Đánh giá độ cứng động mạch ở bệnh nhân bệnh động mạch vành

Xét độ cứng động mạch theo tuổi (Bảng 4) chúng tôi nhận thấy có sự khác biệt giữa chứng và bệnh ở nhóm 50 - 60 tuổi và trên 60 tuổi theo hướng PWV tăng theo tuổi. Chính sự gia tăng độ cứng mạch theo tuổi nên đã đưa đến tăng hiệu áp (pulse pressure) và khi hiệu áp càng tăng thì tần suất các biến cố mạch vành cũng tăng theo. Tuổi đời càng cao thì các thành phần elastin và các sợi collagen chịu tải của thành mạch máu dễ bị đứt vỡ, làm cho thành mạch kém đàn hồi và cứng lại, sóng mạch truyền đi nhanh hơn ở động mạch còn đàn hồi tốt ở người trẻ [4,15]. PWV cũng tăng dần cùng với mức độ nặng dần và số nhánh bị tổn thương của động mạch vành. PWV lần lượt là 9.35 ± 2.64, 11.51 ± 2.01 và 13.73 ± 3.24 m/s ứng với các nhóm tổn thương 1, 2 và 3 nhánh mạch vành chính. Điều này cho thấy mức xơ vữa mạch vành càng nặng lên khi tốc độ sóng mạch gia tăng. Alarhabi A.Y và cs mới công bố trong năm 2009 kết quả nghiên cứu cho thấy PWV tăng theo số nhánh mạch vành tổn thương tăng dần là 11.13 ±0.916, 15.22 ±1.115 và 19.30 ±2.056 m/s ứng với tổn thương 1, 2 và nhiều nhánh [1]. Kết quả của nghiên cứu này có khác với kết quả của chúng tôi do đánh giá tốc độ sóng ở vị trí động mạch cảnh - đùi thay vì chủ lên - đùi (như nghiên cứu của chúng tôi) và bằng phương pháp không xâm nhập. Mặc khác tuổi trung bình của nhóm bệnh cũng khác với chúng tôi. Ngoài ra PWV cũng có mối tương quan chặc chẽ với số điểm hẹp mạch vành của Gensini, với r = 0.63 và p < 0.01. Số điểm Gensini biểu hiện tình trạng tổn thương chung cả hệ mạch vành, kết hợp giữa độ hẹp khẩu kính, vị trí chức năng của từng đoạn mạch vành và số lượng toàn bộ của tất cả các tổn thương. Lee Y-S và cs (2006) cũng cho thấy mối tương quan chặc chẽ giữa PWV bằng phương pháp không xâm nhập với điểm xơ vữa hẹp điều chỉnh có sự kết hợp giữa độ hẹp mạch vành và kèm theo 10 phân đoạn mạch vành chính mà không quan tâm đến chức năng của các đoạn đó (r= 0.55, p< 0.001) [10]. Bên cạnh đó, chúng tôi cũng nhận thấy có mối tương quan chặc chẽ giữa PWV và độ hẹp khẩu kính % của từng mạch vành; cụ thể là LTT, mũ và vành phải lần lược là r= 0.43, r= 0.53 và r= 0.54 (p < 0.01).

