Hiệu quả các thuốc ARV dự phòng LTMC
Theo bảng về mối liên quan giữa cách điều trị
ARV với tình trạng nhiễm HIV của trẻ cho thấy tỷ lệ
LTMC tương ứng với các phác đồ điều trị 3 thuốc,
điều trị từ khi mang thai, điều trị khi chuyển dạ là
2,47%; 4,87% ; 14,86%. Một ngoại lệ được thấy ở
nhóm không được điều trị có tỷ lệ LTMC thấp hơn
(11,76%), lý do có thể vì giai đoạn đầu triển khai
một số ít phụ nữ không kịp được điều trị bị bỏ sót
trong nghiên cứu, ngoài ra tỷ lệ không theo dõi
được khá cao đã ảnh hưởng đến việc xác định tỷ
lệ LTMC trong nhóm này. Đây cũng chính là hạn
chế trong nghiên cứu của chúng tôi. Tuy vậy kết
quà nghiên cứu đã cho thấy tỷ lệ LTMC sẽ được
hạn chế tối đa nếu dùng các phác đồ phối hợp
nhiều thuốc và điều trị kéo dài từ khi mang thai.
Điều này cũng phù hợp với nghiên cứu của tác giả
Vũ Thị Nhung đánh giá hiệu quả PLTMC tại Bệnh
viện Hùng Vương từ năm 2005-2008 cho thấy tỷ lệ
LTMC là 3,88% nếu mẹ được điều trị từ khi mang
thai, tỷ lệ này là 6,48% nếu mẹ được điều trị khi
chuyển dạ và nếu mẹ không kịp uống thuốc thì tỷ
lệ này là 10,52% [4].
Những nghiên cứu trên thế giới đều cho thấy
tác dụng như của việc điều trị ARV sớm và có hiệu
quả: nghiên cứu thử nghiệm lâm sàng (PACTG 076)
cho thấy sử dụng ARV khi mang thai từ tuần thai
thứ 14 cũng với việc tiêm tĩnh mạch khi chuyển dạ,
trè uống xiro 6 tuần phối hợp với nuôi con bằng
sữa ăn thay thế làm giảm tỷ lệ LTMC xuống còn
7,6% so với 22,6% ở nhóm chứng khi theo dõi trẻ
đến 18 tháng tuổi [10]. Nghiên cứu thử nghiệm
lâm sàng ngẫu nhiên đối chứng Kesho Bora tại
châu Phi đánh giá hiệu quả điều trị dự phòng 3
thuốc ARV từ 28-36 tuần và tiếp tục trong thời
gian cho con bú (06 tháng) so sánh với điều trị ARV
ngắnhạn cho thấy tỷ lệ nhiễm ở trẻ là tương tự ở
hai nhóm (1,8% so với 2,2%). Tuy nhiên tỷ lệ nhiễm
HIV tích lũy ở trẻ lúc 12 tháng tuổi là 5,5% (95% CI
=3,6% - 8,4%), giảm 42% nguy cơ so với trẻ trong
nhóm dự phòng ARV ngắn [11]. Như vậy phác đồ
điều trị ARV cần được tiến hành sớm và phối hợp
nhiều thuốc để đảm bảo nâng cao được hiệu quả
dự phòng lây truyền HIV từ mẹ sang con.
5 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Lượt xem: 18 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đánh giá chương trình phòng lây truyền HIV từ mẹ sang con tại một số cơ sở sản khoa lớn phía bắc giai đoạn 2006 - 2010, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
NguyễN Viết tiếN, DươNg LaN DuNg, NôNg MiNh hoàNg, NguyễN thị huyềN LiNh, trầN KháNh toàNSản khoa
Tập 12, số 02
Tháng 5-2014
Tạp chí Phụ Sản
134
Tác giả liên hệ (Corresponding author): Dương Lan Dung, email: bsdungpstw@gmail.com
Ngày nhận bài (received): 15/04/2014. Ngày phản biện đánh giá bài báo (revised): 06/05/2014. Ngày bài báo được chấp nhận đăng (accepted): 09/05/2014
1. Đặt vấn đề
Việt Nam đã tham gia vào chương trình phòng lây
truyền HIV từ mẹ sang con (PLTMC) từ rất sớm, đầu
những năm 1990. Kể từ đầu năm 1997, tại một số bệnh
viện lớn phía Bắc đã bắt đầu triển khai can thiệp PLTMC.
