In recent years, the socio-economic development of Ca Mau Peninsula is in a rapidly growing.
Besides, there is the rapid change process for production, especially from ecology of freshwater
zone to ecology of saline zone (from rice to shrimp farming) which leads to the infrastructure could
not adopt require of production, especially irrigation system. In the past, water was used primarily
for agriculture, but now it is also supplied for aquaculture, which has led to appear many
shortcomings in the irrigation system. Moreover, under the pressure of economic development and
rapid population growth, the water demand in the study area has been increasing. Discharging into
water sources has caused more serious water pollution. For the Ca Mau Peninsula, the areas most
affected by the deterioration in water resources are the transition areas of the production model
from rice to shrimp farming, or industrial and service zones. This article will be shown the result of
the survey and assessment of the status of exploitation and use of water resources and the
assessment of surface water quality in order to propose solutions to manage and reduce surface
water pollution in the study area
8 trang |
Chia sẻ: honghp95 | Lượt xem: 594 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đánh giá hiện trạng nguồn nước mặt và đề xuất các giải pháp quản lý nguồn nước mặt trong vùng bán đảo Cà Mau - Nguyễn Đức Phong, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
KHOA HC K THUT THuhoahoiY LI VÀ MÔI TRuchoaNG uhoahoiuhoahoiuhoahoi - S 58 (9/2017) 103
BÀI BÁO KHOA H
C
ĐÁNH GIÁ HIỆN TRẠNG NGUỒN NƯỚC MẶT VÀ ĐỀ XUẤT
CÁC GIẢI PHÁP QUẢN LÝ NGUỒN NƯỚC MẶT
TRONG VÙNG BÁN ĐẢO CÀ MAU
Nguyễn Đức Phong1, Phạm Hồng Cường1
Tóm tắt: Hiện nay, vùng Bán đảo Cà Mau đang phát triển mạnh mẽ về nhiều mặt, kèm theo đó là
sự chuyển đổi sản xuất nhanh, nhất là từ sinh thái ngọt sang sinh thái mặn (trồng lúa sang nuôi
tôm) dẫn đến hạ tầng phục vụ không theo kịp, đặc biệt là hạ tầng thủy lợi. Việc kiểm soát nguồn
nước trước đây chủ yếu nhằm sử dụng cho nông nghiệp, nay thêm cả thủy sản nên đã bộc lộ nhiều
hạn chế, bất cập. Hơn nữa, áp lực phát triển kinh tế và dân số mạnh mẽ làm cho nhu cầu sử dụng
nước BĐCM ngày càng tăng, đồng thời việc xả thải và gây ô nhiễm nguồn nước ngày càng trầm
trọng, nguồn nước đang bị suy thoái dần, nhiều vùng đã trở nên trầm trọng. Các vùng chịu sự suy
thoái nhất là vùng chuyển đổi mô hình sản xuất từ trồng trọt sang nuôi tôm, hay các cụm công
nghiệp, dịch vụ. Nội dung bài viết là kết quả khảo sát, đánh giá hiện trạng khai thác, sử dụng và
chất lượng nước mặt nhằm đề xuất các giải pháp quản lý, bảo vệ môi trường nước mặt trong vùng.
Từ khóa: Bán đảo Cà Mau, hiện trạng khai thác, sử dụng TNN, chất lượng nước, giải pháp quản lý
nguồn nước.
1. ĐẶT VẤN ĐỀ1
Vùng BĐCM là một trong những vùng lớn
của ĐBSCL (1,6 triệu ha, chiếm 43% tổng diện
tích của ĐBSCL), đây là vùng chiếm vị trí rất
lớn trong phát triển kinh tế và xã hội vùng
ĐBSCL, có điều kiện để phát triển một nền sản
xuất đa dạng. Vùng BĐCM có hệ sinh thái
phong phú và đa dạng, rất nhạy cảm với các tác
động của điều kiện tự nhiên và con người, đồng
thời có tiềm năng lớn về nông nghiệp, thuỷ sản,
lâm nghiệp. Những năm gần đây, áp lực phát
triển kinh tế và dân số mạnh mẽ làm cho nhu
cầu sử dụng nước BĐCM ngày càng tăng, tình
trạng suy giảm nguồn nước dẫn tới thiếu nước,
khan hiếm nước không đủ cung cấp cho sinh
hoạt, sản xuất đang diễn ra ngày một thường
xuyên hơn. Mâu thuẫn trong sử dụng nguồn
nước đã xuất hiện, như giữa nhu cầu cấp thoát
nước cho nông nghiệp, bảo vệ nguồn lợi của các
vùng nuôi trồng thủy sản, tiêu thoát nước cho
sản xuất và dân sinh.