pdf7 trang | Chia sẻ: hachi492 | Lượt xem: 9 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đánh giá độ cứng động mạch ở bệnh nhân bệnh động mạch vành, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
NgHIÊN CứU LÂM SÀNg44 Đánh giá độ cứng động mạch ở bệnh nhân bệnh động mạch vành Phan Đồng Bảo Linh* Nguyễn Cửu Lợi** Nguyễn Anh Vũ*** Toùm TaéT Mục tiêu: Tìm hiểu mối tương quan giữa PWV với các đặc điểm tổn thương động mạch vành (ĐMV) và xác định điểm cắt PWV để dự báo nguy cơ bệnh động mạch vành. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả cắt ngang theo sổ bộ (registry stdy) trên những bệnh nhân được chụp động mạch vành chọn lọc với máy DSA tại phòng thông tim và can thiệp của Trung tâm tim mạch bệnh viện Trung Ương Huế từ tháng 4 đến tháng 11/2009. PWV (PWV) động mạch chủ lên động mạch đùi xác định bằng phương pháp xâm nhập. Độ trầm trọng của bệnh ĐMV được đánh giá theo độ hẹp phần trăm của khẩu kính, số mạch vành chính bị tổn thương và thang điểm Gensini. Kết quả: 55 bệnh nhân bệnh mạch vành (tuổi trung bình 63,69 ± 10,79) và 32 trường hợp chứng (tuổi trung bình 61,56 ± 9,58) đồng ý tham gia nghiên cứu. PWV của bệnh nhân bệnh ĐMV cao hơn ý nghĩa so với không bệnh (11,65 ± 3.32 so với 8,48 ± 2.08; p < 0,01). PWV càng cao khi số mạch tổn thương tăng lên. Có sự tương quan chặt chẽ giữa PWV với điểm số Gensini (r = 0,63; P < 0,01), với mức độ hẹp của động mạch liên thất trước (r = 0,43; p < 0,01), động mạch mũ (r = 0,53; p < 0.01) và ĐMV phải (r = 0,54; p < 0,01). Kết luận: Nghiên cứu này đã chứng tỏ độ cứng động mạch đánh giá bằng PWV có liên quan với độ trầm trọng của bệnh ĐMV. *: Bệnh viện đa khoa Quãng Nam, **: Bệnh viện Trung Ương Huế, ***: Trường Đại học Y Dược Huế ñaët vaán ñeà: Bệnh động mạch vành (ĐMV) là nguyên nhân tử vong hàng đầu trong mô hình bệnh tật hằng năm trong nước cũng như trên thế giới. Bệnh có nhiều yếu tố nguy cơ chi phối. Tuy nhiên cho đến nay dù kiểm soát tốt các yếu tố nguy cơ cũng chưa thể hoàn toàn ngăn được bệnh tiến triển. Điều đó chứng tỏ bệnh còn chịu ảnh hưởng bởi nhiều yếu tố khác cần phải được nghiên cứu xác định. Trong thời gian gần đây có nhiều nghiên cứu trên thế giới đề cập đến vấn đề độ cứng động mạch (arte- rial stiffness), xem độ cứng động mạch như là một yếu tố nguy cơ tim mạch độc lập và có vai trò dự báo trong nhiều bệnh lý khác nhau như bệnh động mạch vành, tăng huyết áp nguyên phát, bệnh thận giai đoạn cuối, rối loạn dung nạp đường máu và đái TẠP CHÍ TIM MẠCH HỌC VIỆT NAM - SỐ 53 - 2010 45 tháo đường... [1,2,3,4,6,8,9,12,15]. Chúng tôi tiến hành nghiên cứu này nhằm mục đích tìm hiểu mối tương quan giữa độ cứng động mạch qua PWV động mạch chủ lên - động mạch đùi (PWV) và độ trầm trọng của bệnh mạch vành cũng như khả năng dự báo bệnh mạch vành của