Đánh giá hiện trạng kháng hoạt chất thuốc imidacloprid của rầy nâu (nilaparvata lugens stal) tại tỉnh Tiền Giang vụ thu đông năm 2018

KẾT LUẬN VÀ ĐỀ NGHỊ 4.1 Kết luận Ba nhóm thuốc được sử dụng tại Tiền Giang trừ rầy nâu phổ biến ở dạng đơn hoạt chất là Pyridine azomethine (Pymetrozine: 60%, Neonicotinoid (Nitenpyram: 21,11%), Phenylpyrazole (Fipronil: 24,44) và ở dạng hỗn hợp là Acetamiprid và Pymetrozine (22,22%), Chlorantraniprole và Thiamethoxam (21,11%). Hoạt chất Imidacloprid được sử dụng ở mức độ rất thấp ở tỉnh Tiền Giang, chỉ 1,11% hộ sử dụng ở dạng đơn chất và 3,33% hộ sử dụng ở dạng hỗn hợp (dạng hỗn hợp giữa Imidacloprid và Chlorpyrifos ethyl). Liều lượng sử dụng thuốc trong kiểm soát rầy nâu ở Tiền Giang phổ biến với liều lượng cao hơn khuyến cáo từ 1,5 - 2 lần. Mặc dù, tần suất sử dụng Imidacloprid trong phòng trừ rầy nâu ở 3 huyện là rất thấp. Tuy nhiên, khi kiểm tra tính kháng trong phòng thí nghiệm của rầy nâu thu thập từ 3 huyện Châu Thành, Cai Lậy và Cái Bè đều thể hiện tính kháng rất cao đối với hoạt chất thuốc Imidacloprid với tỉ lệ kháng RR dao động từ 390,48 - 436,37 lần. Các số liệu điều tra thực tế cho thấy nhiều hoạt chất cùng nhóm Neonicotinoid, cùng cơ chế tác động với Imidacloprid vẫn được sử dụng trong phòng trừ rầy nâu tại Tiền Giang. Đây cũng có thể là một trong những yếu tố tác động làm cho rầy nâu duy trì tính kháng cao với Imidacloprid mặc dù tần suất tiếp xúc với hoạt chất này là không cao. Nhưng bên cạnh đó cũng không loại trừ các khả năng về sự xuất hiện của đột biến điểm Y151S (Liu và cộng sự, 2004) hoặc sự hiện diện của gene kháng khác như CYP6ER1 (Ruoheng Jin và cộng sự, 2019). 4.2 Đề nghị Tiếp tục thực hiện các thí nghiệm theo dõi tính kháng hoạt chất thuốc Imidacloprid của rầy nâu qua các năm. Khảo sát sự hiện diện của gene kháng Imidacloprid trên các quần thể rầy nâu tại tỉnh Tiền Giang.

pdf7 trang | Chia sẻ: hachi492 | Lượt xem: 1 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đánh giá hiện trạng kháng hoạt chất thuốc imidacloprid của rầy nâu (nilaparvata lugens stal) tại tỉnh Tiền Giang vụ thu đông năm 2018, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Kết quả nghiên cứu Khoa học BVTV - Số 5/2019 9 ĐÁNH GIÁ HIỆN TRẠNG KHÁNG HOẠT CHẤT THUỐC Imidacloprid CỦA RẦY NÂU (Nilaparvata lugens Stål) TẠI TỈNH TIỀN GIANG VỤ THU ĐÔNG NĂM 2018 Evaluation of Imidacloprid Resistance Status of Brown Planthopper (Nilaparvata lugens Stål) in Autumn-Winter Cropping Season of 2018 in Tien Giang Province Võ Quốc Việt 3 , Nguyễn Thế Truyền 4 , Lê Khắc Hoàng 2 , Lê Thị Diệu Trang 1 Ngày nhận bài: 05.7.2019 Ngày chấp nhận: 13.8. 