1
Viện Khoa học Thủy lợi Việt Nam.
Trong khi đó, việc quản lý, sử dụng, xây
dựng hạ tầng cơ sở liên quan đến nguồn nước
vẫn còn đang rất lúng túng, bộc lộ nhiều bất
cập. Kèm theo đó là sự chuyển đổi sản xuất
nhanh, nhất là từ sinh thái ngọt sang sinh thái
mặn (trồng lúa sang nuôi tôm) dẫn đến hạ tầng
phục vụ không theo kịp, đặc biệt là hạ tầng thủy
lợi... là những thách thức đặt ra trong việc sử
dụng bền vững tài nguyên nước vùng BĐCM
(Tăng Đức Thắng, 2010).
Việc xả thải ô nhiễm từ các khu công nghiệp,
nhà máy; từ các vùng nuôi trồng thủy sản tập
trung (nuôi tôm sú ở Cà Mau, Bạc Liêu; cá tra
và basa ở Cần Thơ,) đã gây ô nhiễm nguồn
nước rất lớn (Tăng Đức Thắng, 2015). Lượng
nước thải từ các nguồn này chưa được xử lý triệt
để, tiếp tục thải ra nguồn tiếp nhận là sông,
kinh, rạch, làm suy giảm chất lượng nước mặt,
gây nên các dịch bệnh cho nuôi trồng thủy sản
và đặc biệt là gây hại đến sức khỏe người dân.
Trong nhiều vùng, nguồn nước mặt trước đây
được sử dụng cho sinh hoạt, nay ô nhiễm đến
mức không còn sử dụng được nữa (vùng Tây
TP. Cần Thơ,).
KHOA HC K THUT THuhoahoiY LI VÀ MÔI TRuchoaNG uhoahoiuhoahoiuhoahoi - S 58 (9/2017) 104
Có thể thấy rằng, tài nguyên nước vùng
BĐCM ẩn chứa nhiều yếu tố kém bền vững.
Trong khi nhu cầu nước không ngừng tăng lên
thì nhiều dòng sông lại bị suy thoái, ô nhiễm,
nước sạch ngày một khan hiếm. Hạn hán, thiếu
nước diễn ra thường xuyên, nghiêm trọng. An
ninh về nước cho phát triển bền vững và BVMT
đang không được bảo đảm. Do vậy, việc đánh giá
hiện trạng tài nguyên nước mặt và đề xuất các
giải pháp khai thác, quản lý TNN trong vùng
BĐCM là rất cần thiết, là cơ sở để đề xuất các
giải pháp cải thiện môi trường nước trong hệ
thống sông, kênh của vùng BĐCM nhằm giảm
thiểu những tác hại đến SXNN, NTTS và cải
thiện môi trường sống cho người dân trong vùng.
2. MỤC TIÊU VÀ PHƯƠNG PHÁP
THỰC HIỆN
2.1. Mục tiêu
- Đánh giá hiện trạng khai thác tài nguyên
nước mặt phục vụ phát triển kinh tế - xã hội;
- Đánh giá diễn biến môi trường nước mặt
vùng BĐCM
- Đề xuất các giải pháp khai thác, quản lý
nguồn nước mặt nhằm bảo vệ môi trường nước
mặt trong vùng BĐCM.
