó khăn và ít đạt
kết quả tốt cho sự phục hồi chức năng thận.
Theo dịch tễ học thì Việt Nam là vùng sỏi
niệu, trong các loại sỏi niệu thì sỏi niệu quản
chiếm tỉ lệ cao nhất và cũng là loại sỏi gây ra suy
thận nhiều nhất(5,7,8). Vấn đề điều trị biến chứng
suy thận do sỏi niệu quản gây ra đôi khi không
đơn giản, tình trạng suy thận có thể tồn tại, tiếp
tục diễn tiến hay cải thiện sau khi đã mổ lấy sỏi,
cho nên việc nghiên cứu đánh giá chức năng
thận trước và sau khi điều trị ngoại khoa sỏi niệu
quản là rất quan trọng và cần thiết.
Mục tiêu nghiên cứu
Khảo sát các yếu tố dịch tễ học, sự tương
quan giữa các dữ liệu lâm sàng và cận lâm sàng,
sự tương quan giữa các phương pháp điều trị và
khả năng hồi phục của thận trong bệnh lý bế tắc
đường tiết niệu trên do sỏi niệu quản.
ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Đối tượng
Tiêu chuẩn chọn bệnh
Bệnh nhân đến khám và điều trị tại khoa
Niệu A và Niệu B Bệnh viện Bình Dân - Thành
phố Hồ Chí Minh được chẩn đoán sỏi niệu quản
có thay đổi chức năng thận dựa trên các xét
nghiệm sinh hóa máu và chẩn đoán hình ảnh.
Tiêu chuẩn loại trừ
Bệnh nhân bị sỏi niệu quản nhưng chưa có
thay đổi chức năng thận. Bệnh nhân có bệnh
lý nội khoa kèm theo có ảnh hưởng đến chức
năng thận. Bệnh nhân có sỏi niệu quản kèm
theo sỏi thận.
Phương pháp nghiên cứu
Tiến cứu.
Thời gian
Thu thập dữ liệu từ ngày 01/01/2004 đến
ngày 31/03/2005
KẾT QUẢ
Trong thời gian nghiên cứu chúng tôi đã ghi
nhận được 38 trường hợp.
Dịch tễ học
Bảng 1: Phân bố theo tuổi bệnh nhân
Tuổi 60
n 2 6 7 10 13
Tỉ lệ % 5,26 15,78 18,42 26,31 34,21
Bảng 2: Phân bố theo giới tính
Giới tính Nam Nữ
n 21 17
Tỉ lệ % 55,26 44,73
Bảng 3: Phân bố theo địa dư
Địa phương TP.HCM Nơi khác
n 11 27
Tỉ lệ % 28,95 71,05
Bảng 4: Phân bố theo nghề nghiệp
Lao động trí óc Lao động chân tay
n 3 35
Tỉ lệ % 7,89 92,11
Lâm sàng
Bảng 5: Tỉ lệ của thời gian phát bệnh
< 1 tháng 1 – 6 tháng 6 tháng – 1
năm
> 1 năm
n 9 13 7 9
Tỉ lệ % 23,68 34,21 18,42 23,68
Bảng 6: Thời gian nằm viện
Thời gian 3 tuần
n 4 26 4 4
Tỉ lệ % 10,52 68,42 10,52 10,52
Cận lâm sàng
Bảng 7: Chỉ số ure huyết thanh trước và sau khi giải
phóng bế tắc
Chỉ số Ure
(mmol/l)
13,5
Trước Sau Trước Sau Trước Sau
n 6 15 13 9 19 6
Tỉ lệ % 15,79 50 34,21 30 50 20
Bảng 8: Nồng độ Creatinine huyết thanh trước và sau khi giải phóng bế tắc
Nồng độ Crea 900
T S T S T S T S T S
n 5 17 13 8 8 3 8 2 4 0
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 1 * 2013
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Bệnh Viện Chợ Rẫy Năm 2012 370