2019 Abstract Brown planthopper (Nilaparvata lugens Stål.) is one of the most important pests on rice in Viet Nam and Asia, its resistance to most of insecticide ingredients has been reported in many studies. Especticially, brown planthopper had developed very high resistance to Imidacloprid for many years. In this article, we report on the status of Imidacloprid resistance in Autumn-winter cropping season of 2018 in Tien Giang province. The survey results on the use of chemical control for the planthopper showed that the use average level of Imidacloprid in farmers is very low, 1.11% single-ingredient and 3.33% multi-ingredient (mixture of Imidacloprid and Chlorpyrifos ethyl) products. Despite of low using Imidacloprid level during investigation, however the testing resistance in laboratory conditions showed that the hopper still exhibited very high resistance to Imidacloprid with LD50 recorded in 3 distrists of Chau Thanh, Cai Lay and Cai Be respectively 30.55 (μg/g); 31.72 (μg/g); 27.33 (μg/g) and resistance ratio (RR) ranged from 390.48 to 436.37. Keywords: brown planthopper, Nilaparvata lugens, insecticide resistance, Imidacloprid 1. ĐẶT VẤN ĐỀ * Từ 2003 đến 2015, các đề tài nghiên cứu về tính kháng hoạt chất thuốc Imidacloprid của rầy nâu đã được nhiều nhóm nghiên cứu tiến hành thực hiện. Cho đến gần đây nhất, theo Nguyễn Thị Nhật Phương (2017) thì kết quả điều tra, nghiên cứu cho thấy rằng sự tính kháng Imidacloprid trên quần thể rầy nâu vẫn còn tồn tại, mặc dù mức độ sử dụng thuốc Imidacloprid đã giảm đáng kể. Một số nghiên cứu trên thế giới ghi nhận rằng tính kháng Imidacloprid trên rầy nâu có liên quan chặt chẽ đến điểm đột biến ở hai tiểu đơn vị Nlα1 và Nlα3 của thụ thể Neonicotinoid-Achetylcholine Receptor (nAChR) tại vị trí gần với vị trí gắn kết Imidacloprid (Liu và cộng sự, 2004). Trong cả hai tiểu đơn vị nAChR, sự thay đổi hay là sự đột biến 1. Viện Công nghệ Sinh học và Môi trường, Trường ĐH Nông Lâm Tp.HCM 2. Khoa Nông học, Trường Đại học Nông Lâm Tp.HCM 3. Chi cục Kiểm dịch thực vật vùng II 4. Sinh viên trường Đại học Nông Lâm Tp. HCM của a xít amin tyrosine (T) ở vị trí 151 đã được thay đổi thành serine (Y151S). Vì vậy việc điều tra và đánh giá lại khả năng kháng Imidacloprid của quần thể rầy nâu qua thời gian với nhiều thế hệ tại Tiền Giang ở thời điểm này là cần thiết để làm tiền đề cho việc khảo sát sự hiện diện của gene kháng Imidacloprid của rầy nâu. Bài báo này cung cấp các dẫn liệu khoa học về khả năng lưu tồn tính kháng thuốc của rầy nâu. 2. VẬT LIỆU VÀ PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 2.1 Vật liệu nghiên cứu Phiếu điều tra; Lồng nuôi rầy, các thiết bị đo nhiệt - ẩm độ phòng thí nghiệm, giống lúa Jasmine 85, thiết bị nhỏ thuốc microappicator 0,08 μl/l, thuốc kỹ thuật Imidacloprid (95%) và các hóa chất, thiết bị khác trong phòng thí nghiệm. 