Từ cuối năm 2004 các mô hình can thiệp PLTMC trọn
gói (gồm tư vấn xét nghiệm HIV sớm cho PNMT, điều trị
thuốc kháng retro-virút cho bà mẹ và trẻ sơ sinh, thực
hành sản khoa và theo dõi trẻ phơi nhiễm, xét nghiệm
sớm cho trẻ) được thí điểm tại 3 tỉnh/thành phố. Sau đó
chương trình dần được mở rộng và đến nay đã được
Nguyễn Viết tiến(1), Dương Lan Dung (2), Nông Minh hoàng (2), Nguyễn thị huyền Linh(2), trần Khánh toàn(2)
(1) Trường Đại học Y Hà Nội, (2) Bệnh viện Phụ sản Trung ương
ĐÁNH GIÁ CHƯƠNG TRÌNH PHÒNG LÂY TRUYỀN HIV
TỪ MẸ SANG CON TẠI MỘT SỐ CƠ SỞ SẢN KHOA LỚN
PHÍA BẮC GIAI ĐOẠN 2006 - 2010
Tóm tắt
Mục tiêu: Đánh giá hiệu quả chương trình PLTMC tại
một số cơ sở sản khoa lớn phía Bắc giai đoạn 2006-2010.
Đối tượng và phương pháp: Nghiên cứu thuần tập hồi
cứu và tiến cứu. Kết quả: Trong thời gian từ 2006-2010
có 1093 phụ nữ nhiễm HIV đến sinh tại 8 cơ sở sản khoa
lớn phía Bắc.Tỷ lệ nhiễm HIV trong số phụ nữ đến sinh con
là 0,32%, trong đó tỷ lệ tập trung cao tại bệnh viện trung
ương và các tỉnh lớn. Đa số (86,3%) bà mẹ nhiễm HIV được
nhận các dịch vụ và thuốc ARV để dự phòng trong chương
trình lây truyền HIV từ mẹ sang con. Tỷ lệ lây truyền HIV
từ mẹ sang con tính đến thời điểm xét nghiệm kháng thể
lúc 18 tháng tuổi là 6,9%. Tỷ lệ này là 2,47% nếu bà mẹ sử
dụng phác đồ 3 thuốc (điều trị AIDS), và tỷ lệ này là 4,87%
nếu bà mẹ uống thuốc dự phòng từ khi mang thai và nếu
mẹ uống thuốc khi chuyển dạ tỷ lệ này tăng lên tới 14,86%.
Tỷ lệ không theo dõi được trẻ còn cao (47,5%), do đó có
hạn chế trong việc đánh giá hiệu quả của chương trình.
Điều này đòi hỏi phải có biện pháp tích cực hơn nữa trong
việc theo dõi trẻ để chương trình đạt kết quả tốt hơn.
Từ khóa: HIV, AIDS, ARV, PCR, PLTMC,PNMT.
Abstract
EVALUATING THE EFFECTIVENESS OF THE PROGRAMME
OF PREVENTION OF HIV TRANSMISSION FROM MOTHERS TO
CHILDREN IN SOME OBSTETRIC’S FACILITIES IN NORTH OF
VIETNAM IN THE PERIOD 2006-2010
Evaluating the effectiveness of the programme
of prevention of HIV transmission from mothers to
children in some obstetric’s facilities in North of VietNam
in the period 2006-2010. Objective: Evaluating
the effectiveness of the programme PMTCT in some
obstetric’s facilities in North of VietNam in the period
2006-2010. Subjects and methods: Cohort study
(prospective et retrospective). Results: During the
period 2006-2010, having 1093 HIV–infected mothers
to give birth in 8 obstetrics facilities in North of VietNam,
the HIV prevalence among women giving birth was
0,32%, in which this prevalence highly concentrated in
the national hospital and some large provinces. The
majority (86,3%) of mothers were received services and
treatment ARV in the programme of PMTCT. The rate of
transmission HIV from mother to child was 6,9%. The
rate of transmission was 2,47% if mother had taken ARV
with 3 drugs (AIDS’s regimen), and was 4,87% if mother
taking ARV during pregnancy and increased to 14,86%
for the mothers taking ARV during labor. The number
not follow-up of children was very high (47,5%), so there
were limitation in evaluating the effectiveness of the
programme. It required a more active follow-up method
in order to get better information for evaluation.
