Mối liên quan giữa mức độ THA và thể bệnh
Trong nghiên cứu của chúng tôi, THA độ 2 trở
lên chiếm phần lớn (53,9%). Tỷ lệ bệnh nhân độ 2
có biến chứng XHN là 17,7%, cao hơn nhóm HA mức
độ 1 (15,1%), tuy nhiên sự khác biệt chưa có ý nghĩa
thống kê (p>0,05).
Không có BN nào trong nghiên cứu có rối loạn
ý thức mức độ nặng; phần lớn bệnh nhân có mức
độ rối loạn ý thức nhẹ (điểm Glasgow 13-15) chiếm
93.9%. Nhóm có phân độ HA độ 2 trở lên có tỷ lệ
rối loạn ý thức mức độ trung bình (điểm Glassgow
9-12) là 8,1%, cao hơn nhóm phân độ HA độ 1
(3,8%) (p>0,05).
Không có BN nào trong NC thuộc nhóm nặng
(16-20) và nhóm rất nặng (21-42) theo thang điểm
NIHSS. Tỷ lệ bệnh nhân có điểm NIHSS mức độ trung
bình chiếm tỷ lệ cao nhất với 59,1%. Tỷ lệ BN phân
độ HA mức độ 2 trở lên có điểm NIHSS mức độ trung
bình cao hơn nhóm HA độ 1, tương ứng 61,3% và
56,6%; tuy nhiên sự khác biệt chưa có ý nghĩa thống
kê (p>0,05).
Qua đó, chúng tôi nhận thấy rằng: nhóm phân
độ THA độ 1 sẽ có tỷ lệ XHN thấp hơn, điểm NIHSS
và điểm Glassgow tốt hơn so với nhóm phân độ
THA độ 2 trở lên (p>0,05). Cơ sở lý thuyết cũng như
nghiên cứu thực tiễn lâm sàng đề cập đến mối liên
quan giữa mức độ THA với mức độ nặng của bệnh
trên lâm sàng theo thang điểm Glasgow hay NIHSS.
Kết quả nghiên cứu của đã chúng tôi phần nào cho
thấy được mối liên quan đó. Tuy nhiên là do thời
gian nghiên cứu ngắn, cỡ mẫu chưa đủ lớn, phân bố
mẫu chưa chuẩn nên mối liên quan đó chưa thực
sự được bộc lộ rõ ràng. Vì vậy chúng tôi đề nghị mở
rộng nghiên cứu với kích thước mẫu lớn, phân bố
chuẩn để làm rõ mối liên quan này.
8 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Lượt xem: 19 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đánh giá đặc điểm lâm sàng và cận lâm sàng của tai biến mạch máu não và mối liên quan với mức độ tăng huyết áp, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
82
Tạp chí Y Dược học - Trường Đại học Y Dược Huế - Số 3, tập 10/2020
Đánh giá đặc điểm lâm sàng và cận lâm sàng của tai biến mạch máu não
và mối liên quan với mức độ tăng huyết áp
Nguyễn Thành Tín1, Nguyễn Kế Tài2, Lê Chuyển1
(1) Bộ môn Dược Lý, Trường Đại học Y Dược, Đại học Huế
(2) Trường Đại học Y Dược, Đại học Huế
Tóm tắt
Đặt vấn đề: Tai biến mạch máu não (TBMMN) là nguyên nhân gây tử vong và tàn tật hàng đầu trên thế
giới. Chẩn đoán hình ảnh giúp chẩn đoán sớm thể bệnh, mức độ và vị trí để điều trị hiệu quả, giảm di chứng.
Tăng huyết áp (THA) là yếu tố hàng đầu gây TBMMN và có thể cải thiện được. Kiểm soát tốt huyết áp giúp dự
phòng hiệu quả TBMMN. Mục tiêu: Khảo sát các đặc điểm lâm sàng và cận lâm sàng ở bệnh nhân TBMMN có
THA; Mối liên quan giữa các đặc điểm lâm sàng này với các mức độ THA. Phương pháp nghiên cứu: Mô tả
cắt ngang. Đối tượng nghiên cứu là 115 bệnh nhân TBMMN được điều trị tại khoa Nội Tim mạch, Bệnh viện
Trường Đại học Y Dược Huế có chụp cắt lớp vi tính, từ 9/2017 đến 4/2018. Kết quả: BN ≥ 50 tuổi chiếm ưu
thế; tỷ suất nam:nữ là 1,21; đa số vào viện sau 6h từ lúc khởi phát và có ≥ 1 yếu tố nguy cơ kèm theo, chủ yếu
là rối loạn lipid máu. Thể NMN chiếm ưu thế (83,5%); triệu chứng hay gặp: yếu liệt nửa người, nói khó; thang
điểm Glasgow ở mức độ nhẹ và NIHSS mức độ trung bình là chủ yếu; tổn thương 1 bên chiếm ưu thế; đa phần
là nhồi máu 1 vị trí, hay gặp ở động mạch não giữa; xuất huyết trong não ưu thế ở các nhân xám trung ương,
bao trong, đồi thị. Các chỉ số glucose và biland lipid chưa cho thấy sự khác biệt có ý nghĩa thống kê. Huyết
áp vào viện của nhóm XHN (166,58±27,29/95,79±15,39) cao hơn nhóm NMN (154,11±23,64/87,08±12,97)
(p<0,05). Nhóm THA phân độ 2 trở lên có tỷ lệ xuất hiện XHN, điểm Glassgow mức độ trung bình và điểm
NIHSS mức độ trung bình lần lượt là 17,7%, 8,1% và 61,3%; trong khi ở nhóm THA phân độ 1 tương ứng các tỷ
lệ 15,1%, 3,8% và 56,6% (p>0,05). Kết luận: Trị số trung bình huyết áp ở thể XHN cao hơn thể NMN (p<0,05).
