Vườn Quốc gia Ba Bể và hồ Thác Bà là những địa điểm du lịch hấp dẫn và có tầm quan trọng
quốc gia. Mỗi năm có hàng chục ngàn người tới những địa điểm này để được thưởng thức cảnh
quan thiên nhiên và tham gia vào các hoạt động vui chơi, giải trí. Một trong những yếu tố quan
trọng góp phần tạo nên giá trị giải trí độc đáo cho 2 điểm du lịch này chính là rừng tự nhiên,
cảnh quan thiên nhiên và là cơ sở quan trọng cho hoạt động của du lịch sinh thái.
Mỗi năm có khoảng 19.500 du khách tới thăm vườn Quốc gia Ba Bể và 33.500 du khách tới
thăm Hồ Thác Bà. Tỷ lệ du khách (VR) giảm khá mạnh theo khoảng cách từ các vùng tới điểm
du lịch đặc biệt là tại hồ Thác Bà.
Tổng giá trị cảnh quan của vườn Quốc gia Ba Bể được ước tính là 1.552.611.000 đồng/năm và
đối với hồ Thác Bà là 529.962.000 đồng/năm. Giá trị này không bao gồm giá trị mang lại cho
du khách nước ngoài (chiếm khoảng 10% tổng giá trị cảnh quan vườn quốc gia Ba Bể và 1 - 3%
tổng giá trị cảnh quan hồ Thác Bà).
Hầu hết du khách sẵn sàng chi trả cao hơn mức phí vào cửa hiện tại của các điểm du lịch để
được thưởng thức cảnh quan và góp phần cải tạo, duy trì và bảo vệ cảnh quan đó. Mức sẵn lòng
chi trả của du khách trong nước là 21.300 đồng/người, của du khách quốc tế là 89.300
đồng/người cho cảnh quan du lịch tại vườn Quốc gia Ba Bể. Mức sẵn lòng chi trả của du khách
cho Hồ Thác Bà thấp hơn, chỉ khoảng 8.600 đồng/người. Tổng mức sẵn lòng chi trả hàng năm
của du khách đối với cảnh quan vườn Quốc gia Ba Bể là 586.899.200 đồng và đối với hồ Thác
Bà 291.129.920 đồng.
7 trang |
Chia sẻ: honghp95 | Lượt xem: 660 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đánh giá giá trị cảnh quan của vườn Quốc gia Ba Bể và khu du lịch hồ Thác Bà, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
1
Đánh giá giá trị cảnh quan của vườn Quốc gia Ba Bể
và khu du lịch hồ Thác Bà
Trần Thị Thu Hà và Vũ Tấn Phương1
Evaluation of Landscape Beauty Value in Ba Be National Park and Thac Ba Lake
This study is carried out as a part of the research titled “Economic valuation of forests for
environmental goods and services of the main forest types in Vietnam” which is being implemented
by Research Centre for Forest Ecology and Environment (RCFEE) of the Forest Science Institute of
Vietnam (FSIV).
Travel Cost Method (TCM) is used to derive demand curves for estimation of the recreation value
in the Ba Be National Park and Thac Ba Lake. The Contingent Valuation Method (CVM) is also
employed to assess visitor’s willingness to pay (WTP) for landscape protection in these two
research sites.
Results showed that the total recreation benefit of domestic visitors to the Ba Be National Park was
VND 1.552 million per annum and to the Thac Ba Lake was VND 529 million per annum. Also the
visitors were willing to pay an amount of VND 586 million for landscape protection in the Ba Be
National Park and 291 VND million in the Thac Ba Lake.
1. Đặt vấn đề
Rừng nói chung và đặc biệt là rừng nhiệt đới đóng vai trò hết sức quan trọng đối với đời sống con
người và sự phát triển của mỗi quốc gia. Ngoài chức năng cung cấp các sản phẩm sử dụng trực tiếp
như gỗ, củi, LSNG, ... rừng còn cung cấp các giá trị và dịch vụ môi trường hết sức to lớn, đó là
phòng hộ đầu nguồn, ven biển góp phần hạn chế bão lũ; hấp thụ và lưu giữ các bon nhằm điều hòa
khí hậu; duy trì và bảo tồn đa dạng sinh học,...