Key words: HIV (Human Immunodeficiency
Virus, AIDS (Acquired Immunodeficiency Syndrome),
ARV(Antiretrovirus), PCR (Polymerase chain reaction)
triển khai trên tất cả các tỉnh/thành phố [1]. Theo các
nghiên cứu trên thế giới nếu không can thiệp và người
mẹ không nuôi con bằng sữa mẹ, tỷ lệ lây truyền HIV từ
mẹ sang con (LTMC) chiếm khoảng 15-30%. Nếu người
mẹ nhiễm HIV không được điều trị PLTMC và cho con
bú, tỷ lệ này có thể tăng lên tới 20-45% [2]. Tại Việt Nam,
một số nghiên cứu về hiệu quả PLTMC đã được triển khai
những năm gần đây: một đánh giá tại 3 tỉnh/thành phố,
bệnh viện trung ương (BVTW) giai đoạn 2004-2009 cho
thấy tỷ lệ lây truyền HIV từ mẹ sang con khoảng 7% [3];
một nghiên cứu khác tại Bệnh viện Hùng vương trong 3
Tập 12, số 02
Tháng 5-2014
Tạp chí Phụ Sản
135
tạp chí phụ sảN - 12(2), 134-138, 2014
năm 2005-2008 cho thấy tỷ lệ này giảm xuống còn 5,15
% [4]. Điều này cho thấy việc can thiệp dự phòng có sử
dụng ARV sẽ làm giảm đáng kể khả năng lây truyền HIV
từ mẹ sang con. Để đánh giá hiệu quả chương trình
PLTMC sau nhiều năm thực hiện PLTMC, chúng tôi tiến
hành nghiên cứu với mục tiêu sau:
1. Xác định tỷ lệ PNMT nhiễm HIV sinh con tại các
cơ sở sản khoa lớn phía Bắc trong 5 năm từ 2006-2010.
2. Tình hình xử trí sản khoa và điều trị PLTMC tại 8 cơ
sở sản khoa.
3. Bước đầu đánh giá hiệu quả PLTMC và mối liên
quan với phác đồ điều trị ARV.
2.Đối tượng và phương pháp nghiên cứu
2.1. Phương pháp nghiên cứu
Đây là một nghiên cứu thuần tập, sử dụng cả hai
phương pháp thu thập số liệu hồi cứu và tiến cứu.
2.2. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu là những phụ nữ nhiễm HIV
đã sinh con tại các bệnh viện tham gia nghiên cứu trong
thời gian từ 1/1/2006 đến hết 31/12/2010. Thông tin về
trẻ sinh ra từ các bà mẹ nhiễm HIV trong nghiên cứu này
được thu thập bằng cách liên hệ với người mẹ nhiễm
HIV để phỏng vấn hoặc qua hồ sơ bệnh án tại phòng
khám ngoại trú nhi tại các tỉnh tham gia nghiên cứu. Xét
nghiệm khẳng định tình trạng nhiễm HIV của trẻ trong
nghiên cứu này được tiến hành tuân thủ dựa vào Hướng
dẫn chẩn đoán sớm trẻ nhiễm HIV của Bộ Y tế năm 2010.
2.3. Địa bàn nghiên cứu
Nghiên cứu được triển khai tại 8 cơ sở sản khoa lớn
tại 6 tỉnh thành phía Bắc, bao gồm Bệnh viện Phụ Sản
Trung ương, 5 bệnh viện phụ sản (BVPS) các tỉnh, thành
phố: Hà Nội, Thái Bình, Nam Định, Hải Phòng, Thanh
Hóa, Khoa Sản Bệnh viện Đa khoa (BVĐK) Quảng Ninh
và Khoa Sản Bệnh viện Việt Nam Thụy Điển Uông Bí.
3. Kết quả
3.1 Tỷ lệ PNMT nhiễm HIV tại các cơ sở sản
khoa phía Bắc
Tổng cộng tại 8 cơ sở sản khoa đã thu nhận được
1093 phụ nữ nhiễm HIV sinh con. Trong đó tại Bệnh viện
PSTW có 418 đối tượng (chiếm 38,2%), số còn lại bao
gồm: BVPS Hà Nội: 53 (4,9%), BVPS Thái Bình: 58 (5,3%),
BVPS Nam Định: 43 (3,9%), BVPS Hải Phòng: 267 (24,4%),
Khoa Sản BVĐK Quảng Ninh: 61 (5,6%), khoa Sản BV Việt
Nam - Thụy Điển Uông Bí: 61 (5,6%) và BVPS Thanh Hóa:
79 (7,3%). Tuy nhiên giai đoạn đầu các hoạt động PLTMC
chưa triển khai rộng rãi tại một số BVPS nên chúng tôi
không đánh giá được tỷ lệ nhiễm HIV ở PNMT tại BVPS
Hà Nội và một số năm đầu của BVPS Nam Định, Thái Bình.
- Tỷ lệ nhiễm HIV ở số phụ nữ sinh con tại 7 cơ sở
nghiên cứu trong 5 năm dao động từ 0,27%(2006),
0,31%(2007), 0,34% (2008), 0, 41%(2009), 0,24% (2010).
- Tỷ lệ nhiễm HIV ở phụ nữ sinh con tại 7 cơ sở sản
khoa từ 2006 đến 2010 là 0,32%. Tỷ lệ này tại các bệnh
phụ sản lớn phía Bắc tăng dần theo từng năm từ 2006
đến 2009 và có xu hướng giảm trong năm 2010.