Tổn thương 1 bán cầu não chiếm ưu thế; nhồi máu động mạch não giữa thường gặp nhất trong khi đa số xuất
huyết là ở nhân xám trung ương, bao trong, đồi thị. THA phân độ 1 có tỷ lệ gặp XHN thấp hơn cũng như thang
điểm Glasgow và NIHSS tốt hơn so với THA phân độ 2 trở lên (p>0,05).
Từ khóa: nhồi máu não, xuất huyết não, độ tăng huyết áp, thang điểm Glassgow, NIHss
Abstract
To evaluate clinical and paraclinical characteristics of stroke and
relationship to the hypertension grades
Nguyen Thanh Tin1, Nguyen Ke Tai2, Le Chuyen1
(1) Department of Pharmacology, Hue University of Medicine and Pharmacy, Hue University
(2) Hue University of Medicine and Pharmacy, Hue University
Introduction: Stroke is the leading cause of death and disability in the world. Diagnostic imaging is useful
for early diagnosis, assessing severity and localization, results in the better outcome and limiting disability.
Hypertension is the most important factor cause stroke but variable. Effective controlling of blood pressure
helps prevent stroke. Objectives: To study both clinical and paraclinical characteristics in stroke patients having
hypertension; Relationship between these characteristics and hypertension grades. Methods: Cross- sectional
study. 115 stroke patients having hypertension were treated in the Department of Cardiology, Hue University
Hospital, from September 2017 to April 2018. Results: Most patients were ≥ 50 years old; male/female
ratio=1.21. Most patients were hospitalized at > 6 hours after onset; and had more than 1 risk factor, mainly
dyslipidemia; ischemic stroke was prevailed (83.5%); the most common symptoms: hemiplegia, dysarthria; the
Glassgow Coma Score (GCS) at mild and the NIHSS score at average scale were dominant; mainly unilateral
hemispheric injuries. 1-site infarction was major, commonly in the midbrain arteries; intracranial hemorrhage
Địa chỉ liên hệ: Lê Chuyển, email: lechuyen@huemed-univ.edu.vn DOI: 10.34071/jmp.2020.3.11
Ngày nhận bài: 25/3/2020; Ngày đồng ý đăng: 26/6/2020
83
Tạp chí Y Dược học - Trường Đại học Y Dược Huế - Số 3, tập 10/2020
1. ĐẶT VẤN ĐỀ
TBMMN hay đột quỵ là bệnh lý thần kinh thường
gặp, nguyên nhân thứ 2 gây tử vong sau bệnh tim
thiếu máu cục bộ và là nguyên nhân chính gây tàn
tật trên thế giới [1],[2]. Do đó, TBMMN là một vấn
đề sức khỏe lớn, một gánh nặng cho ngành y tế toàn
cầu.Ở Việt Nam, theo điều tra năm 1989–1994, tỷ lệ
mới mắc và tử vong tương ứng 20–35 và 20–25 trên
100,000 dân [3].
TBMMN là mối quan tâm của cả ngành y tế và
cộng đồng. Tăng cường công tác dự phòng, phát
hiện sớm, điều trị đúng và kịp thời giúp giảm tỷ lệ
tử vong, giảm thương tật và di chứng, tăng khả năng
phục hồi.
Theo y văn, THA là yếu tố nguy cơ quan trọng
hàng đầu TBMMN và có thể cải thiện được[4]. THA
là bệnh lý gây ra nhiều biến chứng ở cơ quan đích và
để lại hậu quả nghiêm trọng. Tỷ lệ người Việt Nam bị
THA năm 2015-2016 là 47,3%[5].