2.2 Thời gian và địa điểm nghiên cứu Nghiên cứu được thực hiện từ tháng 10/2018 đến tháng 03/2019 tại 3 huyện Châu Kết quả nghiên cứu Khoa học BVTV - Số 5/2019 10 Thành, Cai Lậy và Cái Bè, tỉnh Tiền Giang và phòng nghiên cứu côn trùng, viện Công nghệ Sinh học và Môi trường, trường Đại học Nông Lâm Tp. Hồ Chí Minh. 2.3 Phƣơng pháp nghiên cứu 2.3.1 Điều tra tình hình canh tác lúa và hiện trạng sử dụng thuốc BVTV trong phòng trừ rầy nâu của nông dân tại tỉnh Tiền Giang Phỏng vấn trực tiếp nông dân đang có diện tích trồng lúa trên 2000m 2 dựa trên bảng hệ thống các câu hỏi đã chuẩn bị sẵn. Mỗi huyện phỏng vấn 2 xã, mỗi xã phỏng vấn 15 hộ nông dân tương ứng với 30 phiếu điều tra/ huyện. Tổng số hộ điều tra của 3 huyện là 90 hộ. 2.3.2 Đánh giá khả năng kháng thuốc của các rầy nâu hoạt chất Imidacloprid Nhân nuôi - tạo quần thể rầy nâu: Rầy nâu thu bắt từ ngoài đồng ruộng được nhân nuôi trong trong điều kiện nhiệt độ 28 0 C ± 2, độ ẩm 80 %, 16 giờ sáng và 8 giờ tối. Nuôi rầy qua 2 thế hệ đến khi ổn định số lượng 2000 con/huyện thì tiến hành thí nghiệm. Cách pha thuốc: Khối lượng hoạt chất imidacloprid cần hòa tan với dung môi (m) = Nồng độ thuốc cần có (μg/g) * thể tích thuốc cần có (ml) * CF Trong đó, hệ số hiệu chỉnh CF = 100% / % a.i hoạt chất Imidacloprid Phương pháp nhỏ thuốc: Sử dụng rầy cái trưởng thành cánh ngắn 3 ngày tuổi. Gây mê làm bất động rầy với khí CO2 trong thời gian 15 giây. Tiến hành nhỏ thuốc lên mảnh lưng ngực của rầy nâu, mỗi con nhỏ 1 giọt tương ứng 0,08 μl/l. Công thức đối chứng nhỏ bằng Acetone. Rầy sau khi xử lý thuốc được thả vào hộp nhựa tròn (hộp phục hồi), có chuẩn bị sẵn các cây lúa tươi quấn bông giữ ẩm làm thức ăn cho rầy hồi phục. Mỗi nồng độ được lặp lại 3 lần, mỗi lần xử lý 15 cá thể rầy. a. Nhỏ thuốc lên mảnh lưng ngực của rầy nâu b. Rầy sau nhỏ thuốc cho vào hộp phục hồi Hình 1. Xử lý nhỏ thuốc rầy nâu Sau thí nghiệm ước tính khoảng nồng độ gây chết 10 - 95% cá thể với mục đích chọn ra dãy nồng độ thu hẹp gồm:  H. Châu Thành: 0; 12,5; 25; 50; 100; 200; 400; 800; 1600 và 3200 (μg/g).  H. Cai Lậy: 0; 13,5; 27; 54; 108; 216; 432; 864; 1728 và 3456 (μg/g) .  H. Cái Bè: 0; 11,5 ; 23; 46; 92; 184; 368; 736; 1472 và 2944 (μg/g).  Rầy nâu mẫn cảm: 0; 0,125; 0,25; 0,5; 1; 2; 4; 8; 16; 32; 64 và 128 (μg/g). Mỗi nồng độ xử lý với 45 cá thể rầy. Số liệu rầy chết sau 24 giờ xử lý với hoạt chất Imidacloprid được ghi nhận, xử lý bằng phần mềm Polo Plus 2.0, tính toán giá trị về liều lượng gây chết 50% cá thể (LD50). Từ đó, xác định được tỉ lệ kháng thuốc (RR) của rầy nâu đối với Imidacloprid. Xử lý số liệu: Giá trị LD50 được tính bằng phần mềm Polo-plus (LeOra Software,2002). Tỉ lệ kháng thuốc (RR) được đánh giá theo tỉ lệ giữa rầy thí nghiệm và rầy mẫn cảm. Nếu tỉ lệ kháng (RR) < 3 là rầy còn mẫn cảm; (RR) từ 5 - 10 là kháng thấp; (RR) từ 11 - 40 là kháng trung Kết quả nghiên cứu Khoa học BVTV - Số 5/2019 11 bình, (RR) 41 - 160 là kháng cao, (RR) > 160 là kháng rất cao. 3. