KẾT LUẬN
1. Các mẫu đất trồng rau ở huyện Bình Chánh có hàm lượng As, Cd, Cr, Cu,
Ni, Pb, Zn nằm ở mức thấp hơn giới hạn cho phép. Hầu hết các mẫu nước có hàm
lượng As, Cd, Cr, Cu, Ni, Pb, Zn nằm ở mức thấp hơn giới hạn cho phép theo tiêu
chuẩn Việt Nam. Có một mẫu nước lấy ở ruộng rau rút có hàm lượng Cu vượt quá
tiêu chuẩn cho phép 1,064 lần. Hầu hết các mẫu rau có hàm lượng As, Cd, Cr, Cu,
Ni, Pb, Zn nằm ở mức thấp hơn giới hạn cho phép theo tiêu chuẩn Việt Nam, tuy
nhiên có một mẫu rau rút có hàm lượng Cu vượt quá tiêu chuẩn cho phép của Việt
Nam gấp 1,12 lần. Tất cả các mẫu rau rút có hàm lượng Ni đều vượt quá tiêu chuẩn
FAO/WHO từ 1,86-2,68 lần.
2. Có sự liên quan tương đối chặt chẽ giữa hàm lượng Cd, Cr và Ni trong đất,
nước với rau trồng: hầu hết các mẫu rau bị ô nhiễm Cd, Cr và Ni đều liên quan đến
nguồn đất trồng và nước tưới bị ô nhiễm nguyên tố này. Đối với As, Cu, Pb và Zn
hàm lượng các KLN này trong đất có quan hệ chặt chẽ với hàm lượng trong rau nhưng
sự hiện diện của chúng trong nước không có tương quan với hàm lượng trong rau.
11 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Lượt xem: 6 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đánh giá hàm lượng kim loại nặng trên một số loại rau ở khu vực huyện Bình Chánh, thành phố Hồ Chí Minh, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nghiên cứu khoa học công nghệ
Tạp chí Khoa học và Công nghệ nhiệt đới, Số 16, 10 - 2018 84
ĐÁNH GIÁ HÀM LƯỢNG KIM LOẠI NẶNG TRÊN MỘT SỐ
LOẠI RAU Ở KHU VỰC HUYỆN BÌNH CHÁNH,
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
ĐỖ THỊ TUYẾT NHUNG, NGÔ HỮU THẮNG, MAI QUANG TUYẾN
1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Thực trạng ô nhiễm môi trường hiện nay, trong đó có ô nhiễm kim loại nặng
(KLN), đã và đang gây ảnh hưởng đến chất lượng nguồn lương thực, thực phẩm và
là một trong những mối quan tâm của các nhà khoa học do mức độ ảnh hưởng của
chúng đến sức khỏe cộng đồng. Môi trường canh tác bị ô nhiễm KLN sẽ dẫn đến
nguy cơ các KLN này tích lũy trong các loại nông sản làm giảm chất lượng sản
phẩm, đặc biệt là các loại rau xanh.
Bình Chánh là một huyện của thành phố Hồ Chí Minh (TP HCM) với 15 xã
được thành phố lựa chọn, đầu tư để quy hoạch thành vùng chuyên canh rau an toàn
với tổng diện tích cho sản xuất rau là 544 ha [1] và những năm gần đây đã cho năng
suất, sản lượng rau lớn trong toàn vùng, một lượng lớn hàng ngày còn được cung
cấp cho vùng nội thành TP HCM và các vùng lân cận. Bên cạnh đó, Bình Chánh còn
được quy hoạch là khu vực công nghiệp. Nhóm tác giả đã khảo sát hàm lượng KLN
trong rau xanh và trong đất trồng, nước tưới ở khu vực huyện Bình Chánh để đánh
giá mức độ ô nhiễm KLN và bước đầu xác định nguyên nhân gây tích lũy KLN
trong rau xanh. Từ đó, đưa ra những kiến nghị và giải pháp hợp lý nhằm giảm sự
tích lũy KLN trong rau, để có những sản phẩm rau an toàn cung cấp cho người tiêu
dùng, góp phần hạn chế ảnh hưởng của các KLN này đến sức khỏe con người.
2. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu là đất trồng rau, nước tưới và một số loại rau ở các hộ
gia đình trồng rau nhỏ lẻ (không tham gia chương trình trồng rau an toàn) tại các xã
trồng rau thuộc huyện Bình Chánh, thành phố Hồ Chí Minh theo 2 mùa (mùa khô và
mùa mưa):
- Rau cải xanh (Brassica Juncea L.);
- Rau muống (Ipomoea aquatica);
- Rau rút (Neptunia oleracea).