Chẩn đoán và điều trị TBMMN cũng có nhiều
tiến bộ với kỹ thuật CLVT trong chẩn đoán, cũng như
điều trị bằng tiêu sợi huyết, can thiệp mạch mang lại
kết quả tốt [6],[7]. Về phía thầy thuốc cần chẩn đoán
đúng và điều trị kịp thời cho BN nên việc tìm hiểu
các đặc điểm lâm sàng và cận lâm sàng của bệnh là
một việc quan trọng để thầy thuốc nắm rõ bệnh và
diễn tiến của bệnh để đưa ra điều trị tốt nhất cho
BN. TBMMN có thể dự phòng được bằng cách cải
thiện các yếu tố nguy cơ, trong đó kiểm soát tốt HA
là rất quan trọng.
Từ thực tiễn đó, chúng tôi thực hiện đề tài này
với hai mục tiêu sau:
- Khảo sát các đặc điểm lâm sàng và cận lâm
sàng ở bệnh nhân TBMMN có THA.
- Đánh giá mối liên quan giữa các đặc điểm lâm
sàng và cận lâm sàng của bệnh nhân TBMMN với
các mức độ THA.
2. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Đối tượng nghiên cứu
115 bệnh nhân TBMMN được điều trị tại khoa
Nội Tim mạch, BV Trường Đại học Y Dược Huế và có
chụp CLVT/MRI sọ não, từ tháng 9/2017 đến tháng
4/2018.
2.2. Phương pháp nghiên cứu
2.2.1. Thiết kế nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả cắt
ngang.
2.2.2. Cỡ mẫu
Chọn mẫu thuận tiện: n = 115. Thu thập số liệu
từ hồ sơ bệnh án và thăm khám, phỏng vấn trực
tiếp.
2.2.3. Nội dung nghiên cứu (biến nghiên cứu):
Thông tin chung: họ tên, tuổi, địa chỉ, nghề nghiệp.
Tiền sử các bệnh lý: THA, TBMMN, bệnh lý tim
mạch, hút thuốc lá... Bệnh sử: bệnh khởi phát, thời
gian nhập viện. Dấu hiệu sống, HA vào viện, thang
điểm Glasgow, thang điểm NIHSS. Đặc điểm cận
lâm sàng: Công thức máu, glucose máu, biland lipid,
CLVT/MRI.
2.2.4. Xử lý số liệu: Số liệu được xử lý bằng phần
mềm SPSS 23.0, với mức ý nghĩa p < 0,05.
intracerebral hemorrhage was dominant at central gray nuclei, capsual interna, hippocampus. The glucose and
lipid indices did not show any statistically significant difference between ischemic and hemorrhagic strokes.
Hospitalized blood pressure of hemorrhagic stroke was (166.58 ± 27.29/95.79 ± 15.39) higher than that of
ischemic group (154.11 ± 23.64/87.08 ± 12.97) (p < 0.05). Incidence of hemorrhagic stroke, GSC and NIHSS
scores of Grade 2 hypertension up were respectively 17.7%, 8.1% và 61.3%; while in Grade 1 hypertension
were respectively 15.1%, 3.8% and 56.6% (p > 0.05). Conclusions: Mean value of hospitalized blood pressure
in hemorrhagic stroke was significantly higher than that in ischemic (p < 0.05). Unilateral hemisphere damages
were predominant; middle cerebral infarction is most common in ischemic while intracerebral hemorrhage at
central gray nuclei, capsule interna and hippocampus is dominant in hemorrhagic stroke. Grade 1 hypertension
was lower the incidence of hemorrhagic stroke as well as better in both GSC and NIHSS scores than Grade 2
hypertension up (p > 0.05).
Key words: ischemic stroke, hemorrhagic stroke, hypertension grades, Glassgow, NIHss
84
Tạp chí Y Dược học - Trường Đại học Y Dược Huế - Số 3, tập 10/2020
3. KẾT QUẢ
3.1. Đặc điểm chung nhóm nghiên cứu
3.1.1. Phân bố mẫu
Bảng 1. Phân bố mẫu
Đặc điểm
Nhóm tuổi
Tổng Tỷ lệ (%)
< 50 50 - 59 60 - 69 ≥ 70
Giới tính
Nam 5 18 18 22 63 54,8
Nữ 2 5 11 34 52 45,2
Địa dư
Nông thôn 62 54
Thành thị 53 46
Nhận xét: Kết quả cho thấy tỷ suất nam/nữ là 1.21/1, tỷ lệ bệnh nhân ≥ 50 chiếm 94,9%. Tỉ lệ bệnh nhân
sống ở thành thị và nông thôn khá tương đồng (46% và 54%).