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN 3.1 Tình hình canh tác lúa và hiện trạng sử dụng thuốc BVTV trong phòng trừ rầy nâu của nông dân Tiền Giang 3.1.1 Các giống lúa canh tác trong vụ Thu Đông 2018 Thông tin ghi nhận từ điều tra thực tế về tình hình các giống lúa được canh tác trong vụ Thu Đông năm 2018 tại tỉnh Tiền Giang được trình bày trong bảng 1. Bảng 1. Các giống lúa trồng trong vụ Thu Đông 2018 tại tỉnh Tiền Giang Giống Loại giống Tỉ lệ (%) nông dân canh tác Châu Thành Cai Lậy Cái Bè Đài thơm 8 Nhiễm rầy 6,66 30,00 80,00 IR 50404 Nhiễm rầy 46,67 53,33 16,67 Nàng hoa 9 Nhiễm rầy 10,00 0,00 0,00 OM 4900 Nhiễm rầy 0,00 10,00 0,00 Long Hồ 9 Nhiễm rầy 0,00 0,00 3,33 IR 4625 Nhiễm rầy 20,00 0,00 0,00 ST 21 Nhiễm rầy 10,00 0,00 0,00 OM 5451 Nhiễm rầy 6,67 6,67 0,00 Qua điều tra thực tế, kết quả ghi nhận, các giống lúa được nông dân gieo trồng ở 3 huyện Châu Thành, Cai Lậy và Cái Bè, tỉnh Tiền Giang trong vụ Thu Đông năm 2018 là những giống lúa có mức độ nhiễm rầy nhẹ hoặc vừa. Hai giống lúa được gieo trồng nhiều nhất là giống Đài thơm 8 và IR 50404. Với trung bình số hộ gieo trồng tương ứng lần lượt là 80% ở huyện Cái Bè - giống Đài Thơm 8; 46,67% và 53,33% ở huyện Châu Thành và Cai Lậy - giống IR 50404. Việc chọn trồng các giống lúa có mức độ nhiễm rầy nhẹ và vừa cũng là một biện pháp chủ động phòng ngừa và hạn chế được sự tấn công, gây hại của rầy nâu trong canh tác lúa của nông dân tỉnh Tiền Giang. 3.1.2. Các loại thuốc trừ sâu được sử dụng trong phòng trừ rầy nâu Các loại thuốc trừ sâu được nông dân sử dụng trong phòng trừ rầy nâu tại tỉnh Tiền Giang trong canh tác lúa vụ Thu Đông năm 2018 được trình bày trong bảng 2. Bảng 2. Các hoạt chất thuốc trừ sâu đƣợc nông dân tỉnh Tiền Giang sử dụng trong vụ Thu Đông năm 2018 STT Hoạt chất Tỉ lệ (%) nông dân sử dụng Trung bình Châu Thành Cai Lậy Cái Bè 1 Abamectin 30,00 3,33 0,00 11,11 2 Acetamiprid 10,00 0,00 3,33 4,44 3 Acetamiprid + Buprofezin 0,00 0,00 6,67 2,22 4 Acetamiprid + Pymetrozine 6,67 60,00 0,00 22,22 5 Buprofezin 0,00 0,00 10,00 3,33 6 Carbosulfan + Chlorfluazuron 0,00 6,67 3,33 3,33 7 Cartap 6,67 0,00 0,00 2,22 Kết quả nghiên cứu Khoa học BVTV - Số 5/2019 12 STT Hoạt chất Tỉ lệ (%) nông dân sử dụng Trung bình Châu Thành Cai Lậy Cái Bè 8 Chlorantraniprole + Thiamethoxam 26,67 26,67 10,00 21,11 9 Chlorfluazuron + Fipronil 3,33 0,00 0,00 1,11 10 Chlorpyrifos ethyl + Cypermethrin 16,67 