2.2. Phương pháp lấy mẫu đất, mẫu nước, mẫu rau
Phương pháp lấy mẫu đất, nước và rau ngoài thực tế: Được lấy theo từng cặp
đất - nước - rau, lấy vào thời điểm thu hoạch rau theo 2 mùa trong năm: mùa khô và
mùa mưa đều trên cùng một vị trí.
- Mẫu rau: Mỗi mẫu rau hỗn hợp (0,5-1 kg) được lấy từ 5 điểm khác nhau trên
một ruộng rồi gộp lại. Lấy mẫu phần ăn được của các loại rau nghiên cứu [2, 3].
Nghiên cứu khoa học công nghệ
Tạp chí Khoa học và Công nghệ nhiệt đới, Số 16, 10 - 2018 85
- Mẫu đất: Lấy theo vị trí lấy mẫu rau, phương pháp lấy mẫu hỗn hợp - mỗi
mẫu đất hỗn hợp được lấy từ 5 điểm tại một ruộng trồng rau. Lấy đất ở tầng canh tác
(0-20 cm), khối lượng 1-2 kg đất/mẫu [4].
- Mẫu nước: Các mẫu nước được lấy trong các kênh tưới tiêu, bể chứa nước ở
ngay sát các vị trí lấy mẫu đất, theo tiêu chuẩn [5].
Địa điểm lấy, kí hiệu và số lượng mẫu được trình bày trong bảng dưới đây.
Bảng 1. Địa điểm, kí hiệu và số lượng mẫu thu thập
Địa điểm Kí hiệu mẫu Đất Nước Rau
Xã Tân Quý Tây ĐRC 1,2,3 - NRC 1+2 (giếng khoan)- NRC 3 (kênh) RRC 1,2,3
Xã Quy Đức ĐRC 4,5,6 - NRC 4 (giếng khoan) - NRC 5,6 (kênh) RRC 4,5,6
Xã Vĩnh Lộc A ĐRC 7,8,9 NRC 7,8,9 (kênh) RRC 7,8,9
Xã Lê Minh Xuân ĐRC 10, 11,12 NRC 10,11,12 (kênh) RRC 10,11,12
Xã Vĩnh Lộc B ĐRM 1,2,3 NRM 1,2,3 RRM 1,2,3
Xã Bình Hưng ĐRR 1,2,3 NRR 1,2,3 RRR 1,2,3
Số lượng mẫu
(mùa mưa + mùa khô) 36 34 36
2.3. Phương pháp nghiên cứu trong phòng thí nghiệm
Các loại mẫu sau khi lấy về phòng thí nghiệm được xử lý và xác định hàm
lượng KLN dạng tổng số (As, Cd, Cr, Cu, Ni, Pb, Zn) trên máy AAS - Thermo
Scientific iCE-3500 (Mỹ).
Bên cạnh đó, gửi 3 mẫu rau là RRC7, RRM3, RRR2 đến Phòng thí nghiệm
thuộc Trung tâm Công nghệ Môi trường tại TP HCM/ Viện Công nghệ Môi trường/
Viện Hàn lâm Khoa học Việt Nam để kiểm tra chéo xác định độ chính xác của kết
quả phân tích.
2.4. Đánh giá mức độ ô nhiễm
- Để đánh giá mức độ ô nhiễm cho từng đối tượng (đất, nước, rau), nghiên cứu
sử dụng Quy chuẩn Việt Nam, quy định của Bộ Y tế. Tuy nhiên những tiêu chuẩn
mà Việt Nam chưa quy định, thì dựa trên tiêu chuẩn của FAO, của châu Âu để xác
định tiêu chuẩn đánh giá. Dựa trên việc đối chiếu kết quả phân tích với tiêu chuẩn,
mức độ ô nhiễm KLN trong các đối tượng (nước, đất, rau) được chia thành 2 mức: ô
nhiễm (khi kết quả phân tích bằng hay vượt ngưỡng quy định); chưa bị ô nhiễm (khi
kết quả phân tích thấp hơn ngưỡng quy định).
Nghiên cứu khoa học công nghệ
Tạp chí Khoa học và Công nghệ nhiệt đới, Số 16, 10 - 2018 86
Bảng 2. Ngưỡng ô nhiễm KLN của rau [6]
Nguyên tố As Cd Cr Cu Ni Pb Zn
Rau họ cải
Rau ăn
lá
Rau ăn
thân Rau họ cải
Rau ăn
lá
QCVN 8-
2:2011/BYT 0,05 0,2 0,1 0,3 0,3
46/2007/QĐ-
BYT 1,0 30 40
FAO/WHO
2001 2,3
FAO/WHO
2007 1,5
- Để đánh giá mối tương quan giữa hàm lượng KLN trong đất, nước với hàm
lượng KLN trong rau sử dụng phương pháp phân tích tương quan bằng việc tính
toán hệ số tương quan Pearson. Kết quả chạy hàm thực hiện trên phần mềm SPSS
11.0, phương pháp phân tích phương sai 2 yếu tố, kiểm định ở mức có nghĩa 0,05.
3. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN
3.1. Hàm lượng KLN trong các mẫu đất, nước và rau
Giá trị trung bình hàm lượng KLN trong rau cải xanh, rau muống, rau rút và
trong đất trồng, nước tưới rau được trình bày tương ứng ở các bảng 3, bảng 4 và
bảng 5. Tất cả các mẫu đất, nước và rau đều bị nhiễm các KLN As, Cd, Cu, Cr, Ni,
Pb, Zn. Tuy nhiên, mức độ nhiễm có khác nhau tùy thuộc vào loại KLN, loại rau và
theo mùa. Mức độ ô nhiễm KLN vào mùa khô cao hơn hẳn so với mùa mưa ở tất cả
các mẫu đất, nước, rau.
Vào mùa khô, khi lượng mưa khá ít và không có sự pha loãng của nước mưa
thì hàm lượng các KLN trong nước cao hơn. Vào mùa mưa, nước kênh rạch được
pha loãng bởi nước mưa kết hợp với quá trình tự làm sạch nên hàm lượng các KLN
khá thấp. Chứng tỏ hàm lượng KLN có trong nước kênh rạch thay đổi theo các mùa
trong năm do sự thay đổi của nguồn thải và lượng mưa. Hàm lượng KLN trong nước
(tính bằng mg/l) vào mùa khô của As (0,007-0,053), Cd (0,0005-0,007), Cr (0,011-
0,033), Cu (0,031-0,532), Ni (0,004-0,012), Pb (0,008-0,030), Zn (0,036-0,350) và
mùa mưa As (0,005-0,026), Cd (0,0003-0,003), Cr (0,006-0,013), Cu (0,022-0,176),
Ni (0,002-0,006), Pb (0,006-0,014), Zn (0,022-0,163). Đa số các mẫu nước đều nằm
trong phạm vi giới hạn cho phép trong cả mùa mưa lẫn mùa khô và ở tất cả các địa
điểm nghiên cứu. Riêng mẫu nước lấy ở ruộng rau rút vào mùa khô có hàm lượng
Cu vượt quá tiêu chuẩn cho phép 1,064 lần do ảnh hưởng của nước thải đô thị và
công nghiệp. Nồng độ KLN trong nước tưới rau cải xanh Zn> Cu> Ni> Pb> As>
Cr> Cd, rau muống theo thứ tự là Zn> Cu> Ni> Cr> Pb> As> Cd, trong nước tưới
rau rút là Cu> Zn> Ni> As> Cr> Pb> Cd.
Nghiên cứu khoa học công nghệ
Tạp chí Khoa học và Công nghệ nhiệt đới, Số 16, 10 - 2018 87
Vào mùa mưa, hàm lượng KLN trong các mẫu đất cũng thấp hơn so với mùa
khô. Đối với những vùng có lượng mưa trên 1.000 mm/năm có liên quan đến sự suy
giảm hàm lượng các KLN trong đất tùy từng loại KLN [7]. Lượng mưa trung bình
trong khu vực nghiên cứu là khoảng 1.300-1.770 mm. Lượng mưa cao tập trung chủ
yếu vào một mùa trong năm gây ra hiện tượng xói mòn đất, nước mưa rơi xuống làm
di chuyển các hạt đất, nước mưa chảy tràn kéo theo các hạt đất theo đường di
chuyển của dòng chảy và lắng đọng chúng ở một nơi khác. Ngoài ra, vào mùa mưa
do đất ẩm ướt, việc sử dụng nước tưới từ các kênh rạch cũng ít hơn nên hạn chế
được nguồn ô nhiễm KLN từ nước tưới kênh rạch vào đất.Vào mùa khô còn có sự
bốc hơi mạnh hơn làm cho dung dịch đất bị cô đặc lại còn vào mùa mưa, lượng nước
mưa làm pha loãng dung dịch đất [8]. Chính vì vậy, hàm lượng KLN trong đất vào
mùa khô luôn cao hơn mùa mưa. Hàm lượng KLN trong đất (tính bằng mg/kg) vào
mùa khô của As (4,73-13,4), Cd (0,081-0,222), Cr (17,7-80,6), Cu (19,6-92,3), Ni
(18,8-56,5), Pb (13,7-41,2), Zn (33,9-95,3) và mùa mưa As (3,13-9,87), Cd (0,049-
0,163), Cr (13,7-60,9), Cu (12,7-68,6), Ni (11,2-37,3), Pb (8,86-30,4), Zn (24,6-
68,7) đều nằm trong phạm vi giới hạn cho phép trong cả mùa mưa lẫn mùa khô và ở
tất cả các địa điểm nghiên cứu. Nồng độ KLN trong đất trồng rau cải xanh theo thứ
tự là Zn> Cr> Cu> Ni> Pb> As> Cd, trong đất trồng rau muống là Cr> Zn> Cu>
Ni> Pb> As> Cd và trong đất trồng rau rút là Zn> Cu> Cr> Ni> Pb> As> Cd.