Ngoài những giá trị trên, rừng còn cung cấp cho con người giá những trị cảnh quan cực kỳ phong
phú và quý giá phục vụ cho phát triển du lịch sinh thái đáp ứng nhu cầu nghỉ ngơi, giải trí ngày
càng tăng của cộng đồng trong và ngoài nước. Du lịch sinh thái đang ngày càng phát triển và được
coi là một trong những biện pháp sử dụng rừng mà không cần khai thác nhưng đem lại giá trị kinh
tế cao và đầy tiềm năng.
Tuy nhiên, không phải ai cũng nhận thức được điều này bởi giá trị giải trí của rừng tự nhiên thường
bị ẩn sau nhiều giá trị trực tiếp khác. Do vậy nghiên cứu đánh giá giá trị cảnh quan du lịch của rừng
tự nhiên là điều cần thiết, đặc biệt là ở các nước đang phát triển, nơi rừng tự nhiên đang bị suy giảm
nghiêm trọng do chưa được đánh giá đúng mức. Kết quả nghiên cứu sẽ góp phần làm rõ hơn giá trị
của rừng trên khía cạnh cảnh quan du lịch làm cơ sở cho việc xây dựng các cơ chế quản lý sử dụng
rừng hợp lý đúng với giá trị mà nó mang lại.
2. Vật liệu và phương pháp nghiên cứu
Nghiên cứu được tiến hành tại Vườn quốc gia Ba Bể tỉnh Bắc Kạn và Hồ Thác Bà tỉnh Yên Bái
trong khoảng thời gian từ tháng 5 đến tháng 9/2005.
Phương pháp tiếp cận là phương pháp Chi phí du lịch theo vùng (Zonal Travel Cost Approach).
Bằng việc xây dựng đường cầu du lịch dựa trên hồi quy tương quan giữa lượng khách du lịch và các
mức chi phí khác nhau tại hai điểm nghiên cứu, giá trị cảnh quan của mỗi điểm sau đó sẽ được ước
lượng thông qua lợi ích về mặt kinh tế mà du khách nhận được khi tới thăm điểm du lịch (giá trị
thặng dư tiêu dùng). Giá trị thặng dư tiêu dùng chính là phần diện tích nằm dưới mỗi đường cầu du
lịch vừa được xây dựng.
Các thông tin phục vụ cho việc xây dựng đường cầu du lịch được thu thập qua phiếu điều tra. Mẫu
phiếu điều tra du khách được thiết kế để thu thập 4 nhóm thông tin chủ yếu: (i) nhóm thông tin về
1
Trung tâm Nghiên cứu sinh thái và Môi trường rừng – Viện KHLN Việt Nam; www.rcfee.org.vn
2
điều kiện kinh tế - xã hội; (ii) nhóm thông tin về chi phí du lịch; (iii) nhóm thông tin về chuyến đi
của du khách tới khu du lịch; và (iv) nhóm thông tin về mức sẵn lòng chi trả của du khách để bảo vệ
và duy trì cảnh quan thiên nhiên.
Trong phân tích thống kê, dung lượng phiếu phải đủ lớn để đảm bảo độ tin cậy.Thông thường, dung
lượng mẫu điều tra được xác định theo công thức sau đây:
2
2/2
0
2
αε
σ un ≥
Trong đó: n: Dung lượng mẫu (số lượng phiếu cần điều tra)
σ : Độ lệch chuẩn
ε : Độ sai số (thông thường từ 3 đến 6%)
α : Đô tin cậy (thường lấy các giá trị từ 0,9; 0,95 và 0,99)
Các thông số đã được áp dụng trong phạm vi của nghiên cứu bao gồm: ε = 5%,α = 0,9 (U 2/α =
1,96). Theo công thức chọn mẫu trên đây thì số lượng phiếu cần thiết đối với Vườn quốc gia Ba Bể
là 260 phiếu và đối với Hồ Thác Bà là 270 phiếu.
Phương pháp thu thập thông tin được tiến hành trên cơ sở mẫu phiếu điều tra lập sẵn theo 2 hình
thức: (i) gửi phiếu điều tra tới khách sạn và nhà nghỉ trong vùng để du khách tự điền; và (ii) phỏng
vấn trực tiếp du khách. Hình thức gửi phiếu chỉ mang tính tham khảo và các thông tin chủ yếu lấy
từ phiếu phỏng vấn trực tiếp.