10,00 10,00 12,22 11 Cypermethrin 3,33 0,00 0,00 1,11 12 Dinotefuran 3,33 0,00 0,00 1,11 13 Emamectin benzoate 10,00 6,67 0,00 5,56 14 Fenobucarb 0,00 0,00 6,67 2,22 15 Fipronil 50,00 0,00 23,33 24,44 16 Flubendiamide 0,00 0,00 13,33 4,44 17 Imidacloprid 3,33 0,00 0,00 1,11 18 Imidacloprid + Chlorpyrifos ethyl 0,00 10,00 0,00 3,33 19 Nitenpyram 6,67 50,00 6,67 21,11 20 Nitenpyram + Pymetrozine 10,00 6,67 0,00 5,56 21 Nitenpyram +Pymetrozine +Diflubenzuron 0,00 0,00 6,67 2,22 22 Pymetrozine 30,00 86,67 63,33 60,00 Trong số các hoạt chất bảng 2 như trên, Pymetrozine được ghi nhận chung là hoạt chất được nông dân sử dụng nhiều nhất trung bình ở cả 3 huyện là 60%. Trong đó, ở huyện Cai Lậy với 86,67% (thuốc ở dạng đơn) và 60% (thuốc dạng hỗn hợp giữa Acetamiprid và Pymetrozine. Theo đánh giá của nông dân, thuốc có thành phần hoạt chất Pymetrozine có hiệu quả cao nhất trong phòng trừ rầy nâu. Tuy nhiên, tùy thuộc vào nhiều yếu tố khách quan mà nông dân có lựa chọn dùng loại hoạt chất này hoặc thuốc có hoạt chất khác để thay thế, đáp ứng với tình hình thực tế. Bên cạnh đó, kết quả điều tra cũng ghi nhận thuốc chứa hoạt chất Imidacloprid vẫn còn được ứng dụng trên loài sâu hại này tuy mức độ sử dụng là rất thấp (3,33% nông dân ở huyện Châu Thành sử dụng ở dạng đơn chất và 10% nông dân ở huyện Cai Lậy sử dụng ở dạng hỗn hợp). Tức là trung bình ở cả 3 huyện là 1,11% nông dân sử dụng dưới dạng đơn chất và 3,33% được sử dụng dưới dạng hỗn hợp. Mặt khác, các hoạt chất cùng nhóm Neonicotinoid với Imidacloprid qua kết quả điều tra như Acetamiprid, Thiamethoxam, Dinotefuran và Nitenpyram được nông dân sử dụng hiện nay cũng ở mức trung bình hoặc khá phổ biến. 3.1.4. Liều lượng thuốc trừ sâu trong phòng trừ rầy nâu của nông dân Qua hình 1 có thể thấy, tỉ lệ các hộ nông dân sử dụng thuốc đúng liều lượng khuyến cáo ở cả 3 huyện là không cao, dưới mức 50%. Tỉ lệ nông dân sử dụng thuốc đúng liều lượng cao nhất là ở huyện Cái Bè với mức 46,67%, tỉ lệ thấp hơn là nông dân ở 2 huyện Châu Thành và Cai Lậy với cùng mức 43,33%. Bên cạnh đó, hiện trạng sử dụng thuốc không đúng khuyến cáo, vượt quá liều lượng khuyến cáo cũng được ghi nhận ở cả 3 huyện Châu Thành, Cai Lậy và Cái Bè ở mức khá phổ biến. Liều lượng thuốc sử dụng cao hơn từ gấp 1,5 đến 2 lần. Liều lượng thuốc nông dân sử dụng vượt quá khuyến cáo là khác nhau ở các huyện, nhìn chung phổ biến nhất là ở ngưỡng gấp 1,5 lần khuyến cáo. Cao nhất là ở huyện Cai Lậy, có trung bình 46,67% sử dụng liều gấp 1,5 lần khuyến cáo và ở 2 huyện Châu Thành và Cái Bè có cùng mức 38,33%. Kết quả nghiên cứu Khoa học BVTV - Số 5/2019 13 Hình 1. Liều lƣợng thuốc trừ rầy nâu tại tỉnh Tiền Giang (vụ Thu Đông 2018) 3.2 Xác định mức độ kháng