Tương tự như vậy, vào mùa mưa, hàm lượng KLN trong các mẫu rau cũng có
xu hướng giảm so với mùa khô do hàm lượng KLN trong đất trồng và nước tưới đều
giảm. Ngoài ra, nước mưa cũng làm rửa trôi một phần thuốc bảo vệ thực vật, phân
bón hóa học bám trên bề mặt lá rau. Các thuốc bảo vệ thực vật và phân bón thường
chứa nhiều kim loại nặng như: As, Pb, Zn, Cu, Mn [9]. Các nghiên cứu khác cũng
cho rằng sự hấp thu kim loại của thực vật tỷ lệ thuận với nồng độ của chúng trong
đất và nước [10].
Kết quả phân tích cho thấy hàm lượng các KLN trong đa số mẫu vẫn nằm
trong giới hạn an toàn cho phép của Việt Nam nhưng một mẫu rau rút có hàm lượng
Cu vượt quá tiêu chuẩn cho phép của Việt Nam gấp 1,12 lần, tất cả các mẫu rau rút
có hàm lượng Ni đều vượt quá tiêu chuẩn FAO/WHO. So với nghiên cứu [11], hàm
lượng KLN trong rau cải xanh ở xã Quy Đức đối với Cu, Zn, Cd, As tương ứng là
0,19; 3,79; 0,0049 và 0,0075 mg/kg đã tăng lên khá nhiều. Điều này chứng tỏ mức
độ ô nhiễm KLN trong rau đã tăng lên có thể là do tưới bằng nước ô nhiễm chất thải
công nghiệp và đô thị cùng quá trình thâm canh tăng vụ liên tục có sử dụng nhiều
phân bón hóa học.
Trong số ba loại rau được phân tích, rau rút ghi nhận mức hàm lượng KLN cao
nhất, tiếp theo là rau muống và thấp nhất là rau cải xanh. Xu hướng chung cho các
mức trung bình KLN được phân tích trong các mẫu rau cải xanh cho cả mùa khô và
mùa mưa cho thấy: Zn> Cu> Ni> As> Pb> Cr> Cd, đối với rau muống thứ tự sẽ là:
Zn> Cu> Cr> Ni> As> Pb> Cd và rau rút là Zn> Cu> Ni> Cr> As> Pb> Cd.
Nghiên cứu khoa học công nghệ
Tạp chí Khoa học và Công nghệ nhiệt đới, Số 16, 10 - 2018 88
Bảng 3. Hàm lượng kim loại nặng trong rau [12, 13]
Loại rau
As (mg/kg
rau tươi)
Cd (mg/kg
rau tươi)
Cr (mg/kg
rau tươi)
Cu (mg/kg
rau tươi)
Ni (mg/kg
rau tươi)
Pb (mg/kg
rau tươi)
Zn (mg/kg
rau tươi)
Mùa
khô
Mùa
mưa
Mùa
khô
Mùa
mưa
Mùa
khô
Mùa
mưa
Mùa
khô
Mùa
mưa
Mùa
khô
Mùa
mưa
Mùa
khô
Mùa
mưa
Mùa
khô
Mùa
mưa
Rau
Cải
xanh
(n=12)
Trung
bình
0,249±
0,094
0,204±
0,074
0,010±
0,004
0,007±
0,002
0,098±
0,028
0,064±
0,027
2,916±
0,578
2,448±
0,485
0,526±
0,166
0,394±
0,061
0,103±
0,044
0,084±
0,063
10,199±
2,518
7,758±
2,052
Nhỏ
nhất 0,097 0,086 0,002 KPH 0,058 0,027 1,98 1,54 0,045 0,025 0,052 0,032 6,86 5,12
Lớn
nhất 0,381 0,305 0,017 0,011 0,153 0,104 3,79 3,07 1,33 1,02 0,204 0,166 14,7 11,3
Rau
Muống
(n=3)
Trung
bình
0,443±
0,062
0,353±
0,055
0,047±
0,008
0,033±
0,005
0,671±
0,066
0,523±
0,065
6,330±
0,431
5,390±
0,338
0,541±
0,056
0,301±
0,053
0,170±
0,028
0,103±
0,011
19,53±
1,250
13,43±
1,474
Nhỏ
nhất 0,394 0,305 0,039 0,028 0,614 0,456 6,01 5,18 0,492 0,258 0,151 0,097 18,3 12,3