3. Kết quả nghiên cứu và thảo luận
Nghiên cứu đã tiến hành thu thập thông tin theo 2 hình thức nêu trên và thu lại được 257 phiếu từ
Vườn Quốc gia Ba Bể và 250 phiếu từ hồ Thác Bà đủ chất lượng để sử dụng trong phân tích TCM.
Lượng phiếu thu lại chưa đạt đúng dung lượng mẫu đề ra nhưng đạt được tiêu chí trong phân tích
thống kê là sai số nhỏ hơn 6%. Hơn nữa lượng phiếu này đã cung cấp đủ những thông tin cơ bản
cho việc ước lượng, xây dựng đường cầu du lịch và phân tích mức sẵn lòng chi trả của du khách
cho “cảnh quan thiên nhiên” tại 2 điểm nghiên cứu. Dưới đây trình bày các kết quả nghiên cứu tại
vườn quốc gia Ba Bể và hồ Thác Bà.
• Các vùng du lịch cơ bản của vườn Quốc gia Ba Bể và hồ Thác Bà:
Vùng du lịch cơ bản được phân chia dựa trên sự tăng dần về khoảng cách từ những nơi có du khách
tới thăm điểm du lịch đến địa điểm du lịch. Thông thường các vùng cơ bản được chia theo đơn vị
hành chính trong đó có quan tâm đến các yếu tố như đường xá, thống kê dân số, vv.
Kết quả khảo sát cho thấy du khách tới Vườn quốc gia Ba Bể chủ yếu từ 36 tỉnh thành phố phía Bắc
và được chia thành 6 vùng như sau :
Bảng 1: Phân vùng du lịch vườn Quốc gia Ba Bể
Vùng Khoảng cách
(km)
Các tỉnh và thành phố thuộc vùng Dân số trưởng thành
của vùng (nghìn người)
1 < 67 Bắc Kạn, một số huyện của Thái Nguyên,
Cao Bằng, Tuyên Quang
455,9
2 67 -160 Các huyện còn lại của Thái Nguyên, Cao
Bằng, Tuyên Quang
1.447,3
3 160 – 230 Lạng Sơn, Bắc Ninh, Vĩnh Phúc, Yên Bái,
Hà Nội, Phú Thọ, Bắc Giang, Hà Tây
7.494,4
4 230 – 293 Hà Giang, Hải Dương, Hưng Yên, Hoà
Bình, Hà Nam, Quảng Ninh
3.829,2
5 293 – 364 Ninh Bình, Nam Định, Thái Bình, Hải
Phòng, Lào Cai, Thanh Hoá
1.055,2
6 > 364 Lai Châu, Nghệ An, Quảng Trị 2.441,3
3
So với vườn Quốc gia Ba Bể thì vùng du lịch của hồ Thác Bà hẹp hơn, du khách đến chủ yếu từ 16
tỉnh và thành phố phía Bắc và cũng được phân thành 5 vùng cơ bản sau đây:
Bảng 2: Phân vùng du lịch Hồ Thác Bà
Vùng Khoảng cách
(km)
Các tỉnh và thành phố thuộc vùng Dân số trưởng thành
của vùng (nghìn người)
1 < 50 Một số huyện tỉnh Yên Bái, Tuyên
Quang
480,5
2 50 -100 Các huyện còn lại của Yên Bái, Tuyên
Quang, tỉnh Phú Thọ
2.275,6
3 100 -150 Tỉnh Vĩnh Phúc, Bắc Ninh, Bắc Kạn 2.438,4
4 150 - 230 Tỉnh Sơn La, Hà Nội, Hà Tây, Cao
Bằng, Lào Cai, Ninh Bình
8.541,1
5 > 250 Hải Dương, Quảng Ninh, Nam Định 4.712,7
• Tỷ lệ lượt du khách (VR – Visitation Rate) :
Tỷ lệ du khách (VR) được tính bằng cách chia tổng số lượt du khách tới thăm điểm du lịch (hàng
năm) của mỗi vùng chia cho tổng dân số trưởng thành của các huyện (thuộc tỉnh) hoặc tỉnh nằm
trong cùng một vùng. Tỷ lệ lượt du khách tại hai điểm nghiên cứu nêu ở Bảng 3.