2.2. Cách tiếp cận
- Tiếp cận tổng hợp và liên ngành: Các vấn
đề được xem xét toàn diện các ngành liên quan
đến sử dụng nước, tổng hợp các yếu tố các yếu
tố tác động;
- Cách tiếp cận hệ thống: xem xét BĐCM
trong tổng thể ĐBSCL và lưu vực Mê Công;
- Kế thừa các nghiên cứu, các dự án đã thực
hiện trong vùng BĐCM;
2.3. Phương pháp thực hiện
Để đạt được các mục tiêu đề ra, các phương
pháp thực hiện như sau:
- Phương pháp điều tra, phỏng vấn: Thực
hiện điều tra thống kê theo các mẫu biểu đã
được xây dựng sẵn và phỏng vấn để thu thập, bổ
sung các thông tin cần thiết;
- Phương pháp khảo sát thực địa: khảo sát
thực tế phục vụ việc đánh giá hiện trạng ô
nhiễm nước, hiện trạng các nguồn thải trong khu
vực và công tác quản lý vận hành;
- Phương pháp đo đạc hiện trường, lấy mẫu
phân tích: Khảo sát đo đạc, lấy mẫu phân tích
các chỉ tiêu đánh giá ô nhiễm nước và chất
lượng các nguồn thải;
- Phương pháp so sánh: Đánh giá chất lượng
nước và chất lượng nguồn thải bằng cách so
sánh với các tiêu chuẩn, qui chuẩn hiện hành, so
sánh giữa các vùng, giữa hiện tại và quá khứ;
- Phương pháp phân tích thống kê và tổng
hợp số liệu/tài liệu: Sử dụng phương pháp thống
kê để phân tích các số liệu thu thập được đồng
thời tổng hợp số liệu/tài liệu theo định hướng
mong muốn phục vụ cho việc đánh giá;
- Phương pháp tính chỉ số chất lượng nước
(WQI) của Bộ Tài nguyên và Môi trường:
+ Đánh giá nhanh chất lượng nước mặt trong
vùng BĐCM một cách tổng quát;
+ Cung cấp thông tin môi trường một cách
đơn giản, dễ hiểu, trực quan;
+ Nâng cao nhận thức về môi trường
3. ĐÁNH GIÁ NGUỒN NƯỚC VÙNG BĐCM
3.1. Đánh giá hiện trạng khai thác và sử
dụng nước mặt vùng BĐCM
Vùng Bán đảo Cà Mau có nguồn tài nguyên
nước mặt khá phong phú, về cơ bản đảm bảo đủ
nước tưới tiêu cho cây trồng, vật nuôi và đời
sống sinh hoạt của dân. Kèm theo nguồn tài
nguyên nước to lớn là nguồn thủy sinh vô cùng
phong phú; đó là các ngư trường dồi dào hải
sản, là nơi nuôi trồng đánh bắt thủy sản... đã
mang lại nguồn lợi kinh tế lớn cho các địa
phương trong vùng. Sau đây là tình hình khai
thác, sử dụng TNN vùng BĐCM:
- Nước mặt trong vùng chủ yếu phục vụ nuôi
trồng thủy sản, tưới tiêu nông nghiệp, giao
thông vận tải. Hiện nay nước mặt đang được
khai thác với quy mô lớn, nhất là phục vụ nuôi
thủy sản (Viện nghiên cứu NTTS, 2013). Tuy
nhiên do việc quản lý chưa chặt chẽ nên vẫn còn
nhiều bất hợp lý trong việc sử dụng: nước ô
nhiễm, tranh chấp giữa các hộ dùng nước.
KHOA HC K THUT THuhoahoiY LI VÀ MÔI TRuchoaNG uhoahoiuhoahoiuhoahoi - S 58 (9/2017) 105
- Việc sử dụng nước theo không gian rất
không đều: Lượng nước ngọt được sử dụng rất
lớn trong các vùng gần nguồn (sông Hậu), bị
hạn chế ở các vùng xa sông Hậu. Điều này chủ
yếu là do đặc điểm tự nhiên của nguồn nước.
Trong tương lai, một chiến lược phân phối đều
hơn là rất cần thiết.