Tỉ lệ % 13,16 56,67 34,21 26,67 21,05 10 21,05 6,67 10,53 0
(* Ghi chú: T: trước mổ, S: sau mổ)
Bảng 9: Mức lọc cầu thận (GFR) trước khi giải phóng bế tắc
GFR (mls/min/1.73m
2
) > 60 60 – 41 40 – 21 20 – 11 10 – 5 < 5
T S T S T S T S T S T S
n 0 13 5 6 10 6 5 3 9 2 1 0
Tỉ lệ % 0 43,33 16,67 20 33,33 20 16,67 10 30 6.67 3,33 0
Bảng10: Nồng độ ion Na+ trước và sau khi giải phóng
bế tắc
Na
+
(mmol/l) 144
Trước mổ 14 16 1
Tỉ lệ % 45,16 51,61 3,23
Sau mổ 4 11 1
Tỉ lệ % 25 68,75 6,25
Bảng 11: Nồng độ ion K+ trước và sau khi giải phóng
bế tắc
K
+
(mmol/l) 4.9
Trước mổ 0 22 9
Tỉ lệ % 0 70,79 29,03
Sau mổ 0 12 3
Tỉ lệ % 0 80 20
Chụp bộ niệu không chuẩn bị (KUB)
Bảng 12: Tỉ lệ các kiểu sỏi
Sỏi 1 bên NQ Sỏi 2 bên NQ Sỏi NQ+ Thận
bệnh nhân 10 9 19
Tỉ lệ % 26,32 23,68 50
Chụp niệu đồ nội tĩnh mạch (UIV): thực hiện
được 20/ 38 (52,63%) trường hợp, 18/38 trường
hợp còn lại (47,37%) không chụp được bởi vì
bệnh nhân nhập viện trong tình trạng ure huyết
thanh tăng cao (>13,5mmol/l) nên chống chỉ
định. Trong số đó 17/20 (85%) trường hợp có
hình ảnh thận phân tiết rất tốt ở loạt phim 30
phút. 3/20 (15%) trường hợp kém phân tiết ở loạt
phim 30 phút, nhưng sau đó phân tiết rất tốt ở
loạt phim 60 phút. Những trường hợp chụp
được thì cho thấy chức năng thận còn tốt nên sau
khi giải phóng bế tắc chúng tôi không chụp lại.
Bảng 13: Tỉ lệ trường hợp triệu chứng thận trướng
nước/siêu âm
ứ nước 1 bên ứ nước 2 bên
Số bệnh nhân 20 18
Tỉ lệ % 52,63 47,37
Bảng 14: Các phương pháp điều trị
Phương pháp Tán sỏi nội
soi
Mổ mở Tán sỏi ngoài cơ
thể
Bệnh nhân 7 31 0
Tỉ lệ % 18,42 81,58 0
BÀN LUẬN
Dịch tễ học
Phân bố theo tuổi
Tuổi trung bình là 52,63 (nhỏ nhất 19 tuổi và
lớn nhất 71 tuổi). Đa số có phân bố ở độ tuổi 50
trở lên (60,52%), điều này phù hợp với những
nghiên cứu trước đây của nhiều tác giả. Theo
Fetter và Zimskind, Blacklock, Pak thì tần suất
cao nhất là ở tuổi 20 – 40, điều này giải thích lứa
tuổi 50 – 60 thường bị suy thận do sỏi niệu là do
bệnh có một tiến trình diễn biến kéo dài(2).
Phân bố theo giới tính
Theo Baker tỉ lệ bệnh sỏi đường tiết niệu trên
do nhiễm trùng đường tiết niệu mạn tính, tiểu
cystin hay cường giáp ở nữ nhiều hơn nam.
Prince và Scardino, Malek và Kelalis cho rằng
tăng nồng độ testosteron gây nên sự tăng sản
xuất oxalat nội sinh do gan(1,3). Liao và
Richardson, Finlayson thừa nhận rằng nồng độ
testosteron huyết thanh thấp có thể tham gia bảo
vệ phụ nữ và trẻ em chống lại bệnh sỏi oxalat(1).