** Về thời điểm phát hiện nhiễm HIV cho thấy tỷ
lệ sản phụ được phát hiện nhiễm HIV khi mang thai là
545 trường hợp chiếm 49,8% (trong đó tỷ lệ phát hiện
HIV trước khi có thai là 17,9 % và trong khi mang thai là
31,9%), và khi chuyển dạ là 548 trường hợp, chiếm 50,1%.
3.2 Tình hình xử trí sản khoa và điều trị PLTMC tại
8 cơ sở sản khoa
Có 621 trường hợp là đẻ thường (chiếm 56,8%), tỷ lệ
fooc xép và giác hút có 16 trường hợp (1,5%), mổ lấy thai
có 456 trường hợp (41,7%). Hầu hết các trường hợp mổ
lấy thai ở sản phụ có HIV/AIDS đều do chỉ định sản khoa:
thai suy, thai to, vết mổ đẻ cũ, ngôi bất thường
- Tỷ lệ sản phụ được tiếp cận với ARV cả khi mang thai
và chuyển dạ chiếm 86,3%, không được điều trị 13,7%,
chủ yếu tập trung vào giai đoạn chuyển dạ.
3.3. Bước đầu đánh giá hiệu quả PLTMC tại
các cơ sở sản khoa
3.3.1. Tỷ lệ LTMC tại từng cơ sở sản khoa trong thời
gian nghiên cứu
Trong tổng số 1093 trẻ phơi nhiễm có 574 trẻ có xét
nghiệm (XN) về tình trạng HIV (chiếm 52,5%) trong đó
có 344 trẻ có xét nghiệm PCR lần 1, 67 trẻ có xét nghiệm
PCR lần 2 và 432 trẻ có xét nghiệm khẳng định tại 18
tháng tuổi. Tỷ lệ trẻ không theo dõi được (không có xét
nghiệm nào) là 519 trẻ (chiếm 47,5%).
tt tên cơ sở 2006 2007 2008 2009 2010
1. BVĐK Quảng Ninh 0,42 0,63 0,74 0,87 0,72
2. BVps trung ương 0,24 0,49 0,45 0,52 0,64
3. BVps hải phòng 0,57 0,47 0,25 0,53 0,43
4. BVps thanh hóa* 0,27 0,27 0,43 0,28 0,32
5. Bệnh viện Việt Nam thụy Điển uông Bí 0,26 0,1 0,17 0,24 0,27
6. BVps thái Bình 0,12 0,15 0,19 0,21 0,25
7. BVps Nam Định 0,012* 0,05* 0,18 0,20 0,24
chung (%) 0,27 0,31 0,34 0,41 0,24
Bảng 1. tỷ lệ nhiễm hiV trong số phụ nữ sinh con tại 7 cơ sở nghiên cứu trong từng năm
phác đồ điều trị arV n=1093 %
Không điều trị arV 150 13,7
có điều trị arV 943 86,3
trong đó:
- Điều trị aiDs 159 16,7
- Điều trị aZt +NVp hoặc aZt/NVp+ 3tc khi chuyển dạ
hoặc aZt/3tc/NVF 477 50,6
- Điều trị NpV liều duy nhất 307 32,7
Bảng 2. phác đồ điều trị cho phụ nữ nhiễm hiV sinh con tại 8 cơ sở sản khoa
NguyễN Viết tiếN, DươNg LaN DuNg, NôNg MiNh hoàNg, NguyễN thị huyềN LiNh, trầN KháNh toàNSản khoa
Tập 12, số 02
Tháng 5-2014
Tạp chí Phụ Sản
136
Kết quả xét nghiệm trong số trẻ theo dõi được
cho thấy tỷ lệ LTMC tại thời điểm xét nghiệm 18
tháng tuổi là 6,9%.
3.3.2. Mối liên quan giữa tỷ lệ LTMC với phác đồ
điều trị ARV
p= 0,005 <0,05
Nhận xét: Có sự khác biệt về tỷ lệ LTMC giữa các
nhóm, với p <0,05. Tỷ lệ LTMC càng thấp ở nhóm phác đồ
điều trị sớm, kéo dài và phối hợp nhiều thuốc: với phác
đồ khi chuyển dạ thì tỷ lệ LTMC là 14,86%, với phác đồ khi
mang thai 2 thuốc thì tỷ lệ này là 4,87%, còn nếu được
điều trị 3 thuốc tỷ lệ này giảm xuống còn 2,47%.