Bảng 3: Tỷ lệ du khách/nghìn người dân theo vùng tại các điểm nghiên cứu
Vườn quốc gia Ba Bể Hồ Thác Bà
Vùng Số lượng khách/năm
Tổng dân số
trưởng thành
(nghìn người)
Tỷ lệ lượt
du khách/
nghìn người
Số lượng
khách/năm
Tổng dân số
trưởng thành
(nghìn người)
Tỷ lệ lượt
du khách/
nghìn người
1 1.087 455,9 2,4 5.886 480,5 12,2
2 3.184 1.447,3 2,2 18.589 2.275,6 8,2
3 9.133 7.494,4 1,2 4.795 2.438,4 2,1
4 4.248 3.829,2 1,1 3.275 8.541,1 0,4
5 1.129 1.055,2 1,1 500 4.712,7 0,1
6 1.123 2.441,3 0,5
Kết quả phân tích cho thấy khoảng cách từ vùng du lịch tới điểm du lịch càng ngắn thì tỷ lệ dân cư
của vùng tới thăm điểm du lịch càng cao. Chẳng hạn, đối với Vườn quốc gia Ba Bể, tỷ lệ du khách
tới thăm điểm du lịch từ vùng 1 (cách điểm du lịch trên dưới 70 km) cao gấp 2,2 lần so với vùng 5
(cách điểm du lịch trên dưới 360 km) và gấp 5,2 lần so với vùng 6 (cách điểm du lịch trên 500 km).
Đặc biệt là ở Hồ Thác Bà, tỷ lệ du khách tới thăm điểm du lịch từ vùng 1 (cách điểm du lịch dưới
50 km) cao gấp 122,4 lần so với vùng 5 (cách điểm du lịch trên 250 km).
• Ước lượng chi phí du lịch (TC – Travel Costs):
Chi phí du lịch của du khách bao gồm chi phí đi lại, chi phí thời gian, chi phí khác (ăn, ở, vé vào
cửa,...). Cơ cấu chi phí của du khách tới du lịch tại vườn quốc gia Ba Bể và Thác Bà được tổng hợp
ở Bảng 4.
Chi phí đi lại: Chi phí cho việc đi lại của du khách phụ thuộc vào khoảng cách từ điểm xuất phát
của chuyến đi và phương tiện được sử dụng để đến khu du lịch và số du khách trong một đoàn. Kết
quả nghiên cứu cho thấy, chi phí đi lại vào khoảng 800 đồng/du khách/km.
Chi phí về thời gian: Trong nghiên cứu chi phí về thời gian được tiếp cận dựa trên ngày công lao
động trung bình. Theo số liệu thống kê năm 2004, thì mức lương của dân cư thành thị là 794.800
đồng/tháng hay 36.000 đồng/ngày công. Do phần lớn khách du lịch tới điểm du lịch là dân cư thành
4
thị nên việc dùng giá trị trên để gán cho chi phí thời gian là có thể chấp nhận được. Tại Vườn quốc
gia Ba Bể, các du khách đến từ vùng 1 và vùng 2 thường đi về trong ngày, các du khách đến từ
vùng 3, 4, 5 thường nghỉ lại từ 1 đến 2 ngày, còn các du khách đến từ vùng 6 thường nghỉ lại từ 2 -
3 ngày. Với khu du lịch hồ Thác Bà, du khách tới từ vùng 1 và vùng 2 cũng thường đi về trong
ngày, còn các du khách tới từ vùng khác thường chỉ ở lại từ 3 - 4 tiếng rồi tiếp tục tới các điểm du
lịch khác trong và ngoài thành phố.
Các chi phí khác: Các chi phí khác bao gồm phí vào cửa (vé), phí hướng dẫn tham quan du lịch, chi
phí ăn, ở, mua sắm đồ lưu niệm, vv.Tại Vườn quốc gia Ba Bể, mức phí vào cửa được áp dụng cho
người lớn là 11.000 đồng/người, trong khi đó du lịch hồ Thác Bà mới dừng ở mức tự phát nên du
khách tới tham quan không phải trả phí. Các du khách đến từ vùng 1 và vùng 2 của cả hai điểm
nghiên cứu thường thực hiện chuyến thăm quan trong ngày, do đó họ không mất nhiều chi phí cho
việc ăn ở tại điểm du lịch.Đối với du khách ở những vùng khác, chi phí ăn ở được tính dựa trên mức
giá dịch vụ trung bình của các nhà nghỉ và khách sạn trong vùng. Các phí khác như phí hướng dẫn
tham quan, mua sắm đồ lưu niệm hầu như không đáng kể do loại hình kinh doanh này tại vườn
Quốc gia Ba Bể và hồ Thác Bà đều chưa thực sự phát triển và chưa đáp ứng được nhu cầu của
khách.