Tuy nhiên trong nghiên cứu của chúng tôi, tỉ lệ
mắc bệnh của nam và nữ thì tương đương nhau
(nam 55,26%, nữ 44,73%) không phù hợp với
những nghiên cứu trước đây, có thể do mẫu
nghiên cứu chưa đầy đủ
Phân bố theo địa dư
Tỉ lệ bệnh nhân ở các tỉnh chiếm 71,05%,
tại Thành phố Hồ Chí Minh 20,95%. Tính chất
địa dư chỉ mang giá trị tham khảo. Tần suất
sỏi tiết niệu thường cao hơn ở những người
sống vùng miền núi, sa mạc, vùng nhiệt đới.
Yếu tố địa lý ảnh hưởng đến tần suất mắc
bệnh sỏi tiết niệu và các dạng sỏi tiết niệu. Yếu
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 1 * 2013 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Bệnh Viện Chợ Rẫy Năm 2012 371
tố địa lý tượng trưng cho những yếu tố môi
trường như tập quán ăn uống, nhiệt độ môi
trường, độ ẩm không khí cộng thêm những
yếu tố nội tại để tạo thành sỏi(4,5,7).
Nghề nghiệp
Đa số thường gặp ở người lao động chân tay,
tỉ lệ 92,11% cao hơn lao động trí óc, phù hợp với
kết quả của vài nghiên cứu cho rằng lao động
chân tay sẽ mất nhiều nước trong cơ thể và tạo
điều kiện cho sự lắng đọng của sỏi(2).
Lâm sàng
Thời gian phát bệnh
Sớm nhất là 3 ngày, lâu nhất là 10 năm. Tuy
nhiên, việc đánh giá này rất chủ quan bởi vì có
đến 70% các trường hợp sỏi niệu là sỏi thể yên
lặng vì vậy bản thân người bệnh không biết
mình có bệnh nên đến điều trị rất muộn khi đã
có biến chứng. Thời gian phát bệnh từ 1 – 6
tháng chiếm tỉ lệ cao nhất (34,21%). Tuy nhiên có
những trường hợp bệnh nhân biết mình mắc
bệnh nhưng vì điều kiện công việc hoặc điều
kiện kinh tế, tài chính mà người bệnh không có
khả năng điều trị kịp thời. Theo Võ Thị Hồng
Liên(9), có 28% bệnh nhân có thời gian mắc bệnh
dưới 1 tháng, mắc bệnh trên 1 năm là 32%, phù
hợp với kết quả của chúng tôi.
Thời gian nằm viện
68,42% nằm viện trong 1 - 2 tuần, đa số là
do phát hiện bệnh sớm, chưa có biến chứng,
được sử dụng phương pháp tán sỏi nội soi.
10,52% nằm viện trên 3 tuần vì người bệnh có
tình trạng nhiễm trùng ứ mủ bể thận nên tiến
trình hồi phục chức năng thận bị chậm lại
Cận lâm sàng
Nồng độ Ure huyết thanh:
Chúng tôi xét nghiệm định lượng nồng độ
Ure huyết thanh trước khi giải phóng bế tắc
100% trường hợp và làm lại xét nghiệm sau khi
giải phóng bế tắc 78,94%. Có 21,05% trường hợp
không xét nghiệm lại sau khi giải phóng bế tắc.
Đa số các trường hợp bệnh nhân nhập viện
trong tình trạng nồng độ ure huyết thanh
>13,5mmol/l, chiếm 50%. 34,21% trường hợp có
trị số nồng độ ure huyết thanh bình thường,
những trường hợp này có thể có hoặc không có
tình trạng thiểu – vô niệu kèm theo. Sau khi giải
phóng bế tắc có 50% trường hợp chỉ số ure huyết
thanh trở về bình thường (<8,5mmol/l).