4.Bàn luận
4.1. Tỷ lệ nhiễm HIV trong số phụ nữ đến sinh
con tại 7 cơ sở sản khoa phía Bắc từ 2006-2010
Qua kết quả nghiên cứu, chúng tôi thấy tỷ lệ
nhiễm HIV trong số phụ nữ sinh con trong 5 năm
là 0,32%, trong đó tỷ lệ PNMT nhiễm HIV năm
2010 tại Bệnh viện ĐK Quảng Ninh chiếm tỷ lệ
cao (0,72%), tiếp đến là BVPS TƯ (0,64%), BVPS Hải
Phòng (0,43%), tiếp đến BVPS Thái Bình, BVPS Nam
Định, BV Uông Bí, BVPS Thanh Hóa có tỷ lệ tương
đương như nhau (0,27 %, 0,25% , 0,24%).Tại một
số BVPS như Hà Nội, Nam Định thì số liệu chưa đầy
đủ nên con số chưa phản ánh đúng thực tế tình
hình nhiễm của PNMT những năm đầu triển khai
các dịch vụ toàn diện (2006-2009).
Báo cáo của Cục Phòng chống HIV/AIDS năm
2013 cho thấy tỷ lệ nhiễm HIV của PNMT trên toàn
quốc hiện nay khoảng 0,24%[1]. Tỷ lệ của chúng
tôi cao hơn cũng dễ hiểu vì các BVPS tuyến tỉnh và
trung ương là nơi tập trung nhiều các sản phụ có
nguy cao đến sinh, đặc biệt là phụ nữ nhiễm HIV.
So sánh với báo cáo của Tiểu ban PLTMC tại Bệnh
viện PSTW năm 2002 cho thấy tỷ lệ PNMT nhiễm
HIV tại 7 BVPS lớn trong cả nước dao động từ
0,49% đến 0,61% [5]. Như vậy theo nghiên cứu của
chúng tôi tỷ lệ nhiễm của PNMT tại các BVPS phía
Bắc đã giảm xuống còn gần một nửa (0,32%). Bảng
phân bố đối tượng nghiên cứu cho thấy có một tỷ
lệ lớn PNMT nhiễm HIV tập trung tại các Bệnh viện
Phụ sản tuyến trung ương (38,2%) và tại hai thành
phác đồ điều trị arV Dương tính n=30 (%) Âm tính n=432 (%) tổng cộng
Điều trị aiDs (3 thuốc) 2 (2,47%) 79 (97,53%) 81 (100%)
Điều trị từ khi mang thai (2 thuốc) 11 (4,87%) 215 (95,13%) 226/(100%)
Điều trị khi chuyển dạ đẻ (1 thuốc) 11 (14,86%) 63 (85,14%) 74 (100%)
Không được điều trị 6 (11,76%) 45 (88,24%) 51(100%)
tổng cộng 30 (6,9%) 402 (93,1%) 432 (100%)
Bảng 3. Liên quan giữa phác đồ điều trị arV và tình trạng nhiễm của trẻ
phố lớn là Hải Phòng (chiếm 24,4%) và Quảng
Ninh (chiếm 16%). Do vậy để đẩy mạnh chất lượng
của chương trình dự phòng LTMC cũng cần đầu tư
nhiều nguồn lực và nâng cao chất lượng chăm sóc
điều trị cho bệnh nhân HIV/AIDS tại các cơ sở sản
khoa tuyến trung ương và các thành phố lớn trên.
4.2. Tình hình xử trí sản khoa và điều trị
PLTMC tại 8 cơ sở sản khoa
Các nghiên cứu trên thế giới và tại Việt Nam
cho thấy có nhiều quan niệm trong thái độ xử trí
sản khoa với sản phụ nhiễm HIV nhưng đều kết
luận việc điều trị ARV có tác dụng quyết định để
làm giảm tỷ lệ LTMC [5].
Tại nghiên cứu này tỷ lệ sản phụ được tiếp cận
với ARV cả khi mang thai và chuyển dạ chiếm tỷ
lệ cao (86,3%). Kết quả khá tương đương với một
số nghiên cứu về PLTMC gần đây và cho thấy tỷ lệ
điều trị ARV cho các bà mẹ nhiễm HIV ngày càng
tăng lên tại Việt Nam [4],[6].Trong số sản phụ được
điều trị ARV thì tỷ lệ sản phụ được điều trị ARV khi
mang thai gần gấp đôi so với khi chuyển dạ (58,2%
so với 28,1%). Như vậy ngày càng có nhiều phác đồ
tốt, phối hợp nhiều thuốc có hiệu quả (AZT/3TC/
NVF/NVP), thay thế cho phác đồ đơn giản, ít hiệu
quả trước kia (duy nhất NVP khi chuyển dạ) nhằm
giảm tới mức tối đa LTMC.