3.1.2. Các yếu tố nguy cơ kèm theo
Bảng 2. Các yếu tố nguy cơ kèm theo
yếu tố nguy cơ Số BN (n=115) Tỷ lệ (%)
Số yếu tố nguy cơ
0 33 29
1 49 42
≥ 2 33 29
ĐTĐ 11 9,6
TBMMN cũ 30 26,1
Rối loạn lipid máu 54 47
Hút thuốc lá 27 23,5
Nhận xét: Tỷ lệ BN có ít nhất một yếu tố nguy cơ kèm theo là 71%, rối loạn lipid máu là thường gặp nhất
(47%), đái tháo đường là ít gặp nhất (9,6%).
3.2. Các đặc điểm lâm sàng và cận lâm sàng
3.2.1. Thời gian khởi phát – nhập viện và thể bệnh
Bảng 3. Thời gian khởi phát – nhập viện và thể bệnh
Thời gian khởi phát – nhập viện
Tổng Tỷ lệ (%)
24 giờ
Thể bệnh
NMN 27 (28,1%) 30 (31,2%) 39 (40,7%) 96 (83,5%) 0,006
XHN 11(57,9%) 7 (36,8%) 1 (5.3%) 19 (16,5%)
Tổng 38 (33%) 37 (32,2%) 40 (34,8%) 115
Nhận xét: Không có sự khác biệt về tỷ lệ BN nhập viện 24 giờ. Thể NMN chiếm ưu thế
(83,5%). Tỷ lệ BN nhóm XHN nhập viện sớm cao hơn nhóm NMN, tương ứng 57,9% so với 28,1% (p < 0,05).
3.2.2. Triệu chứng lâm sàng
Bảng 4. Triệu chứng lâm sàng
Triệu chứng
NMN
(n=96)
XHN
(n=19)
Số BN
(n=115)
p
(NMN và
XHN)
Yếu liệt nửa người 80 (83,3%) 15 (78,9%) 95 (82,6%) 0,645
Liệt mặt trung ương 36 (37,5%) 4 (21,1%) 40 (34,8%) 0,169
Rối loạn cảm giác 24 (25%) 4 (21,1%) 28 (24,3%) 0,714
Rối loạn tri giác 5 (5,2%) 4 (21,1%) 9 (7,8%) 0,019
85
Tạp chí Y Dược học - Trường Đại học Y Dược Huế - Số 3, tập 10/2020
Đau đầu 18 (18,8%) 13 (68,4%) 31 (27%) <0,01
Buồn nôn 8 (8,3%) 12 (63,2%) 20 (17,4) <0,01
Nôn 4 (4,2%) 11 (57,9%) 15 (13%) < 0,01
Nói khó 42 (43,8%) 8 (42,1%) 50 (43,5%) 0,895
Thất ngôn 9 (9,4%) 0 (0%) 9 (7,8%) 0,164
Thất điều 4 (4,2%) 3 (15,8%) 7 (6,1%) 0,053
Babinski dương tính 13 (13,5%) 7 (36,8%) 20 (17,4%) 0,014
Co giật 1 (1%) 1 (5,3%) 2 (1,7%) 0,198
Nhận xét: Triệu chứng hay gặp nhất là yếu liệt nửa người (82,6%), các triệu chứng như rối loạn tri giác,
đau đầu, buồn nôn, nôn và Babinski dương tính thường gặp ở thể XHN hơn NMN (p<0,05)
3.2.3. Huyết áp lúc vào viện
Bảng 5. Huyết áp lúc vào viện
Huyết áp NMN XHN p
HATT (mmHg) 154,11 ± 23,64 166,58 ± 27,29 0,043
HATTr (mmHg) 87,08 ± 12,97 95,79 ± 15,39 0,011
NHậN XéT: Kết quả cho thấy trị số trung bình HA lúc vào viện ở bệnh nhân XHN cao hơn NMN, cả HATT
và HATTr (p<0,05)
3.2.4. Các chỉ số cận lâm sàng
Bảng 6. Các chỉ số cận lâm sàng
Thông số NMN XHN p
Glucose (mmol/L) 6,99 ± 2,67 7,41 ± 2,03 0,514
Cholesterol toàn phần (mml/L) 5,08 ± 1,28 4,78 ± 1,05 0,338
HDL-C(mmol/L) 1,21± 0,34 1.17 ± 0,35 0,707
LDL-C(mmol/L) 3,49 ± 1,18 3,26 ± 0,94 0,42
Triglycerid(mmol/L) 1,68 ± 1 1,72 ± 0,96 0,885
Nhận xét: Chưa có sự khác biệt về các chỉ số glucose máu, cholesterol toàn phần, HDL-C, LDL-C, và
triglycerid ở hai thể bệnh.
3.2.5. Bán cầu não tổn thương
Biểu đồ 1. Bán cầu não tổn thương
Nhận xét: Tổn thương ở 1 bán cầu chiếm ưu thế (78%), bên trái và phải là tương đương nhau chiếm 39%;
tổn thương cả 2 bán cầu là 20%.