Lớn
nhất 0,512 0,411 0,055 0,039 0,742 0,592 6,82 5,78 0,597 0,362 0,203 0,115 20,8 15,1
Rau
Rút
(n=3)
Trung
bình
0,643±
0,107
0,493±
0,087
0,067±
0,008
0,050±
0,010
0,936±
0,500
0,623±
0,366
17,86±
13,633
8,527±
1,368
3,917±
0,091
2,867±
0,080
0,223±
0,028
0,162±
0,023
32,27±
0,802
22,37±
0,833
Nhỏ
nhất 0,550 0,424 0,059 0,038 0,911 0,568 9,78 7,11 3,85 2,79 0,198 0,138 32,5 21,7
Lớn
nhất 0,764 0,593 0,075 0,057 0,953 0,657 33,6 9,84 4,02 2,95 0,253 0,184 34,1 23,3
Tiêu chuẩn
Việt Nam 1,0 0,05 - 0,2 30 0,3 40
FAO/WHO 0,2 0,02 2,3 5 1,5 0,5 10
Nghiên cứu khoa học công nghệ
Tạp chí Khoa học và Công nghệ nhiệt đới, Số 16, 10 - 2018 89
Bảng 4. Hàm lượng kim loại nặng trong đất [14]
Loại rau
As
(mg/kg đất khô)
Cd
(mg/kg đất khô)
Cr
(mg/kg đất khô)
Cu
(mg/kg đất khô)
Ni
(mg/kg đất khô)
Pb
(mg/kg đất khô)
Zn
(mg/kg đất khô)
Mùa
khô
Mùa
mưa
Mùa
khô
Mùa
mưa
Mùa
khô
Mùa
mưa
Mùa
khô
Mùa
mưa
Mùa
khô
Mùa
mưa
Mùa
khô
Mùa
mưa
Mùa
khô
Mùa
mưa
Rau
Cải
xanh
(n=12)
Trung
bình
6,24±
0,90
5,00±
0,85
0,107±
0,013
0,067±
0,010
30,43±
7,20
25,50±
6,79
29,90±
6,73
24,37±
6,05
24,22±
4,10
19,78±
3,99
15,98±
1,46
12,57±
1,60
40,96±
5,68
30,75±
4,91
Nhỏ
nhất 4,73 3,13 0,081 0,049 17,7 13,7 19,6 12,7 18,8 14,3 13,7 9,70 33,9 24,6
Lớn
nhất 7,65 5,92 0,127 0,083 40,1 35,5 41,2 33,9 30,5 25,5 18,5 14,8 52,6 41,2
Rau
Muống
(n=3)
Trung
bình
7,70±
0,79
5,54±
0,75
0,093±
0,010
0,070±
0,008
62,37±
4,40
45,23±
3,86
38,27±
1,84
23,97±
2,30
23,87±
5,06
13,77±
3,54
20,37±
2,90
12,42±
3,47
48,33±
6,02
34,97±
5,35
Nhỏ
nhất 6,79 4,68 0,085 0,061 57,9 41,2 36,7 21,7 20,7 11,2 17,4 8,86 42,6 30,5
Lớn
nhất 8,23 6,03 0,105 0,078 66,7 48,9 40,3 26,3 29,7 17,8 23,2 15,8 54,6 40,9
Rau
Rút
(n=3)
Trung
bình
11,25±
1,89
7,87±
1,76
0,175±
0,045
0,125±
0,035
77,87±
2,47
57,07±
3,37
84,83±
9,98
62,60±
7,86
50,07±
5,84
32,10±
5,36
40,33±
1,25
28,90±
1,50
88,33±
6,44
61,23±
6,80
Nhỏ
nhất 9,84 6,53 0,132 0,091 75,8 54,6 73,5 53,7 45,1 26,6 38,9 27,4 82,6 55,4
Lớn
nhất 13,4 9,87 0,222 0,163 80,6 60,9 92,3 68,6 56,5 37,3 41,2 30,4 95,3 68,7
QCVN 03-
MT:2015/
BTNMT
15 1,5 150 100 75 * 70 200
* : Theo tiêu chuẩn European Union, 2002
Nghiên cứu khoa học công nghệ
Tạp chí Khoa học và Công nghệ nhiệt đới, Số 16, 10 - 2018 90
Bảng 5. Hàm lượng kim loại nặng trong nước [15]
Loại rau
As (mg/l) Cd (mg/l) Cr (mg/l) Cu (mg/l) Ni (mg/l) Pb (mg/l) Zn (mg/l)
Mùa
khô
Mùa
mưa
Mùa
khô
Mùa
mưa
Mùa
khô
Mùa
mưa
Mùa
khô
Mùa
mưa
Mùa
khô
Mùa
mưa
Mùa
khô
Mùa
mưa
Mùa
khô
Mùa
mưa
Rau
Cải
xanh
(n=12)
Trung
bình
0,018±
0,007
0,008±
0,003
0,0028±
0,0026
0,0011±
0,0010
0,017±
0,014
0,007±
0,004