thuốc của rầy nâu đối với hoạt chất Imidacloprid 3.2.1. Mức độ kháng thuốc của rầy nâu đối với hoạt chất Imidacloprid trong vụ Thu Đông năm 2018 Thí nghiệm thăm dò ước tính nồng độ gây chết 10% và 95% cá thể với nhiều nồng độ khác nhau nhằm giới hạn để chọn ra được khoảng nồng độ gây chết từ 10 - 95% cá thể. Bảng 4. Mức độ kháng hoạt chất thuốc Imidacloprid của rầy nâu ở tỉnh Tiền Giang Nguồn rầy nâu LD50 (μg/g) Giới hạn tin cậy 95% Độ dốc (SE) (Slope) Tính không đồng nhất (Heterogeneity) Tỉ lệ kháng (RR) Châu Thành 30,55 22,58 - 42,17 1,05 0,24 436,37 Cai Lậy 31,72 23,41 - 43,73 1,04 0,133 453,15 Cái Bè 27,33 20,31 - 37,44 1,07 0,18 390,48 Mẫn cảm 0,07 0,03 - 0,13 0,50 0,29 1,00 Kết quả ghi nhận từ bảng 4 cho thấy LD50 ở các quần thể rầy nâu ở 3 huyện Châu Thành, Cai Lậy và Cái Bè dao động từ 27,33 - 31,72 (μg/g). Trong đó giá trị LD50 cao nhất là nguồn rầy ở Cai Lậy với giá trị LD50 là 31,72 (μg/g). Kế tiếp theo đó là nguồn rầy từ huyện Châu Thành và cuối cùng là ở huyện Cái Bè với lần lần giá trị LD50 là 30,55 (μg/g) và 27,33 (μg/g). Tỉ lệ kháng thuốc (RR) tương ứng dao động từ 390,48 - 453,15. Dựa trên các số liệu tỉ lệ kháng bảng 4 của rầy nâu và thang đánh giá mức độ kháng thuốc, rầy nâu ở cả 3 huyện Châu Thành, Cai Lậy và Cái Bè của tỉnh Tiền Giang được đánh giá là đã kháng rất cao với Imidacloprid. 3.2.2 Diễn biến tính kháng hoạt chất thuốc Imidacloprid của rầy nâu tại Tiền Giang Các số liệu cập nhật ở bảng 5 cho thấy về thực trạng diễn biến tính kháng hoạt chất thuốc Imidacloprid của rầy nâu tại Tiền Giang qua các năm thông qua các nghiên cứu. Số liệu cho thấy vào năm 2006, giá trị LD50 của rầy nâu ở mức rất cao (16,3 - 24,2 μg/g), ở thời điểm này tương ứng với sự kiện bùng phát mạnh dịch rầy nâu ở các tỉnh thuộc ĐBSCL và Đông Nam Bộ (Báo cáo của Cục BVTV, 2006). Năm 2009 giá trị LD50 của rầy nâu đã giảm xuống còn 1,8 (μg/g), tức là đã giảm 9,1 - 13,4 lần so với năm 2006. Nguồn rầy nâu tại tỉnh Tiền Giang được đánh giá là kháng cao với hoạt chất Imidacloprid với tỉ lệ kháng thuốc (RR) là 42,9. Châu Thành Cai Lậy Cái Bè Đúng khuyến cáo 43,33% 43,33% 46,67% Gấp 1,5 lần 38,33% 46,67% 38,33% Gấp 2 lần 18,34% 10% 15% 43,33% 43,33% 46,67% 38,33% 46,67% 38,33% 18,34% 10% 15% 0% 10% 20% 30% 40% 50% Liều lượng thuốc trừ rầy nâu tại tỉnh Tiền Giang (Vụ Thu Đông 2018) Kết quả nghiên cứu Khoa học BVTV - Số 5/2019 14 Bảng 5. Diễn biến tính kháng hoạt chất Imidacloprid của rầy nâu tại Tiền Giang qua các năm Năm Tiền Giang Mức độ kháng thuốc Ghi chú LD50 (μg/g) Ri 2006 16,30 - 24,20 (1) - - Huyện Long Định, huyện Chợ Gạo 2009 1,80 (2) 42,90 (2) Kháng cao - 2010 2,40 (2) 57,10 (2) Kháng cao - 2011 3,50 (2) 83,30 (2) Kháng cao - 2014 26,30 (3) 219,20 (3) Kháng