chỉ số này. ñoái töôïng vaø phöông phaùp nghieân cöùu đối tượng nghiên cứu: Chúng tôi nghiên cứu trên nhóm 55 người lớn có tổn thương động mạch vành qua chụp động mạch vành chọn lọc và nhóm chứng 32 người không có tổn thương động mạch vành tại khoa Cấp cứu - Tim mạch can thiệp, Trung tâm Tim mạch, bệnh viện Trung Ương Huế từ tháng 4 đến tháng 11 năm 2009. Loại trừ các trường hợp có bất thường về cấu trúc tim mạch, có bệnh cơ tim, van tim, rối loạn nhịp tim, hội chứng vành cấp, suy tim, trụy tim mạch hay choáng tim. Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả cắt ngang theo sổ bộ có đối chứng. Lâm sàng: Ghi nhận các đặc điểm chung của đối tượng bao gồm: tuổi, giới, hút thuốc lá, chiều cao, cân nặng, tình trạng hoạt động thể lực, huyết áp. Chẩn đoán tăng huyết áp theo khuyến cáo năm 2008 của Hội Tim mạch học Việt Nam [13]. Cận lâm sàng - Xét nghiệm đường máu lúc đói, bi- lan lipid máu, chức năng gan thận và các men tim đồng thời làm ECG, siêu âm tim cũng như các thủ tục khác chuẩn bị bệnh nhân cho chụp mạch vành về cả thể chất lẫn tinh thần. - Chụp động mạch vành: + Chụp ĐMV chọn lọc trên hệ thống DSA hiệu Phillips Integris đời 2006 theo phương pháp Judkins qua đường động mạch đùi với kỹ thuật chọc mạch Seldinger [7]. + Đánh giá tổn thương ĐMV theo vị trí tổn thương dựa trên giải phẫu ĐMV, phân loại tổn thương ĐMV theo A-B-C của Hiệp hội tim mạch Hoa kỳ (AHA/ ACC 1998) [7], mức độ hẹp % theo đường kính, tính thang điểm Gensini của hệ động mạch vành, số mạch vành chính bị tổn thương [5]. Hình 1. Điểm tương ứng với độ hẹp Hình 2. Hệ số của từng đoạn động mạch vành NgHIÊN CứU LÂM SÀNg46 - Đánh giá độ cứng động mạch qua PWV đoạn ĐMC lên - động mạch đùi. + PWV đoạn ĐMC lên - động mạch đùi (PWV - pulse ware velocity) được xác định bằng phương pháp xâm nhập kết hợp ngay trong lúc chụp ĐMV nhờ bộ phận bán tự động đi kèm theo máy DSA Phillips một bình diện cho phép ghi áp lực động mạch xâm nhập đồng thời với ghi điện tim đồ tại hai vị trí động mạch chủ lên và động mạch đùi kèm theo phần mềm tính thời gian truyền song để phân tích như trên hình minh họa. Chúng tôi tính thời gian theo cách đo từ chân phức bộ QRS của ECG đến chân song áp lực mạch (phương pháp foot to foot) của 3 bước sóng liên tiếp sau đó cộng lại và chia trung bình ta sẽ có được thời gian truyền song tại một vị trí đo. T1 là thời gian truyền sóng áp lực mạch tại ĐMC lên và T2 tương tự là thời gian truyền sóng áp lực mạch tại động mạch đùi. Như vậy thời gian truyền song áp lực động mạch giữa đoạn ĐMC lên và động mạch đùi chính là dT = T2 - T1. Khoảng cách giữa hai điểm ghi tại ĐMC lên và động mạch đùi (L) được xác định bằng hiệu số chiều dài phần ngoài cơ thể của catheter đo áp lực xâm nhập tính ghi tại đùi trừ đi chiều dài phần ngoài cơ thể của