0,142±
0,082
0,047±
0,016
0,042±
0,024
0,021±
0,012
0,022±
0,007
0,010±
0,003
0,210±
0,106
0,088±
0,040
Nhỏ
nhất 0,007 0,005 0,0005 0,0003 0,011 0,006 0,031 0,022 0,041 0,018 0,008 0,006 0,036 0,022
Lớn
nhất 0,027 0,011 0,007 0,0005 0,033 0,013 0,283 0,073 0,073 0,041 0,030 0,013 0,350 0,122
Rau
Muống
(n=3)
Trung
bình
0,015±
0,002
0,008±
0,002
0,0053±
0,0015
0,0023±
0,0006
0,017±
0,002
0,008±
0,001
0,127±
0,014
0,049±
0,004
0,051±
0,005
0,025±
0,004
0,017±
0,006
0,008±
0,002
0,289±
0,104
0,150±
0,062
Nhỏ
nhất 0,014 0,006 0,004 0,002 0,015 0,008 0,117 0,045 0,044 0,022 0,016 0,008 0,252 0,137
Lớn
nhất 0,017 0,009 0,007 0,003 0,019 0,009 0,143 0,053 0,054 0,029 0,019 0,009 0,324 0,163
Rau
Rút
(n=3)
Trung
bình
0,042±
0,004
0,023±
0,003
0,0053±
0,0015
0,0023±
0,0006
0,019±
0,002
0,008±
0,003
0,288±
0,215
0,100±
0,066
0,091±
0,009
0,054±
0,006
0,019±
0,007
0,010±
0,003
0,193±
0,039
0,082±
0,006
Nhỏ
nhất 0,038 0,020 0,004 0,002 0,017 0,007 0,128 0,052 0,086 0,044 0,012 0,008 0,150 0,075
Lớn
nhất 0,045 0,026 0,007 0,003 0,021 0,010 0,532 0,176 0,095 0,064 0,025 0,014 0,225 0,087
QCVN
39:2011/BTN
MT
0,05 0,01 0,1 0,5 0,1* 0,05 2,0
* : Theo [16] cột B1
Nghiên cứu khoa học công nghệ
Tạp chí Khoa học và Công nghệ nhiệt đới, Số 16, 10 - 2018 91
3.2. Hệ số tương quan giữa hàm lượng KLN trong đất và nước với hàm
lượng KLN trong rau
Hệ số tương quan (r) giữa hàm lượng KLN trong đất và nước với hàm lượng
KLN tích lũy trong các loài rau được tính toán và thể hiện ở bảng 6. Hệ số tương
quan lấy giá trị trong khoảng từ -1 đến 1 (-1 ≤ r ≤ 1). Khi hệ số r càng tiến gần tới 0
thì quan hệ càng lỏng lẻo, ngược lại khi r càng gần 1 hoặc -1 thì quan hệ càng chặt
chẽ (r > 0 có quan hệ thuận và r < 0 có quan hệ nghịch). Trường hợp r = 0 thì giữa
hàm lượng KLN trong đất và nước với hàm lượng KLN trong rau không có quan hệ.
Bảng 6. Phân tích tương quan hàm lượng KLN trong đất và nước với hàm lượng
KLN trong rau
STT Nguyên tố
Hệ số tương quan giữa lượng
KLN trong đất và trong rau
Hệ số tương quan giữa
lượng KLN trong nước và
trong rau
Mùa khô Mùa mưa Mùa khô Mùa mưa
1 As 0,934** 0,805** 0,298ns 0,404ns
2 Cd 0,519* 0,579* 0,474* 0,556*
3 Cr 0,799** 0,769** 0,559* 0,534*
4 Cu 0,788** 0,800** 0,218ns 0,215ns
5 Ni 0,918** 0,795** 0,482* 0,538*
6 Pb 0,796** 0,681** 0,351ns 0,294ns
7 Zn 0,940** 0,924** 0,266ns 0,271ns
Ghi chú: ** Tương quan có ý nghĩa ở mức 99%
* Tương quan có ý nghĩa ở mức 95%
ns: không có ý nghĩa thống kê
Từ kết quả tính toán hệ số tương quan cho thấy, mối quan hệ giữa hàm lượng
KLN trong đất và trong nước với hàm lượng KLN trong rau có mối quan hệ thuận.