86
Tạp chí Y Dược học - Trường Đại học Y Dược Huế - Số 3, tập 10/2020
3.2.6. Tổn thương nhồi máu não
Bảng 7. Tổn thương NMN
Tổn thương nhồi máu Số BN (n=96) Tỷ lệ (%)
Số lượng ổ nhồi máu
1 61 63,5
2 19 19,8
≥3 16 16,6
Loại nhồi máu
Ổ khuyết 43 44,8
Không phải ổ khuyết 53 55,2
Động mạch cấp máu
ĐM não giữa 55 57,3
ĐM não trước 26 27,1
ĐM não sau 6 6,2
Khác 9 9,4
Nhận xét: Tỷ lệ NMN 1 ổ là 63,5% và ≥ 3 ổ là 16,6%; tổn thương ĐM não giữa là nhiều nhất (57,3%), ĐM
não trước là 27,1% và ĐM não sau là ít nhất (6,2%).
3.2.7. Vị trí tổn thương xuất huyết não
Bảng 8. Vị trí tổn thương XHN
Vị trí xuất huyết Số BN (n=19) Tỷ lệ (%)
Xuất huyết trong não
Nhân xám trung ương bao trong, đồi thị 9 47,4
Thùy não 5 26,3
Khác 3 15,8
Xuất huyết dưới nhện 2 10,5
Nhận xét: XH trong não chiếm tỷ lệ cao nhất (89,5%) chủ yếu ở các nhân xám trung ương, bao trong, đồi
thị chiếm 47,3%.
3.3. Mối liên quan giữa mức độ THA với các đặc điểm lâm sàng và cận lâm sàng
3.3.1. Mối liên quan giữa mức độ THA và thể bệnh
Bảng 9. Phân độ THA và thể bệnh
Thể bệnh
Tổng Tỷ lệ (%)
NMN (n=96) XHN (n=19)
Phân độ THA Độ 1 45 (84,9%) 8 (15,1%) 53 (46,1%)
0,067
Độ 2 trở lên 51 (82,3%) 11 (17,7%) 62 (53,9%)
Nhận xét: THA từ độ 2 trở lên chiếm 53,9%; THA phân độ 2 trở lên có biến chứng XHN cao hơn so với THA phân
độ 1, tương ứng 17,7% so với 15,1%; tuy nhiên sự khác biệt này chưa có ý nghĩa thống kê (p > 0,05).
3.3.2. Mối liên quan giữa mức độ THA và thang điểm Glasgow
Bảng 10. Phân độ THA và thang điểm Glasgow
Glasgow
Tổng Tỷ lệ (%)
13-15 9-12
Phân độ THA
Độ 1 51 (96,2%) 2 (3,8%) 53 (46,1%)
0,638Độ 2 57 (91,9%) 5 (8,1%) 62 (53,9%)
Tổng 108 (93,9%) 7(6,1%) 115
Nhận xét: Không có BN nào trong nghiên cứu có rối loạn ý thức mức độ nặng; phần lớn BN có rối loạn
ý thức nhẹ (13-15) chiếm 93% theo thang điểm Glassgow; tỷ lệ BN có HA từ độ 2 trở lên có rối loạn ý thức
trung bình cao hơn so với nhóm có HA mức độ 1, tương ứng 8,1% và 3,8%); tuy nhiên sự khác biệt này chưa
có ý nghĩa thống kê (p>0,05).
87
Tạp chí Y Dược học - Trường Đại học Y Dược Huế - Số 3, tập 10/2020
4.BÀN LUẬN
4.1. Về đặc điểm chung của đối tượng nghiên
cứu
Qua kết quả nghiên cứu ở bảng 3.1 và 3.2, chúng
tôi nhận thấy tỷ suất nam:nữ là 1,21, tỷ lệ bệnh nhân
≥ 50 chiếm 94,9%. Tỉ lệ bệnh nhân sống ở thành thị
và nông thôn khá tương đồng, 46% so với 54%. Bệnh
nhân có ít nhất một yếu tố nguy cơ kèm theo là khá
cao 71%, con số này ở nghiên cứu của Phạm Thị Lệ
Quyên là 75,8% [8]. Rõ ràng TBMMN là một bệnh do
sự kết hợp của nhiều yếu tố nguy cơ gây nên.
Rối loạn lipid máu là thường gặp nhất với 47%,
ít gặp nhất là đái tháo đường (9,6%), tương đồng
với nghiên cứu của Nguyễn Thị Nguyệt: rối loạn lipid
máu 62,5%, hút thuốc lá 35,2%, TIA 30,7%, và ĐTĐ
là 13,6% [9]. Đây cũng là nhóm 10 yếu tố nguy cơ có
thể thay đổi được chiếm đến 90 % của TBMMN theo
INTERSTROKE [4].