Tổng chi phí du lịch: Tổng chi phí du lịch là toàn bộ chi phí cho cả chuyến du lịch của khách bao
gồm chi phí đi lại, chi phí sinh hoạt, ăn ở, chi phí mua sắm đồ lưu niệm, vv. Bảng 4 dưới đây thể
hiện mức chi phí du lịch trung bình của du khách tại các vùng khác nhau trong chuyến du lịch tới
vườn Quốc gia Ba bể và hồ Thác Bà.
Bảng 4: Chi phí du lịch theo vùng tại vườn Quốc gia Ba Bể và hồ Thác Bà
ĐVT: Đồng
Vườn quốc gia Ba Bể Hồ Thác Bà
Vùng Chi phí đi
lại
Chi phí thời
gian
Chi phí
khác
Tổng Chi phí
đi lại
Chi phí thời
gian
Tổng
1 52.300 36.000 0 88.300 90.000 36.000 126.000
2 124.800 36.000 30.000 190.800 120.000 36.000 156.000
3 179.400 72.000 151.000 402.400 167.000 18.000 185.000
4 228.540 72.000 151.000 451.540 179.400 18.000 197.400
5 230.000 72.000 151.000 453.000 195.000 18.000 213.000
6 250.000 108.000 261.000 619.000
Như vậy có thể thấy tổng chi phí du lịch của các du khách có sự khác biệt rõ rệt giữa các vùng và tỷ
lệ thuận với khoảng cách. Khoảng cách càng xa thì chi phí du lịch càng lớn. Tại Vườn quốc gia Ba
Bể, tổng chi phí trung bình cho một du khách đến từ vùng 6 là cao nhất, khoảng 619.000 đồng và
cao gấp gần 5 lần so với tổng chi phí cho một du khách đến từ vùng 1. Đối với hồ Thác Bà, tổng chi
phí trung bình cho một du khách đến từ vùng 5 là cao nhất, khoảng 213.000 đồng và cao hơn
khoảng 1,7 lần so với vùng 1.
Xét về cơ cấu chi phí cho thấy trong các chi phí cho chuyến du lịch của du khách thì chi phí đi lại
và chi khác (chủ yếu là ăn uống, ở) là 2 loại chi phí chiếm tỷ trọng lớn nhất, khoảng từ 60 – 84%
tổng chi phí với vườn quốc gia Ba Bể và từ 70 – 90% với hồ Thác Bà.
• Ước lượng giá trị cảnh quan tại vườn Quốc gia Ba Bể và hồ Thác Bà:
Để có thể xác định được giá trị cảnh quan du lịch thì phải thiết lập được mối tương quan giữa tỷ lệ
du khách và chi phí du lịch theo vùng và đường cầu du lịch.
5
Coi tỷ lệ du khách của mỗi vùng (VR) là biến độc lập và tổng chi phí trung bình cho cả chuyến đi
của du khách (TC) là biến phụ thuộc, nghiên cứu đã tiến hành phân tích hồi quy tương quan theo 2
dạng: hồi quy đường thẳng tuyến tính VR = a + b TC
và hồi quy loga thứ cấp lnVR= a + bTC.
Kết quả phân tích cho thấy:
- Phân tích hồi quy dạng đường thẳng tuyến tính có độ tin cậy cao hơn dạng loga thứ cấp.
- Hệ số tương quan thể hiện mối quan hệ chặt chẽ giữa Tổng chi phí du lịch và lượng du khách
tới điểm du lịch đồng thời phản ánh được độ tin cây cao trong phân tích hồi quy.