Tỷ lệ không được điều trị 13,7%, chủ yếu tập
trung vào giai đoạn chuyển dạ. Tìm hiểu các lý do
không được dùng ARV, chủ yếu là do bệnh nhân
đến quá muộn trong giai đoạn chuyển dạ nên
không kịp dùng thuốc (khi cổ tử cung mở hết, tiên
lượng đẻ trong vòng 1 giờ), còn lại một số nguyên
nhân khách quan như thai chết lưu, bệnh nhân
không đồng ý điều trị. Tuy nhiên cũng còn một số
nguyên nhân chủ quan từ phía các cơ sở y tế như
trả kết quả xét nghiệm muộn không có thuốc, hết
thuốc hoặc đẻ ở tuyến dưới nhưng chuyển tiếp lên
tuyến trên cũng có trường hợp cán bộ không nắm
vững phác đồ điều trị nên bỏ sót.
Theo nhiều nghiên cứu trên thế giới và trong
nước cho thấy điều trị thuốc kháng vi rút càng sớm
thì hiệu quả càng cao và điều trị khi mang thai hiệu
quả hơn nhiều so với liều khi chuyển dạ (từ 25%
xuống còn 8% thậm chí 1-2%) [2]. Trong thời gian
tới, để nâng cao hiệu quả PLTMC cần vận động các
sản phụ ở nhóm nguy cơ nên đi xét nghiệm HIV
sớm, điều trị tích cực từ khi mang thai để đạt hiệu
quả cao nhất. Các cơ sở sản khoa cần củng cố việc
theo dõi và quản lý thai nghén từ tuyến cơ sở, lồng
ghép giữa chương trình chăm sóc sức khỏe bà mẹ
Tập 12, số 02
Tháng 5-2014
Tạp chí Phụ Sản
137
tạp chí phụ sảN - 12(2), 134-138, 2014
và trẻ em với các chương trình quốc gia về phòng
chống HIV/AIDS.
4.3 Đánh giá hiệu quả PLTMC
4.3.1 Tỷ lệ LTMC tại thời điểm xét nghiệm khẳng
định khi trẻ 18 tháng tuổi
Trong giai đoạn 5 năm 2006-2010, tại các cơ sở
sản khoa trên toàn quốc các chương trình phòng
chống HIV/AIDS với sự tài trợ của các dự án quốc
tế đã triển khai mạnh mẽ và rộng khắp các hoạt
động can thiệp dự phòng LTMC toàn diện, trong
đó có theo dõi trẻ khi sinh ra từ bà mẹ nhiễm HIV:
trẻ sinh ra từ sản phụ nhiễm HIV được giới thiệu
sang phòng khám ngoại trú nhi của Bệnh viện Nhi
Trung ương, Bệnh viện Nhi Hải Phòng và sau đó
là tại các Phòng khám Nhi tại các tỉnh như Quảng
Ninh, Thái Bình, Tuy nhiên việc theo dõi trẻ cũng
gặp nhiều khó khăn vì vào những năm đầu của
dịch HIV/AIDS do nhận thức của người nhiễm HIV
còn hạn chế, sự kỳ thị mạnh mẽ của cộng đồng,
và chương trình PLTMC chưa phát triển mạnh, các
bà mẹ nhiễm HIV thường có xu hướng không cho
trẻ theo dõi định kỳ tại cơ sở nhi khoa. Họ chỉ cho
trẻ khám khi trẻ có các dấu hiệu bệnh lý. Việc theo
dõi cho trẻ phơi nhiễm HIV lại là một quá trình dài
(18 tháng) và gặp nhiều khó khăn do người mẹ
thường suy giảm sức khỏe sau đẻ, thiếu điều kiện
kinh phí đi lại theo dõi, bị kỳ thị do vậy thời gian
đầu tỷ lệ không theo dõi được trẻ rất cao, sau đó
giảm dần. Qua một thời gian dài theo dõi, chúng
tôi đã thu thập được thông tin của 432 trẻ được
làm xét nghiệm HIV lúc 18 tháng, trong đó 30 trẻ
HIV được kết luận là nhiễm HIV, tỷ lệ lây truyền HIV
từ mẹ sang con là 6,9%. Kết quả này tương tự với
kết quả của tác giả Trần Quang Hiền (2012) tại An
Giang là 7,14% [7].
Qua nhiều năm thực hiện chương trình PLTMC,
tỷ lệ LTMC ở nước ta đã giảm khá nhiều, từ 18,6%
theo nghiên cứu của Ngô Thị Thuyên năm 2000-
2004 xuống còn 6,9% năm 2010 [8]. Kết quả này
không chỉ là thành công của ngành y tế nói riêng
mà là của cả xã hội nói chung nhằm tiến tới mục
tiêu thiên niên kỷ là không còn trẻ nhiễm HIV tại
Việt Nam và trên toàn thế giới.