4.2. Các đặc điểm lâm sàng và cận lâm sàng
Về thời gian từ lúc khởi phát triệu chứng đến khi
nhập viện, tỷ lệ bệnh nhân nhập viện trước 6 giờ là
33%, khá tương đồng so với nghiên cứu của tác giả
Lê Trần Thắng thì tỷ lệ này là 29,5% [10].
Về thể bệnh, NMN chiếm ưu thế (83,5%). Tỷ
lệ này cao hơn so với nghiên cứu của Nguyễn Bá
Thắng và Lê Văn Thành ở thành phố Hồ Chí Minh:
NMN chiếm 45,3%, XHN chiếm 54,7% [11]. Tỷ lệ BN
nhóm XHN nhập viện sớm cao hơn nhóm NMN (p
< 0,05).
Xét mối liên quan giữa thể bệnh và thời gian khởi
phát – nhập viện cho thấy tỷ lệ bệnh nhân nhóm
XHN đến viện sớm cao hơn nhóm NMN, sự khác biệt
này có ý nghĩa thống kê (p < 0,01). Kết quả này phù
hợp với cơ chế bệnh sinh của từng thể bệnh.
Về triệu chứng lâm sàng: triệu chứng hay gặp
nhất là yếu liệt nửa người (82,6%), tiếp theo là liệt
mặt trung ương và nói khó. Kết quả này phù hợp
với các dấu hiệu phát hiện sớm TBMMN trong cộng
đồng là yếu tay, liệt mặt, nói ngọng (FAST). Các triệu
chứng như rối loạn tri giác, đau đầu, buồn nôn, nôn
và Babinski dương tính thường gặp ở thể XHN hơn
NMN. Sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê. Điều này
cũng phù hợp với cơ sở lý thuyết.
Huyết áp lúc vào viện: về huyết áp lúc vào viện,
cho thấy cả HATT và HATTr trung bình ở bệnh nhân
XHN đều lớn hơn so với bệnh nhân NMN, phù hợp
với cơ chế bệnh sinh của bệnh. Chúng tôi so sánh với
hai nghiên cứu của các tác giả khác như sau:
3.3.3. Mối liên quan giữa phân độ THA và mức độ nặng theo thang điểm NIHSS
Bảng 11. Phân độ THA và mức độ nặng theo thang điểm NIHSS
Điểm NIHSS
Tổng Tỷ lệ (%)
0 1-4 5-15
Phân độ
THA
Độ 1 3 (5,7%) 20 (37,7%) 30 (56,6%) 53 (46,1%)
0,767Độ 2 5 (8,1%) 19 (30,6%) 38 (61,3%) 62 (53,9%)
Tổng 8 (7%) 39 (33,9%) 68 (59,1%) 115
Nhận xét: Không có BN nào trong NC thuộc nhóm nặng (16-20) và nhóm rất nặng (21-42) theo thang điểm
NIHSS; tỷ lệ BN có điểm NIHSS mức độ trung bình là cao nhất (59,1%); tỷ lệ BN nhóm trị số trung bình HA mức
độ 2 trở lên có điểm NIHSS mức trung bình của TBMMN đánh giá bằng thang điểm NIHSS cao hơn nhóm HA
độ 1, tương ứng 61,3% và 56,6%; tuy nhiên sự khác biệt chưa có ý nghĩa thống kê (p>0,05).
Bảng 12. So sánh các nghiên cứu
Nghiên cứu
Huyết áp
Chúng tôi Phạm Thị Lệ Quyên [8] Nguyễn Bá Thắng [12]
NMN XHN NMN XHN NMN XHN
HATT (mmHg) 154,11 166,58 163 165 137,5 158,8
HATTr (mmHg) 87,08 95,79 90,6 93 81,2 91,9
Các chỉ số cận lâm sàng: kết quả nghiên cứu
chúng tôi cho thấy chưa có sự khác biệt về các chỉ số
glucose máu, cholesterol toàn phần, HDL-C, LDL-C,
và triglycerid ở hai thể bệnh (p > 0,05).
Về tổn thương các bán cầu não: Chúng tôi nhận
thấy tổn thương ở bán cầu não trái và ở bán cầu
não phải là tương đương nhau chiếm 39%, còn tổn
thương ở hai bán cầu chiếm 20%. Theo nghiên cứu
của Nguyễn Thi Hùng trên 181 bệnh nhân NMN cho
biết vị trí nhồi máu bán cầu não phải chiếm 35,9%,
bán cầu não trái chiếm 51,9%, tổn thương hai bán
cầu chiếm 12,2% [13]. Theo nghiên cứu của Nguyễn
Duy Bách trên 208 bệnh nhân, nhồi máu bán cầu
não phải chiếm 40,18%, nhồi máu bán cầu não trái
88
Tạp chí Y Dược học - Trường Đại học Y Dược Huế - Số 3, tập 10/2020
chiếm 32,14%, tổn thương hai bên bán cầu chiếm
27.68% [14]. So sánh với hai nghiên cứu trên thì
không có sự tương đồng nào về vị trí bán cầu tổn
thương ưu thế hơn bên nào.