rất cao - 2015 24,10 (3) 185,40 (3) Kháng rất cao - 2016 15,33 (4) 172,86 (4) Kháng rất cao Huyện Châu Thành, Huyện Cai Lậy. 2018 27,34 - 30,55 390,48 - 453,15 Kháng rất cao Huyện Châu Thành, Huyện Cai Lậy, Huyện Cái Bè. Chú thích: - Không có số liệu 1. Masaya Matsumura, Hiroaki Takeuchi, Masaru Satoh, Sachiyo Sanada-Morimura, Akira Otuka, Tomonari Watanabe, Dinh Van Thanh 2. Phan Văn Tương, Phùng Minh Lộc, Nguyễn Văn Huỳnh,Trần Tấn Việt, Huỳnh Ngọc Diễm 3. Phùng Minh Lộc, Trần Thanh Tùng, Hồ Thị Thu Giang, Taro Adati 4. Nguyễn Thị Nhật Phương Các số liệu tổng hợp từ các nghiên cứu cũng cho thấy, giá trị LD50 có xu hướng tăng dần qua các năm từ năm 2009 - 2018, từ 1,8 (μg/g) đến từ 27,34 - 30,55 (μg/g), tức là giá trị LD50 đã tăng ở mức gấp 15,19 - 16,97 lần. Mức độ kháng thuốc của rầy nâu cũng tăng dần từ mức kháng cao (2009 - 2011) đến mức kháng rất cao (2014 - 1018). Kết quả ở bảng 5 cho thấy các giá trị LD50 và tỉ lệ kháng (RR) duy trì ở mức cao qua nhiều năm. Nhưng hiện trạng sử dụng Imidacloprid trong kiểm soát rầy nâu của nông dân cũng giảm đáng kể, tuy nhiên thực tại tính kháng hoạt chất Imidacloprid vẫn duy trì ở mức độ cao. 4. KẾT LUẬN VÀ ĐỀ NGHỊ 4.1 Kết luận Ba nhóm thuốc được sử dụng tại Tiền Giang trừ rầy nâu phổ biến ở dạng đơn hoạt chất là Pyridine azomethine (Pymetrozine: 60%, Neonicotinoid (Nitenpyram: 21,11%), Phenylpyrazole (Fipronil: 24,44) và ở dạng hỗn hợp là Acetamiprid và Pymetrozine (22,22%), Chlorantraniprole và Thiamethoxam (21,11%). Hoạt chất Imidacloprid được sử dụng ở mức độ rất thấp ở tỉnh Tiền Giang, chỉ 1,11% hộ sử dụng ở dạng đơn chất và 3,33% hộ sử dụng ở dạng hỗn hợp (dạng hỗn hợp giữa Imidacloprid và Chlorpyrifos ethyl). Liều lượng sử dụng thuốc trong kiểm soát rầy nâu ở Tiền Giang phổ biến với liều lượng cao hơn khuyến cáo từ 1,5 - 2 lần. Mặc dù, tần suất sử dụng Imidacloprid trong phòng trừ rầy nâu ở 3 huyện là rất thấp. Tuy nhiên, khi kiểm tra tính kháng trong phòng thí nghiệm của rầy nâu thu thập từ 3 huyện Châu Thành, Cai Lậy và Cái Bè đều thể hiện tính kháng rất cao đối với hoạt chất thuốc Imidacloprid với tỉ lệ kháng RR dao động từ 390,48 - 436,37 lần. Các số liệu điều tra thực tế cho thấy nhiều hoạt chất cùng nhóm Neonicotinoid, cùng cơ chế tác động với Imidacloprid vẫn được sử dụng trong phòng trừ rầy nâu tại Tiền Giang. Đây cũng có thể là một trong những yếu tố tác động làm cho rầy nâu duy Kết quả nghiên cứu Khoa học BVTV - Số 5/2019 15 trì tính kháng cao với Imidacloprid mặc dù tần suất tiếp xúc với hoạt chất này là không cao. Nhưng bên cạnh đó cũng không loại trừ các khả năng về sự xuất hiện của đột biến điểm Y151S (Liu và cộng sự, 2004) hoặc sự hiện diện của gene kháng khác như CYP6ER1 (Ruoheng Jin và cộng sự, 2019). 