cath- eter khi ghi áp lực tại động mạch chủ lên. PWV được xác định bằng công thức cổ điển khoảng cách chia cho thời gian. Như thế PWV ĐMC lên - đùi được tính theo công thức [8,11]. PWV = L/ (T2 – T1) = L/dT (m/s) Xử lý số liệu Số liệu được tập hợp trên bảng Exel 2003 sau đó được phân tích thống kê trị trung binh, độ lệch chuẩn, hệ số tương quan, độ nhạy, độ đặc hiệu và tính các chỉ số nguy cơ tương đối, tỷ suất chênh bằng phần mềm SPSS 12.0. Hình 3. Sơ đồ tính thời gian truyền sóng TẠP CHÍ TIM MẠCH HỌC VIỆT NAM - SỐ 53 - 2010 47 Keát quaû 1. Đánh giá độ cứng động mạch qua PWV ở bệnh nhân bệnh ĐMV Bảng 1. Các chỉ số nhân trắc và tỉ lệ một số YTNC của nhóm bệnh và chứng Chứng Bệnh ĐMV p N (32) Gia Trị N (55) Gia Trị Tuổi 32 61.56 ± 9.58 55 63.69 ± 10.79 > 0.05 Nam 20 62.50 % 39 70.91 % > 0.05 BMI 32 22.96 ± 3.04 55 21.89 ± 3.13 > 0.05 THA 13 40.63 % 30 54.55 % > 0.05 ĐTĐ 2 6.25 % 4 7.27 % > 0.05 Hút thuốc 7 21.88 % 26 47.27 % < 0.05 RLLP 29 90.63 % 50 90.91 % > 0.05 Béo phi 15 46.88 % 19 34.55 % > 0.05 Tĩnh tại 5 15.63 % 15 27.27 % > 0.05 Tuổi, tỉ lệ giới, BMI và tỉ lệ một số yếu tố nguy cơ bệnh mạch vành không khác biệt giữa nhóm chứng và nhóm có bệnh mạch vành, chỉ riêng tỉ lệ hút thuốc lá trong nhóm bệnh ĐMV cao hơn nhóm chứng. Bảng 2. Tình trạng lipid máu của hai nhóm bệnh và chứng Loại Lipid Chứng Bệnh ĐMV p TC 4.89 ± 1.06 5.08 ± 1.33 > 0.05 TG 3.01 ± 1.53 2.75 ± 1.26 > 0.05 HDL-C 1.20 ± 0.48 1.13 ± 0.37 > 0.05 LDL-C 2.32 ± 0.98 2.65 ± 1.18 > 0.05 Non-HDL 142.41 ± 39.36 152.86 ± 44.81 > 0.05 Không khác biệt có ý nghĩa thống kê của các thành phần lipid máu giữa hai nhóm. NgHIÊN CứU LÂM SÀNg48 Bảng 4. PWV động mạch chủ - đùi của nhóm bệnh và chứng Nhóm Tuổi Chứng Bệnh ĐMV p n % PWV n % PWV ≤ 50 3 9.37 8.19 ± 0.98 8 14.55 8.47 ± 2.82 > 0.05 50 <-≤ 60 16 50.00 8.30 ± 2.17 13 23.63 11.09 ± 3.30 < 0.05 > 60 13 40.63 8.77 ± 2.22 34 61.82 12.62 ± 2.97 < 0.05 Chung 32 100.00 8.48 ± 2.08 55 100.0 11.65 ± 3.32 < 0.01 P > 0.05 < 0.05 PWV nhóm bệnh ĐMV cao hơn nhóm chứng rất có ý nghĩa thống kê với (11.65 ± 3.32 so với 8.48 ± 2.08 với p < 0.01). Trong khi PWV không thay đổi nhiều theo tuổi ở nhóm chứng thì ở nhóm bệnh ĐMV thông số này tăng dần theo tuổi. Bảng 5. PWV theo số nhánh ĐMV bị tổn thương Số nhánh ĐMV tổn thương Bệnh ĐMV P (pwv) n % PWV Trung binh 1 19 34.55 9.35 ± 2.64 P(1,2)< 0.05 2 14 25.45 11.51 ± 2.01 P(2,3)< 0.05 3 22 40.00 13.73 ± 3.24 P(3,1)< 0.05 Ở nhóm bệnh PWV cũng tăng dần theo số nhánh ĐMV chính bị tổn thương. 