Trong nghiên cứu này có sự tham gia của một
số bệnh viện phụ sản như Nam Định, Thái Bình,
Thanh Hóa là những nơi mà chương trình PLTMC
mới được triển khai từ cuối năm 2008, 2009 nên
tỷ lệ PNMT được phát hiện và điều trị muộn còn
cao, can thiệp PLTMC còn hạn chế về chất lượng và
hiệu quả. Do đó tỷ lệ LTMC tính chung cho cả địa
tên tác giả giai đoạn nghiên cứu cơ sở nghiên cứu tỷ lệ LtMc
Ngô thị thuyên [8] 2000-2004 BVpstW 18,6%
Dương Lan Dung[6] 2005-2008 BVpstW 11,1%
Nguyễn thúy hà [3] 2005-2009 3 tỉnh/tp và BVtW 7 %
Vũ thị Nhung [4] 2005-2008 BV hùng Vương 5,11%
Đỗ thu thủy[9] 2004-2009 BVps hải phòng 7%
Kết quả của chúng tôi 2006-2010 8 BVps phía Bắc 6,9%
Bảng 4. so sánh tỷ lệ LtMc tại một số nghiên cứu tại Việt Nam gần đây
bàn nghiên cứu cũng có thể có phần bị ảnh hưởng.
Kết quả này cũng khá phù hợp với kết quả trong
bảng so sánh dưới đây, đồng thời cho thấy hiệu
quả PLTMC nhìn chung đã có xu hướng tăng cao
rõ rệt trong những năm gần đây.
4.3.2. Hiệu quả các thuốc ARV dự phòng LTMC
Theo bảng về mối liên quan giữa cách điều trị
ARV với tình trạng nhiễm HIV của trẻ cho thấy tỷ lệ
LTMC tương ứng với các phác đồ điều trị 3 thuốc,
điều trị từ khi mang thai, điều trị khi chuyển dạ là
2,47%; 4,87% ; 14,86%. Một ngoại lệ được thấy ở
nhóm không được điều trị có tỷ lệ LTMC thấp hơn
(11,76%), lý do có thể vì giai đoạn đầu triển khai
một số ít phụ nữ không kịp được điều trị bị bỏ sót
trong nghiên cứu, ngoài ra tỷ lệ không theo dõi
được khá cao đã ảnh hưởng đến việc xác định tỷ
lệ LTMC trong nhóm này. Đây cũng chính là hạn
chế trong nghiên cứu của chúng tôi. Tuy vậy kết
quà nghiên cứu đã cho thấy tỷ lệ LTMC sẽ được
hạn chế tối đa nếu dùng các phác đồ phối hợp
nhiều thuốc và điều trị kéo dài từ khi mang thai.
Điều này cũng phù hợp với nghiên cứu của tác giả
Vũ Thị Nhung đánh giá hiệu quả PLTMC tại Bệnh
viện Hùng Vương từ năm 2005-2008 cho thấy tỷ lệ
LTMC là 3,88% nếu mẹ được điều trị từ khi mang
thai, tỷ lệ này là 6,48% nếu mẹ được điều trị khi
chuyển dạ và nếu mẹ không kịp uống thuốc thì tỷ
lệ này là 10,52% [4].
Những nghiên cứu trên thế giới đều cho thấy
tác dụng như của việc điều trị ARV sớm và có hiệu
quả: nghiên cứu thử nghiệm lâm sàng (PACTG 076)
cho thấy sử dụng ARV khi mang thai từ tuần thai
thứ 14 cũng với việc tiêm tĩnh mạch khi chuyển dạ,
trè uống xiro 6 tuần phối hợp với nuôi con bằng
sữa ăn thay thế làm giảm tỷ lệ LTMC xuống còn
7,6% so với 22,6% ở nhóm chứng khi theo dõi trẻ
đến 18 tháng tuổi [10]. Nghiên cứu thử nghiệm
lâm sàng ngẫu nhiên đối chứng Kesho Bora tại
châu Phi đánh giá hiệu quả điều trị dự phòng 3
thuốc ARV từ 28-36 tuần và tiếp tục trong thời
gian cho con bú (06 tháng) so sánh với điều trị ARV
ngắnhạn cho thấy tỷ lệ nhiễm ở trẻ là tương tự ở
NguyễN Viết tiếN, DươNg LaN DuNg, NôNg MiNh hoàNg, NguyễN thị huyềN LiNh, trầN KháNh toàNSản khoa
Tập 12, số 02
Tháng 5-2014
Tạp chí Phụ Sản
138
hai nhóm (1,8% so với 2,2%). Tuy nhiên tỷ lệ nhiễm
HIV tích lũy ở trẻ lúc 12 tháng tuổi là 5,5% (95% CI
=3,6% - 8,4%), giảm 42% nguy cơ so với trẻ trong
nhóm dự phòng ARV ngắn [11]. Như vậy phác đồ
điều trị ARV cần được tiến hành sớm và phối hợp
nhiều thuốc để đảm bảo nâng cao được hiệu quả
dự phòng lây truyền HIV từ mẹ sang con.