Về tổn thương nhồi máu não: Tỷ lệ bệnh nhân
có 1 ổ nhồi máu là 63,5% ≥ 3 ổ nhồi máu là 16,6%.
Kết quả này tương đồng với kết quả nghiên cứu
của Nguyễn Duy Bách, 61,61% và 10,71% [14]. Tổn
thương động mạch não giữa chiếm tỷ lệ cao nhất
57,3%, động mạch não trước là 27,1% và động mạch
não sau chiếm thấp nhất 6,2%. Trong nghiên cứu của
Nguyễn Duy Bách, các con số này lần lượt là 64,3%,
25%, 10,7% [14]. Cả hai nghiên cứu đều cho thấy tần
suất tổn thương từ cao đến thấp là động mạch não
giữa, động mạch não trước và động mạch não sau.
Kết quả này phù hợp với y văn và nhiều nghiên cứu
khác trên thế giới.
Vị trí tổn thương xuất huyết não: xuất huyết
trong não chiếm tỷ lệ cao tuyệt đối so với xuất
huyết dưới nhện, trong đó xuất huyết ở các nhân
xám trung ương, bao trong, đồi thị chiếm 47,3%. So
với nghiên cứu của Nguyễn Duy Bách, con số này là
56,25% [14]. Kết quả nghiên cứu này phù hợp với cơ
chế bệnh sinh của XHN ở bệnh nhân THA.
4.3. Mối liên quan giữa mức độ THA và thể bệnh
Trong nghiên cứu của chúng tôi, THA độ 2 trở
lên chiếm phần lớn (53,9%). Tỷ lệ bệnh nhân độ 2
có biến chứng XHN là 17,7%, cao hơn nhóm HA mức
độ 1 (15,1%), tuy nhiên sự khác biệt chưa có ý nghĩa
thống kê (p>0,05).
Không có BN nào trong nghiên cứu có rối loạn
ý thức mức độ nặng; phần lớn bệnh nhân có mức
độ rối loạn ý thức nhẹ (điểm Glasgow 13-15) chiếm
93.9%. Nhóm có phân độ HA độ 2 trở lên có tỷ lệ
rối loạn ý thức mức độ trung bình (điểm Glassgow
9-12) là 8,1%, cao hơn nhóm phân độ HA độ 1
(3,8%) (p>0,05).
Không có BN nào trong NC thuộc nhóm nặng
(16-20) và nhóm rất nặng (21-42) theo thang điểm
NIHSS. Tỷ lệ bệnh nhân có điểm NIHSS mức độ trung
bình chiếm tỷ lệ cao nhất với 59,1%. Tỷ lệ BN phân
độ HA mức độ 2 trở lên có điểm NIHSS mức độ trung
bình cao hơn nhóm HA độ 1, tương ứng 61,3% và
56,6%; tuy nhiên sự khác biệt chưa có ý nghĩa thống
kê (p>0,05).
Qua đó, chúng tôi nhận thấy rằng: nhóm phân
độ THA độ 1 sẽ có tỷ lệ XHN thấp hơn, điểm NIHSS
và điểm Glassgow tốt hơn so với nhóm phân độ
THA độ 2 trở lên (p>0,05). Cơ sở lý thuyết cũng như
nghiên cứu thực tiễn lâm sàng đề cập đến mối liên
quan giữa mức độ THA với mức độ nặng của bệnh
trên lâm sàng theo thang điểm Glasgow hay NIHSS.
Kết quả nghiên cứu của đã chúng tôi phần nào cho
thấy được mối liên quan đó. Tuy nhiên là do thời
gian nghiên cứu ngắn, cỡ mẫu chưa đủ lớn, phân bố
mẫu chưa chuẩn nên mối liên quan đó chưa thực
sự được bộc lộ rõ ràng. Vì vậy chúng tôi đề nghị mở
rộng nghiên cứu với kích thước mẫu lớn, phân bố
chuẩn để làm rõ mối liên quan này.