Các KLN khác nhau có hệ số tương quan giữa hàm lượng KLN trong đất và trong
nước với hàm lượng KLN trong rau khác nhau, dao động từ 0,519 đến 0,940 đối với
đất vào mùa khô và từ 0,597 đến 0,924 đối với đất vào mùa mưa; từ 0,218 đến 0,559
đối với nước vào mùa khô và từ 0,215 đến 0,538 đối với nước vào mùa mưa. Hàm
lượng KLN trong đất với hàm lượng KLN trong rau có tương quan khá chặt chẽ và
chặt chẽ hơn giữa hàm lượng KLN trong nước với hàm lượng KLN trong rau. Đối
với Cd, Cr và Ni, hàm lượng các KLN này trong đất, nước có tương quan với sự có
mặt của chúng trong rau và ảnh hưởng mạnh đến hàm lượng KLN trong rau. Tuy
nhiên, trong các yếu tố ảnh hưởng đến lượng tồn dư Cd, Cr và Ni trong rau, lượng
Cd, Cr và Ni trong đất có ảnh hưởng lớn nhất. Lượng Cd, Cr và Ni có trong nước
tưới có phần ít tương quan hơn.
Đối với As, Cu, Pb và Zn, hàm lượng các KLN này trong đất có quan hệ chặt
chẽ với hàm lượng trong rau nhưng sự hiện diện của chúng trong nước không có
tương quan với hàm lượng trong rau.
Nghiên cứu khoa học công nghệ
Tạp chí Khoa học và Công nghệ nhiệt đới, Số 16, 10 - 2018 92
3.3. Đánh giá độ tin cậy của kết quả phân tích
Đánh giá độ tin cậy của kết quả phân tích mẫu của đề tài dựa trên việc đánh
giá RPD giữa kết quả phân tích mẫu của đề tài và kết quả phân tích mẫu đối chứng
với phòng thí nghiệm thuộc Trung tâm Công nghệ Môi trường tại TP HCM - Viện
Công nghệ Môi trường - Viện Hàn lâm Khoa học Việt Nam, giới hạn RPD không
được vượt quá 20%.
RPD = |LD1 − LD2|ሾ(LD1 + LD2)/ 2ሿ × 100 (%)
Trong đó:
RPD - phần trăm sai khác tương đối của mẫu lặp;
LD1 - kết quả phân tích mẫu của đề tài;
LD2 - kết quả phân tích mẫu đối chứng.
Bảng 7. Giá trị RPD tính toán
Loại rau
RPD (%)
As Cd Cr Cu Ni Pb Zn
Rau cải xanh 6,27 16,22 1,24 2,85 5,88 7,49 8,37
Rau muống 6,65 2,53 13,09 3,13 15,88 7,56 4,47
Rau rút 7,02 6,90 5,76 4,10 5,33 4,90 2,67
Từ kết quả bảng 7 cho thấy, hai kết quả phân tích mẫu có độ chụm đạt yêu
cầu. Như vậy, kết quả phân tích mẫu của đề tài là chính xác và có thể tin cậy được.
4. KẾT LUẬN
1. Các mẫu đất trồng rau ở huyện Bình Chánh có hàm lượng As, Cd, Cr, Cu,
Ni, Pb, Zn nằm ở mức thấp hơn giới hạn cho phép. Hầu hết các mẫu nước có hàm
lượng As, Cd, Cr, Cu, Ni, Pb, Zn nằm ở mức thấp hơn giới hạn cho phép theo tiêu
chuẩn Việt Nam. Có một mẫu nước lấy ở ruộng rau rút có hàm lượng Cu vượt quá
tiêu chuẩn cho phép 1,064 lần. Hầu hết các mẫu rau có hàm lượng As, Cd, Cr, Cu,
Ni, Pb, Zn nằm ở mức thấp hơn giới hạn cho phép theo tiêu chuẩn Việt Nam, tuy
nhiên có một mẫu rau rút có hàm lượng Cu vượt quá tiêu chuẩn cho phép của Việt
Nam gấp 1,12 lần. Tất cả các mẫu rau rút có hàm lượng Ni đều vượt quá tiêu chuẩn
FAO/WHO từ 1,86-2,68 lần.
2. Có sự liên quan tương đối chặt chẽ giữa hàm lượng Cd, Cr và Ni trong đất,
nước với rau trồng: hầu hết các mẫu rau bị ô nhiễm Cd, Cr và Ni đều liên quan đến
nguồn đất trồng và nước tưới bị ô nhiễm nguyên tố này. Đối với As, Cu, Pb và Zn
hàm lượng các KLN này trong đất có quan hệ chặt chẽ với hàm lượng trong rau nhưng
sự hiện diện của chúng trong nước không có tương quan với hàm lượng trong rau.