5. Kết luận
- Tỷ lệ PNMT nhiễm HIV sinh con tại 8 cơ sở sản
khoa lớn phía Bắc giai đoạn 2006-2010 là 0,32%.
- Đa số (86,3%) số PNMT nhiễm HIV sinh con được
tiếp cận và sử dụng ARV để PLTMC.
- Tỷ lệ LTMC qua kết quả XN khẳng định HIV lúc
trẻ 18 tháng tuổi là 6,9 %. Tỷ lệ LTMC được điều trị
khi chuyển dạ là 14,86%, điều trị từ khi mang thai
là 4,87%, điều trị với phác đồ 3 thuốc tỷ lệ này giảm
xuống còn 2,47%. Do tỷ lệ không theo dõi được trẻ
còn lớn 47,5% nên việc đánh giá hiệu quả chương
trình còn khó khăn đòi hỏi cần có nhiều biện pháp
tích cực hơn nữa để việc theo dõi chương trình đạt
kết quả tốt hơn.
Tài liệu tham khảo
1. Cục phòng chống HIV/AIDS, Báo cáo Công tác phòng,
chống HIV/AIDS 6 tháng đầu năm 2012 và trọng tâm kế
hoạch 6 tháng cuối năm 2013, Công văn số 506/BC-BYT năm
2013, 2013.
2. Lallemant M et al, A trial of shortened zidovudine
regimens to prevent mother-to-child transmission of human
immunodeficiency virus type 1, New England Journal of
Medicine 2000; 343(14), 982-991.
3. Nguyễn Thúy Hà, Hoàng Thu Huyền, Đỗ Thị Nhàn,
Chương trình phòng lây truyền HIV từ mẹ sang con, thành
công thách thức – bài học kinh nghiệm từ đánh giá hiệu quả
chương trình tại 3 tỉnh/thành phố và Bệnh viện trung ương
tai Việt nam 2004-2009, Các công trình nghiên cứu khoa học
về HIV/AIDS giai đoạn 2006-2010, Y học thực hành, 2010; 742
+ 743, tr 495-498.
4. Vũ Thị Nhung, Đánh giá chương trình phòng lây truyền
HIV/AIDS từ mẹ sang con tại Bệnh viện Hùng Vương 2005-
2008”, Các công trình nghiên cứu khoa học về HIV/AIDS giai
đoạn 2006-2010, Y học thực hành. 2009; số 742 + 743, tr 377-379.
5. Tiểu ban Bảo vệ Bà mẹ và Trẻ sơ sinh, “Báo cáo tổng
kết cuối năm chương trình phòng lây truyền HIV từ mẹ sang
con- Bộ Y tế”, Ban phòng chống AIDS. 2002.
6. Dương Lan Dung, Nguyễn Viết Tiến, Đỗ Quan Hà, Nhận
xét tình hình và bước đầu đánh giá hiệu quả điều trị dự
phòng lây truyền HIV từ mẹ sang con tại Bệnh viện Phụ sản
Trung ương từ 9/2005 đến 2/2008, Tạp chí Y học thực hành.
2010; (714) Số 4/2010, tr 126-129.
7. Trần Quang Hiền, Nghiên cứu thực trạng nhiễm HIV ở
phụ nữ mang thai và sự lây truyền HIV từ mẹ sang con tại
tỉnh An Giang. Luận án Tiến sĩ Y học, Trường Đại học Y Hà
Nội. 2012.
8. Ngô Thị Thuyên, Khảo sát tình hình thai phụ nhiễm HIV/
AIDS tại bệnh viện phụ sản trung ương từ 1/2000 đến 9/2004.
Luận văn thạc sỹ y học, Trường Đại học Y Hà nội. 2004.
9. Đỗ Thị Thu Thủy, Nguyễn Thị Mai Anh, Tình hình lây
truyền HIV từ mẹ sang con tại Bệnh viện Phụ sản Hải Phòng
giai đoạn 2004-2008, Tạp chí Hội nghị Sản Phụ khoa Việt-
Pháp- 3/2009. tr 18-24.
10. De Cock KM et al., Prevention of mother-to-child
HIV transmission in resource-poor countries: translating
research into policy and practice, Journal of the American
Medical Association. 2000; 283(9), 1175-1182.
11. De Vincenzi, I. and Kesho Bora Study Group,
Triple-antiretroviral prophylaxis during pregnancy and
breasfeeding compared to short-ARV prophylaxis to
PMTCT in Burkina Faso, Kenya and South Africa.Abstract
LBPEC01 in the 5th IAS Conference on HIV pathogenesis
and treatment. Cape Town, South Africa.2009.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
danh_gia_chuong_trinh_phong_lay_truyen_hiv_tu_me_sang_con_ta.pdf