Dừa trên hàm hồi quy (dạng đường thẳng) thể hiện mối quan hệ giữa lượng khách du lịch và chi
phí du lịch theo vùng, nghiên cứu đã tiến hành xây dựng đường cầu về du lịch cho các điểm nghiên
cứu như ở Biểu đồ 1 và 2 dưới đây
Biểu đồ 1: Đường cầu du lịch của Vườn quốc gia Ba Bể
Biểu đồ 2: Đường cầu du lịch của Hồ Thác Bà
Trong phương pháp TCM, phần diện tích nằm phía dưới đường cầu được sử dụng để ước lượng giá
trị cảnh quan của điểm du lịch. Bằng cách nội suy kéo dài đường cầu du lịch để tìm ra các điểm cắt
của chúng với trục tung (trục tổng chi phí) và trục hoành (trục lượng khách) có thể dễ dàng tính
được diện tích các tam giác được tạo bởi đường cầu du lịch và các trục của đồ thị.
Y = -6.336 X + 204.577
R 2 = 0,9668
-
50.000
100.000
150.000
200.000
250.000
0 2 4 6 8 10 12 14
Lng khách du lch(nghìn ngi)(X)
,
Chi phí(Y)
Y = - 251.701 X + 756.560
R 2 = 0,9881
0
100.000
200.000
300.000
400.000
500.000
600.000
700.000
0 0,5 1 1,5 2 2,5
Lng khách (X), nghìn ngi
Chi phí (Y)
6
Trong nghiên cứu này kết quả tính toán xác định diện tích phần diện tích nằm bên dưới đường cầu
của vườn Quốc gia Ba Bể là 1.552.611.000 đơn vị và phần diện tích nằm bên dưới đường cầu của
hồ Thác Bà là 529.962.000 đơn vị.
Trong phương pháp tiếp cận chi phí du lịch theo vùng thì các diện tích tạo bởi đường cầu du lịch
với các trục của đồ thị chính là lợi ích của người tiêu dùng (khách du lịch). Và lợi ích của người tiêu
dùng được xem là giá trị về mặt cảnh quan của điểm du lịch. Như vậy có thể ước tính rằng: (i) giá
trị cảnh quan của vườn Quốc gia Ba Bể là 1.552.611.000 đồng/năm và (ii) giá trị cảnh quan của hồ
Thác Bà là 529.962.000 đồng/năm.
Kết quả này phản ánh khá sát về thực trạng du lịch tại các điểm nghiên cứu. Giá trị cảnh quan tại
vườn Quốc gia Ba Bể được theo tính toán là cao hơn khoảng 3 lần so vơi hồ Thác Bà. Điều này có
thể thấy rõ là do hoạt động du lịch sinh thái của vườn Quốc gia Ba Bể diễn ra sớm hơn, có quy mô
hơn và cơ sở vật chất cho du lịch cũng tốt hơn so với hồ Thác Bà. Bên cạnh đó, phần lớn du khách
khi được hỏi đều đánh giá cảnh quan thiên nhiên của vườn Quốc gia Ba Bể cao hơn hẳn so với cảnh
quan thiên nhiên của hồ Thác Bà.
• Mức sẵn lòng chi trả của du khách cho bảo vệ cảnh quan:
Các du khách phỏng vấn đều được hỏi về mức sẵn lòng (WTP) của họ cho việc chi trả để duy trì và
bảo vệ cảnh quan thiên nhiên theo năng lực kinh tế và thu nhập của họ. Tổng hợp kết quả đánh giá
mức sẵn lòng chi trả của du khách được nêu ở Bảng 5.
Bảng 5: Mức sẵn lòng chi trả (WTP) để bảo vệ cảnh quan tại VQG Ba Bể và hồ Thác Bà
Vườn quốc gia Ba Bể Hồ Thác Bà Mức sẵn lòng chi trả -
WTP
(đồng) Khách trong nước Khách quốc tế Khách trong nước
1.000 - 5.000 32 0 142
5.000 - 10.000 45 0 46
10.000 -15.000 45 5 36
> 15.0000 92 38 26
Tổng (người) 214 43 250
Mức trung bình WTP
(đồng/người)
21.300 89.300 8.644
Số liệu nghiên cứu cho thấy mức sẵn lòng trả trung bình để bảo vệ và duy trì cảnh quan thiên nhiên
ở vườn Quốc gia Ba Bể của du khách nước ngoài là 5,6 USD/người (khoảng 90.000 đồng/người)
cao hơn khoảng 4,2 lần so với mức sẵn lòng chi trả của du khách nội địa - khoảng 21.300
đồng/người. Với hồ Thác Bà, mức sẵn lòng chi trả trung bình của du khách nội địa là 8.600
đồng/người.