5. KẾT LUẬN
Nghiên cứu được tiến hành trên 115 bệnh nhân
tai biến mạch máu não điều trị tại khoa Nội, bệnh
viện Trường Đại học Y Dược Huế cho thấy: không
có trường hợp nào thuộc nhóm mức độ nặng theo
thang điểm NIHSS (16-42) và thang điểm Glassgow
(< 9). Các chỉ số glucose và biland lipid chưa cho thấy
sự khác biệt có ý nghĩa thống kê. Thể nhồi máu não
chiếm đa số (83,5%) và tổn thương 1 bán cầu chiếm
ưu thế. Trong thể nhồi máu não, đa số là tổn thương
1 vị trí, thường gặp là động mạch não giữa. Trong
thể xuất huyết não, xuất huyết trong não chiếm tỷ lệ
cao nhất, trong đó xuất huyết ở các nhân xám trung
ương, bao trong, đồi thị. Huyết áp lúc vào viện của
nhóm nhồi máu não thấp hơn so với nhóm xuất huyết
não (p<0,05). Nhóm huyết áp phân độ 2 trở lên có tỷ
lệ biến chứng xuất huyết não, điểm Glassgow mức
độ trung bình và điểm NIHSS mức độ trung bình cao
hơn so với nhóm huyết áp phân độ 1. Tuy nhiên sự
khác biệt chưa có ý nghĩa thống kê (p>0,05).
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Mozaffarian D, Benjamin EJ, Go AS, Arnett DK, Blaha
MJ, et al (2015), “Heart disease and stroke statistics 2015
update: a report from the American Heart Association”
Circulation, 131(4), pp. e29-322.
2. World Health Organization (2016), Global Health
Estimates 2015: Deaths by Cause, Age, sex, by Country
and by Region, 2000-2015, Geneva.
3. Hoàng Khánh, Nguyễn Đình Toàn (2015), Giáo trình
nội thần kinh, NXB Đại học Huế, Huế.
4. O'Donnell, M.J., et al (2016), “Global and regional
effects of potentially modifiable risk factors associated with
acute stroke in 32 countries (INTERSTROKE): a case-control
study”, The Lancet, 388(10046), pp. 761-775.
5. Hội Tim Mạch học Việt Nam (2016), Kết quả mới
nhất điều tra tăng huyết áp toàn quốc năm 2015 – 2016,
Hội nghị Tăng huyết áp Việt Nam lần thứ 11.
6. Adrian J.Goldszmidt, Louis R.Caplan, Nguyễn Đạt
Anh biên dịch (2012), Cẩm nang xử trí tai biến mạch máu
não, NXB Y học, Hà Nội.
7. ACC/AHA (2013), “Guideline on the Treatment
89
Tạp chí Y Dược học - Trường Đại học Y Dược Huế - Số 3, tập 10/2020
of Blood Cholesterol to Reduce Atherosclerotic
Cardiovascular Risk in Adults”, Circulation, pp. 1-84.
8. Phạm Thị Lệ Quyên (2010), Nghiên cứu đặc điểm
lâm sàng, điện tâm đồ ở bệnh nhân tai biến mạch máu
não do tăng huyết áp nguyên phát, Luận văn tốt nghiệp
bác sĩ chính quy, Trường Đại học Y Dược Huế, Huế.
9. Nguyễn Thị Nguyệt (2013), Đối chiếu thang điểm
đột quỵ của Allen với hình ảnh chụp não cắt lớp vi tính ở
bệnh nhân tai biến mạch máu não, Luận văn bác sĩ chính
quy, Trường Đại học Y Dược Huế, Huế.
10. Lê Trần Thắng (2014), “Nhận xét đặc điểm lâm
sàng và hình ảnh của nhồi máu não”, Y học TP. Hồ Chí
Minh, tập 18, số 3, tr 53-56.
11. Nguyễn Bá Thắng, Lê Văn Thành (2006), “Kiểm
chứng giá trị thang điểm lâm sàng chẩn đoán phân biệt nhồi
máu não và xuất huyết não trên lều”, Y học thực hành thành
phố Hồ Chí Minh, Chuyên đề thần kinh học số 1(7), 15.
12. Nguyễn Bá Thắng, Lê Văn Thành, Trần Ngọc Tài
(2004), “Đề nghị thang điểm lâm sàng chẩn đoán phân
biệt thiếu máu cục bộ não và xuất huyết não trên lều”,
Hội nghị khoa học công nghệ tuổi trẻ các Trường Đại học Y
Dược Việt Nam lần thứ 12, tr 239-247.
13. Nguyễn Thi Hùng (1999), Góp phần nghiên cứu đặc
điểm hình thái học và tiên lượng của nhồi máu não qua kỹ
thuật chụp cắt lớp vi tính, Luận án tiến sỹ Y học, Trường
Đại học Y Dược Thành Phố Hồ Chí Minh.
14. Nguyễn Duy Bách, Bùi Văn Vĩ, Dương Thanh
Bình, Hoàng Minh Lợi, Lê Trọng Khoan (2009), “Nghiên
cứu một số đặc điểm lâm sàng và hình ảnh cắt lớp vi tính
sọ não ở bệnh nhân tai biến mạch máu não giai đoạn
cấp tại bệnh viện hữu nghị Việt Nam - Cu Ba, Đồng Hới”,
Tạp chí khoa học, Đại học Huế, số 52.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
danh_gia_dac_diem_lam_sang_va_can_lam_sang_cua_tai_bien_mach.pdf