Nồng độ creatinine huyết thanh
Hiện định lượng nồng độ creatinine huyết
thanh trước khi giải phóng bế tắc 100% trường
hợp và sau khi giải phóng bế tắc được 78,94%
trường hợp. Có 21,05% trường hợp không định
lượng nồng độ creatinine huyết thanh sau khi
giải phóng bế tắc. Sau khi giải phóng bế tắc 01
tuần thì giá trị nồng độ creatinine huyết thanh
trở về bình thường (<130mmol/l) có tỉ lệ cao
56,67%.
Mức lọc cầu thận (GFR)
Chúng tôi tính toán mức lọc cầu thận (GFR)
từ kết quả của creatinine huyết thanh. Trong
nghiên cứu, chúng tôi có 78,94% trường hợp tính
được GFR trước và sau khi giải phóng bế tắc.
21,05% trường hợp chỉ tính được GFR trước khi
giải phóng bế tắc. Trước khi giải phóng bế tắc,
GFR thấp nhất là 4mls/ min, cao nhất là
99mls/min. Chúng tôi ghi nhận trước khi giải
phóng bế tắc thì tỉ lệ phân bố tương đối rải rác
đều ở 4 mức độ suy thận, suy thận độ 2 chiếm tỉ
lệ 33,33%, suy thận độ 3 chiếm 30%. Sau khi giải
phóng bế tắc thì chúng tôi ghi nhận lại rằng có
sự phân bố lại tỉ lệ, đa số tập trung ở mức độ hồi
phục, nghĩa là có GFR trên 60 mls/min. 43,33% có
sự hồi phục chức năng hoàn toàn. 20% trở về độ
1. 20% còn suy thận độ 2. 10% còn suy thận độ 3.
6,67% còn suy thận độ 4. Không còn trường hợp
suy thận độ 5. Vấn đề này được cho rằng trước
khi giải phóng bế tắc thì tỉ lệ bệnh nhân bị suy
thận nặng và nhiều và chúng tôi chỉ đánh giá
chức năng thận sớm sau khi giải phóng bế tắc
(trung bình 1 tuần sau khi giải phóng sự bế tắc).
Theo Bander nghiên cứu sự phục hồi của thận
sau 24 giờ và quan sát 3-60 ngày sau khi giải
phóng sự tắc nghẽn đã thấy rằng trước 14 ngày
thì GFR đã trở về bình thường. Tuy nhiên, theo
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 1 * 2013
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Bệnh Viện Chợ Rẫy Năm 2012 372
Yokohama thì sự đáp ứng của cầu thận còn do
tính di truyền. 8 ngày sau khi giải phóng sự bế
tắc thì hơn 15% đơn vị thận không có hoạt
động(2),(2). Chúng tôi sử dụng phép kiểm student
(T) của trung bình hai mẫu với p < 0,005 để kiểm
tra giải thuyết thống kê có sự thay đổi về GFR
trước và sau khi giải phóng bế tắc do sỏi niệu
quản và thấy kết quả là sự thay đổi có ý nghĩa
thống kê.
Ion đồ
Chúng tôi cho làm xét nghiệm chỉ số nồng
độ ion đồ 81,58% trường hợp trước khi giải
phóng bế tắc, chỉ có 51,61% trường hợp xét
nghiệm lại sau khi giải phóng bế tắc. Tỉ lệ bệnh
nhân có nồng độ ion Na+ bình thường (135-
144mmol/l) chiếm 51,61%, bệnh nhân có nồng độ
ion K+ bình thường (2,1-4,9mmol/l) chiếm
70,79%. Điều này cho thấy sự thay đổi về điện
giải ít xảy ra, nó chỉ có giá trị tham khảo. Sau khi
giải phóng bế tắc có 68,75% trường hợp Na+ về
bình thường và 80% trường hợp K+ máu trở về
bình thường. Không có trường hợp nào nồng độ
ion K+ <2,1mmol/l.