2. Mối tương quan giữa PWV với đặc điểm tổn thương ĐMV và điểm cắt PWV ý nghĩa: Bảng 6. Tương quan PWV với mức độ tổn thương ĐMV theo thang điểm Gensini Tương quan Mức hẹp ĐMV chính (%) LTT Mũ Vành phải PWV Bệnh ĐMV r 0.43 0.53 0.54 p < 0.01 < 0.01 < 0.01 Tương quan thuận chặc chẽ giữa PWV với mức độ hẹp % khẩu kính của các ĐMV chính. TẠP CHÍ TIM MẠCH HỌC VIỆT NAM - SỐ 53 - 2010 49 Baøn luaän Độ cứng động mạch (arterial stiff- ness) là một vấn đề còn khá mới mẻ trong tim mạch học và đang được tập trung nghiên cứu trong những năm gần đây. Về mặt cơ chế, độ cứng động mạch có liên quan đến nhiều yếu tố như gen di truyền, vai trò tế bào cơ trơn và nội mạc, sự lão hóa, tình trạng huyết áp cao tạo sức căng nền của động mạch, tình trạng lắng đọng canxi thành mạch, lượng muối qua khẩu phần ăn, ĐTĐ, suy thận[14,15]. Nhiều nghiên cứu lâm sàng đã chứng minh rằng độ cứng động mạch gia tăng sẽ làm tăng tỉ lệ tử vong và tỉ lệ mới mắc các bệnh tim mạch. Thay đổi thành mạch có thể được phát hiện ở giai đoạn sớm cả động mạch nhỏ và lớn. Thay đổi protein thành mạch là dấu chỉ điểm phát triển tổn thương thành mạch. Thay đổi mạch máu ở thận dẫn đến xơ cứng cầu thận, ở não đưa đến đột quị, ở ĐMV sẽ gây thiếu máu cục bộ cơ tim, ở mạch ngoại biên gây hẹp hay phình mạch. Động mạch như là mẫu số chung của mọi biến cố tim mạch vì vậy việc phát hiện những thay đổi sớm ở động mạch cụ thể như độ cứng động mạch tăng lên có vài trò như một chỉ điểm sớm có vai trò dịch tễ trong điều tra tầm soát các bệnh lý tim mạch nói chung và bệnh ĐMV nói riêng [3,9]. Để đánh giá độ cứng động mạch có rất nhiều thông số khác nhau như chỉ số đàn hồi xác định độ cứng như khả năng căng giãn tại một điểm của động mạch, PWV xác định bản chất thành mạch của môt đoạn động mạch mà cụ thể trong nghiên cứu này là đoạn ĐMC lên và động mạch đùi. Trong đó PWV được xem như là tiêu chuẩn vàng để đánh giá độ cứng động mạch. Về mặt thực hiện thì có nhiều biện pháp xác định PWV bằng xâm nhập và không xâm nhập. Phương pháp không xâm nhập có ưu điểm về mặt dịch tễ dễ ứng dụng tuy nhiên có khó khăn trong xác định khoảng cách thật sự giữa hai điểm động mạch được đo vì phải đo bên ngoài cơ thể. Phương pháp xâm nhập khó được áp dụng rộng rãi hơn tuy nhiên có độ chính xác cao hơn vì đo được khoảng cách chính xác giữa hai điểm động mạch nhờ vào catheter luồn trong động mạch [8,11,15]. Trong nghiên cứu của chúng tôi PWV ở nhóm bệnh ĐMV cao hơn nhóm chứng cùng độ tuổi (11.65 ± 3.32 so với 8.48 ± 2.08, p < 0.01). Irina Hlimonenko et al (2008) cũng nhận thấy PWV trong ĐMC ở nhóm bệnh ĐMV cao hơn người không có tổn thương ĐMV (10.2 ±1.8 so với 6.6 ±0.8, p< 0.01) tuy nhiên trong nghiên cứu này nhóm chứng có tuổi trung bình 27,5 tuổi, nghĩa là rất trẻ so với nhóm chứng của chúng tôi, bên cạnh đó PWV được đánh giá bằng phương pháp không xâm nhập [6]. Một nghiên cứu khác do Ahmed Yahya Alarhabi và cộng sự (2009) thực hiện đánh giá độ cứng động mạch bằng PWV cảnh - đùi không xâm nhập cũng cho thấy có sự khác biệt giữa bệnh và chứng tương tự như nghiên cứu của chúng tôi (11.13 ± 0.91 so