4.2 Đề nghị Tiếp tục thực hiện các thí nghiệm theo dõi tính kháng hoạt chất thuốc Imidacloprid của rầy nâu qua các năm. Khảo sát sự hiện diện của gene kháng Imidacloprid trên các quần thể rầy nâu tại tỉnh Tiền Giang. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Cục BVTV, 2007. Báo cáo tình hình và kết quả thực hiện công tác phòng chống rầy nâu, bệnh vàng lùn, lùn xoắn lá trên lúa các tỉnh, thành phía Nam năm 2006. 2. Liu và cộng sự, 2004. A nicotinic acetylcholine receptor mutation conferring target-site resistance to Imidacloprid in Nilaparvata lugens (brown planthopper). 3. Matsumura và ctv, 2008. Species-specific insecticide resistance to Imidacloprid and Fipronil in the rice planthoppers Nilaparvata lugens and Sogatella furcifera in East and South-east Asia. Pest Manag Sci. 2008; số 64, trang 1115 - 1121. 4. Nguyễn Thị Nhật Phương, 2017. Đánh giá khả năng kháng thuốc của rầy nâu (Nilaparvata lugens Stål) đối với các hoạt chất Imidacloprid, Fenobucard, Profenofos tại các tỉnh Tiền Giang, An Giang và Cần Thơ. Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành BVTV. Đại học Nông Lâm Tp. Hồ Chí Minh. 5. Phan Văn Tương, 2013. Nghiên cứu khả năng kháng thuốc của rầy nâu (Nilaparvata lugens Stål) đối với các hoạt chất thuốc trừ sâu Fenobucarb, Fipronil và Imidacloprid tại Đồng bằng sông Cửu Long. Luận án Tiến sĩ chuyên ngành BVTV, Đại học Nông Lâm Tp. HCM, 135 trang. 6. Phùng Minh Lộc, Trần Thanh Tùng, Lê Thị Diệu Trang, Hồ Thị Thu Giang và Taro Adati, 2016. Đánh giá hiệu lực phòng trừ rầy nâu hại lúa (Nilaparvata lugens Stål.) của một số thuốc trừ sâu. Tạp chí chuyên ngành BVTV số 4/2016, trang 37 - 43. 7. Ruoheng Jin và cộng sự, 2019. Overexpression of CYP6ER1 associated with clothianidin resistance in Nilaparvata lugens (Stål) Phản biện: TS. Đào Bách Khoa HIỆU LỰC TRONG PHÕNG THÍ NGHIỆM CỦA TUYẾN TRÙNG GÂY BỆNH CÔN TRÙNG ĐỐI VỚI MỌT ĐỤC THÂN (Euwallacea fornicatus) HẠI KEO TAI TƢỢNG VÀ KEO LAI Laboratory Efficacy of EPNs to Euwallacea fornicatus Damaging on Accacia mangium and Accacia Hybrid Bùi Quang Tiếp 1 , Trịnh Quang Pháp 2 Ngày nhận bài: 02.7.2019 Ngày chấp nhận: 13.8.2019 Abstract Polyphagous shot-hole borer Euwallacea fornicatus (Eichhoff) (Coleoptera, Curculionidae: Scolytinae) damages not only on forest trees but also on plants and landscape trees around the world. The experiment was used two entomopathogenic nematode (EPN) species Heterorhabditis indica and Steinernema quangdongense to control the third larvae of 1. Trung tâm Nghiên cứu Bảo vệ rừng. 2. Viện sinh thái và Tài nguyên sinh vật

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfdanh_gia_hien_trang_khang_hoat_chat_thuoc_imidacloprid_cua_r.pdf