Siêu âm: có 03 trường hợp thận độc nhất, 02
trường hợp thận teo một bên. 100% trường hợp
đều có trướng nước một hoặc hai bên và mức độ
trướng nước từ độ II – III có kèm theo dãn nở
hoặc không dãn nở niệu quản.
Phương pháp điều trị
Trong loạt nghiên cứu của chúng tôi thì mổ
mở chiếm tỉ lệ khá cao là 81,58%, trong khi đó thì
tán sỏi nội soi chỉ chiếm tỉ lệ 18,42%, điều này đặt
ra câu hỏi tại sao tỉ lệ mổ mở lại có tỉ lệ cao? có
khó khăn gì trong can thiệp bằng nội soi? phẫu
thuật trên người bệnh có biến đổi chức năng
thận thì có khó khăn không? Vai trò của kỹ thuật
tán sỏi nội soi trong bệnh lý sỏi niệu quản phụ
thuộc vào chỉ định và chống chỉ định của kỹ
thuật. Trong nghiên cứu này có 7/38 trường hợp
có nhiễm trùng và ứ mủ ở thận và cấy mủ (+)
(18,42%). Những trường hợp này chống chỉ định
can thiệp bằng nội soi. Ngoài ra, tuỳ theo vị trí,
kích thước, và tính chất của sỏi mà kết quả điều
trị có khác nhau: đối với sỏi niệu quản 1/3 dưới
thì tỉ lệ thành công cao trên 90%, nhưng đối với
sỏi niệu quản 1/3 giữa và 1/3 trên thì tỉ lệ thành
công thấp hơn. Sự đánh giá thiếu chính xác các
biến đổi chức năng sinh học để có hướng điều trị
bổ sung thích hợp trước và sau khi giải phóng bế
tắc đóng vai trò rất lớn trong khả năng phục hồi
chức năng thận. Chúng ta cần nên tránh quan
điểm là bác sĩ ngoại khoa chỉ biết phẫu thuật mà
cần nên biết rằng còn có nhiều yếu tố khác quan
trọng hơn và quyết định hiệu quả điều trị hơn là
phẫu thuật. Chúng tôi thấy rằng chỉ định điều trị
ngoại khoa là bắt buộc và khẩn cấp trong trường
hợp có kèm theo tình trạng nhiễm trùng nặng
mà không đáp ứng với điều trị nội khoa dù ở bất
kỳ mức độ nào của tình trạng suy giảm chức
năng thận, trong trường hợp không có nhiễm
trùng thì chỉ định điều trị ngoại khoa cũng phải
dè dặt và phải chú ý đến tiên lượng khả năng
phục hồi chức năng của thận. Trong những
trường hợp nghiên cứu của chúng tôi thì không
có trường hợp nào được xử trí bằng phương
pháp tán sỏi ngoài cơ thể. Với những chống chỉ
định rộng rãi của phương pháp này thì vấn đề
áp dụng kỹ thuật tán sỏi ngoài cơ thể vào loạt
bệnh nghiên cứu này là hạn chế.
KẾT LUẬN
Đặc điểm dịch tễ
Tuổi trung bình: 52,63. Đa số phân bố ở độ
tuổi >50. Tỉ lệ mắc bệnh giữa nam và nữ không
khác biệt. Bệnh nhân ở các tỉnh tập trung cao
(71,05%), người lao động chân tay (92,11%)
Lâm sàng
Thời gian phát bệnh từ 1 – 6 tháng chiếm
cao nhất (34,21%). Thời gian nằm viện từ 1 – 2
tuần 68%.
Đánh giá chức năng thận
- Ure huyết thanh: trước mổ, 50% >
13,5mmol/l; 34,21% bình thường. Sau khi giải
phóng bế tắc 50% trở về bình thường.
- Creatinine huyết thanh: 87% có tăng
creatinin trước mổ, sau khi giải phóng bế tắc một
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- danh_gia_chuc_nang_than_truoc_va_sau_khi_dieu_tri_ngoai_khoa.pdf