với 8.14 ± 1.25 m⁄s, p<.001 [1]. Marcin C và cs (2006) cũng cho thấy sự khác biệt rõ giữa nhóm bệnh NgHIÊN CứU LÂM SÀNg50 ĐMV và nhóm chứng bằng phương pháp không xâm nhập (13.0 so với 10.5 m/s, p < 0.01) với tuổi trung bình nhóm bệnh là 63.5 ± 19.7 [12]. Xét độ cứng động mạch theo tuổi (Bảng 4) chúng tôi nhận thấy có sự khác biệt giữa chứng và bệnh ở nhóm 50 - 60 tuổi và trên 60 tuổi theo hướng PWV tăng theo tuổi. Chính sự gia tăng độ cứng mạch theo tuổi nên đã đưa đến tăng hiệu áp (pulse pressure) và khi hiệu áp càng tăng thì tần suất các biến cố mạch vành cũng tăng theo. Tuổi đời càng cao thì các thành phần elastin và các sợi collagen chịu tải của thành mạch máu dễ bị đứt vỡ, làm cho thành mạch kém đàn hồi và cứng lại, sóng mạch truyền đi nhanh hơn ở động mạch còn đàn hồi tốt ở người trẻ [4,15]. PWV cũng tăng dần cùng với mức độ nặng dần và số nhánh bị tổn thương của động mạch vành. PWV lần lượt là 9.35 ± 2.64, 11.51 ± 2.01 và 13.73 ± 3.24 m/s ứng với các nhóm tổn thương 1, 2 và 3 nhánh mạch vành chính. Điều này cho thấy mức xơ vữa mạch vành càng nặng lên khi tốc độ sóng mạch gia tăng. Alarhabi A.Y và cs mới công bố trong năm 2009 kết quả nghiên cứu cho thấy PWV tăng theo số nhánh mạch vành tổn thương tăng dần là 11.13 ±0.916, 15.22 ±1.115 và 19.30 ±2.056 m/s ứng với tổn thương 1, 2 và nhiều nhánh [1]. Kết quả của nghiên cứu này có khác với kết quả của chúng tôi do đánh giá tốc độ sóng ở vị trí động mạch cảnh - đùi thay vì chủ lên - đùi (như nghiên cứu của chúng tôi) và bằng phương pháp không xâm nhập. Mặc khác tuổi trung bình của nhóm bệnh cũng khác với chúng tôi. Ngoài ra PWV cũng có mối tương quan chặc chẽ với số điểm hẹp mạch vành của Gensini, với r = 0.63 và p < 0.01. Số điểm Gensini biểu hiện tình trạng tổn thương chung cả hệ mạch vành, kết hợp giữa độ hẹp khẩu kính, vị trí chức năng của từng đoạn mạch vành và số lượng toàn bộ của tất cả các tổn thương. Lee Y-S và cs (2006) cũng cho thấy mối tương quan chặc chẽ giữa PWV bằng phương pháp không xâm nhập với điểm xơ vữa hẹp điều chỉnh có sự kết hợp giữa độ hẹp mạch vành và kèm theo 10 phân đoạn mạch vành chính mà không quan tâm đến chức năng của các đoạn đó (r= 0.55, p< 0.001) [10]. Bên cạnh đó, chúng tôi cũng nhận thấy có mối tương quan chặc chẽ giữa PWV và độ hẹp khẩu kính % của từng mạch vành; cụ thể là LTT, mũ và vành phải lần lược là r= 0.43, r= 0.53 và r= 0.54 (p < 0.01). Keát luaän Nghiên cứu này cho thấy độ cứng mạch máu được đánh giá bằng PWV có liên quan với độ trầm trọng của bệnh ĐMV. PWV tương quan chặc chẽ với độ hẹp % khẩu kính và mức độ lan toản của bệnh mạch vành (số nhánh mạch vành chính bị tổn thương hẹp).

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfdanh_gia_do_cung_dong_mach_o_benh_nhan_benh_dong_mach_vanh.pdf
Tài liệu liên quan