Nghiên cứu khoa học công nghệ
Tạp chí Khoa học và Công nghệ nhiệt đới, Số 16, 10 - 2018 93
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Sở Nông Nghiệp và Phát triển nông thôn TP HCM, Quy hoạch vùng sản xuất
rau an toàn trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh đến năm 2020 và định hướng
đến năm 2025, 2015.
2. TCVN 9016 : 2011, Phương pháp lấy mẫu rau.
3. TCVN 8551 : 2010, Phương pháp bảo quản và xử lý mẫu rau.
4. TCVN 7538 2 : 2005, Phương pháp lấy và xử lý mẫu đất.
5. TCVN 6663 : 2011, Phương pháp lấy mẫu nước.
6. Quyết định 46/2007/QĐ-BYT, Về việc ban hành “Quy định giới hạn tối đa ô
nhiễm sinh học và hóa học trong thực phẩm”.
7. Teutsch N., Erel Y., Halicz L. and Chadwick O.A., The Influence of Rainfall
on Metal Concentration and Behavior in the Soil, Geochimica et
Cosmochimica Acta, 1999, 63:3499-3511.
8. Yahaya M.I., Mohammad S., Abdullahi B. K., Seasonal Variations of Heavy
Metals Concentration in Abattoir Dumping Site Soil in Nigeria, J. Appl. Sci.
Environ. Manage, 2009, 13(4):9-13.
9. Lê Văn Khoa, Trần Khắc Hiệp, Trịnh Thị Thanh, Hoá học nông nghiệp, Nxb.
Đại học Quốc gia Hà Nội, 1996.
10. Sharma R.K., Agrawal M., Marshall F., Heavy Metals Contamination in
Vegetables grown in wastewater irrigated areas of Varanasi, India, Bull.
Environ. Contam. Toxicol., 2006, 77:312-318.
11. Nguyễn Thị Ngọc Ẩn, Dương Thị Bích Huệ, Hiện trạng ô nhiễm kim loại
nặng trong rau xanh ở ngoại ô Thành phố Hồ Chí Minh, Tạp chí Phát triển
Khoa học và Công nghệ, 2007, 10(1):41-46.
12. QCVN 8-2:2011/BYT, Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia đối với giới hạn ô nhiễm
kim loại nặng trong thực phẩm.
13. FAO/WHO, Codex Alimentarius, 1993, Vol. 2.
14. QCVN 03-MT:2015/BTNMT, Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về giới hạn cho
phép của một số kim loại nặng trong đất.
15. QCVN 39:2011/BTNMT, Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về chất lượng nước
dùng cho tưới tiêu.
16. QCVN 08-MT:2015/BTNMT, Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về chất lượng
nước mặt.
Nghiên cứu khoa học công nghệ
Tạp chí Khoa học và Công nghệ nhiệt đới, Số 16, 10 - 2018 94
SUMMARY
ASSESSMENT OF HEAVY METALS CONCENTRATION IN SEVERAL
TYPES OF VEGETABLES IN BINH CHANH DISTRICT HO CHI MINH CITY.
The concentrations (mg/kg) of As, Cd, Cu, Cr, Ni, Pb and Zn were determined
in three different vegetables which were obtained from Binh Chanh district using
Atomic Absorption Spectrophotometry (AAS). Samples were collected during both
dry and rainy seasons. The mean levels of heavy metals obtained ranged widely
from 0.007 mg/kg for Cd to 32.27 mg/kg for Zn. The relative abundance of heavy
metals in Brassica analyzed followed the sequence Zn > Cu> Ni > As > Pb > Cr >
Cd, in Ipomoea aquatica analyzed followed the sequence Zn > Cu > Cr > Ni > As >
Pb > Cd and in Neptunia oleracea analyzed followed the sequence Zn > Cu > Ni >
Cr > As > Pb > Cd. Concentrations of heavy metals in vegetable samples were
related to their concentrations in the corresponding soils. Concentrations of Cu in
Neptunia oleracea and irrigation water in this study were higher than the allowable
limits of Vietnam 1.064 and 1.12 times, respectively. Concentrations of Cd, Cr and
Ni in vegetable samples were related to their concentrations in the corresponding
soil and irrigation water.
Keywords: Vegetables, heavy metals, polluted soils, polluted waters, accumulation.
Nhận bài ngày 27 tháng 6 năm 2018
Phản biện xong ngày 17 tháng 9 năm 2018
Hoàn thiện ngày 05 tháng 10 năm 2018
Chi nhánh phía Nam, Trung tâm Nhiệt đới Việt - Nga
Các file đính kèm theo tài liệu này:
danh_gia_ham_luong_kim_loai_nang_tren_mot_so_loai_rau_o_khu.pdf