Mức sẵn lòng chi trả của du khách được coi là một sự “định giá” giá trị cảnh quan của điểm du lịch
theo ý kiến cá nhân của khách tham quan. Kết quả tổng hợp mức sẵn lòng chi trả của du khách như
sau:
Đối với Vườn quốc gia Ba Bể:
Mức sẵn lòng chi trả hàng năm của du khách nội địa là: 21.300*19.904 = 423.955.200 đồng
Mức sẵn lòng chi trả hàng năm của du khách nước ngoài là: 89.300*1.824 = 162.944.000 đồng
Đối với Hồ Thác Bà:
Mức sẵn lòng chi trả hàng năm của du khách là: 8.644*33.680 = 291.129.920 đồng
7
4. Kết luận
Vườn Quốc gia Ba Bể và hồ Thác Bà là những địa điểm du lịch hấp dẫn và có tầm quan trọng
quốc gia. Mỗi năm có hàng chục ngàn người tới những địa điểm này để được thưởng thức cảnh
quan thiên nhiên và tham gia vào các hoạt động vui chơi, giải trí. Một trong những yếu tố quan
trọng góp phần tạo nên giá trị giải trí độc đáo cho 2 điểm du lịch này chính là rừng tự nhiên,
cảnh quan thiên nhiên và là cơ sở quan trọng cho hoạt động của du lịch sinh thái.
Mỗi năm có khoảng 19.500 du khách tới thăm vườn Quốc gia Ba Bể và 33.500 du khách tới
thăm Hồ Thác Bà. Tỷ lệ du khách (VR) giảm khá mạnh theo khoảng cách từ các vùng tới điểm
du lịch đặc biệt là tại hồ Thác Bà.
Tổng giá trị cảnh quan của vườn Quốc gia Ba Bể được ước tính là 1.552.611.000 đồng/năm và
đối với hồ Thác Bà là 529.962.000 đồng/năm. Giá trị này không bao gồm giá trị mang lại cho
du khách nước ngoài (chiếm khoảng 10% tổng giá trị cảnh quan vườn quốc gia Ba Bể và 1 - 3%
tổng giá trị cảnh quan hồ Thác Bà).
Hầu hết du khách sẵn sàng chi trả cao hơn mức phí vào cửa hiện tại của các điểm du lịch để
được thưởng thức cảnh quan và góp phần cải tạo, duy trì và bảo vệ cảnh quan đó. Mức sẵn lòng
chi trả của du khách trong nước là 21.300 đồng/người, của du khách quốc tế là 89.300
đồng/người cho cảnh quan du lịch tại vườn Quốc gia Ba Bể. Mức sẵn lòng chi trả của du khách
cho Hồ Thác Bà thấp hơn, chỉ khoảng 8.600 đồng/người. Tổng mức sẵn lòng chi trả hàng năm
của du khách đối với cảnh quan vườn Quốc gia Ba Bể là 586.899.200 đồng và đối với hồ Thác
Bà 291.129.920 đồng.
Tài liệu tham khảo
Camille Bann and Bruce Aylward.The Economic Evaluation of Tropical Forest Land Use Options:
A Review of Methodology and Applications, iied, UK, 157 pages.
Cesario. 1976. ‘Value of Time in Recreation Benefit Studies,’ in Land Economics. 52: 32-41.
Herminia Francisco & David Glover. 1999. Economy and Environment “Case study in Viet Nam”.
Economy and Environment Program for South East Asia (EEPSEA), Roma Graphics, Inc. Phillippines.
Hanley, Nick and Clive Spash. 1995. Cost Benefit Analysis and the Environment. Edward Elgar
Publishing, England.
International Institute for Environment and Development (iied). 2003. Valuing forests: A review of
methods and applications in developing countries. iied, London, UK.
Case study of a travel cost analysis: A Michigan Angling Demand Model.
Tổng cục Thống kê. 2005. Số liệu thống kê dân số các tỉnh và thành phố trong cả nước năm 2005.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- khudulichhothacba_9591.pdf