- Vùng Nam Bán đảo thuộc Cà Mau, Bạc
Liêu thiếu nước trầm trọng vào mùa khô, trong
khi nhu cầu nước ngọt lại rất lớn để nuôi trồng
thủy sản mặn lợ, là một ngành sản xuất có lợi
nhuận lớn nhất hiện nay. Đây là bất cân đối lớn
nhất trong vùng Bán Đảo.
Quá trình chuyển dịch nuôi trồng thủy sản
diễn ra quy mô lớn ở vùng mặn hóa ven biển
cũng đã làm gia tăng tình trạng xâm nhập mặn ở
các vùng ven biển. Tác động làm suy giảm rừng
ngập mặn ven biển tiếp tục diễn ra ảnh hưởng
đến các hệ sinh thái rừng ngập mặn. Nuôi cá bè
trên sông rạch, nuôi thâm canh thủy sản vùng
ngọt hóa đã gây nên các tác động đến chất
lượng môi trường nước ở đây (Trịnh Thị Long,
2012). Xâm nhập mặn gia tăng vào mùa khô
trên các sông lớn (sông Hậu và sông rạch ven
biển). Ở vùng ven biển khu vực Bán đảo Cà
Mau, nước mặn trong mùa khô hạn đã tiến vào
sâu nội địa 30 km.
Đã phát sinh mâu thuẫn quy mô lớn trong sử
dụng nguồn nước mặt khá lớn trong vùng bán
đảo (Cục Quản lý TNN, 2008). Vùng phát sinh
mâu thuẫn lớn nhất là 2 tính Bạc Liêu và Sóc
Trăng, tranh chấp trong việc lấy nước mặn để
nuôi tôm (Bạc Liêu) với giữ ngọt để trồng lúa
(Sóc Trăng).
3.2. Đánh giá chất lượng nước mặt vùng
BĐCM
Theo kết quả quan trắc chất lượng nước mặt
vùng BĐCM, để đánh giá được xu thế biến đổi
chất lượng nước mặt trong vùng, mẫu nước mặt
được quan trắc vào 2 mùa (mùa mưa và mùa
khô). Mùa khô được tiến hành lấy mẫu từ ngày
12 – 19/4/2016; mùa mưa từ 28 – 29/6/2016. Vị
trí quan trắc như trong Hình 1.
Hình 1. Vị trí lấy mẫu nước mặt vùng BĐCM
Qua kết quả quan trắc CLN mặt trong vùng
(Viện Khoa học Thủy lợi Miền Nam, 2016)
thấy rằng:
- Nguồn nước trong khu vực không bị nhiễm
phèn cho dù một số điểm lấy mẫu ngay vào thời
điểm đầu mùa mưa. Một số khu vực cần cảnh
bao có nguy cơ nhiễm phèn như tại Bạc Liêu,
Sóc Trăng có giá trị pH khá thấp cho thấy khu
vực này bị ảnh hưởng khá nặng của hiện tượng
rửa phèn;
- Độ mặn của nước có biến đổi khá phức tạp.
Các khu vực của Cần Thơ và phần lớn Hậu
Giang nguồn nước không bị nhiễm mặn. Các
khu vực ven biển từ Kiên Giang đến Sóc Trăng
phần lớn các điểm nhiễm mặn khá lớn và đáng
chú ý có khá nhiều vị trí độ mặn của nước vượt
35‰. Với độ mặn này ảnh hưởng khá lớn đến
hoạt động nuôi tôm ven biển. Vào đầu mùa
mưa, mặc dù mưa chưa lớn nhưng mặn đã được
cải thiện rất rõ so với mùa khô cho thấy tác
động của mưa đến nguồn nước là khá lớn.
- Tại các khu vực ven biển từ Kiên Giang đến
Sóc Trăng nguồn nước đã có dấu hiệu ô nhiễm
khá lớn bởi chất hữu cơ. Đây là điểm cảnh báo
đối với các hoạt động nuôi trồng thủy sản trong
toàn khu vực này.
- Mức độ nhiễm khuẩn nguồn nước là rất lớn
cho thấy nguồn nước tiềm ẩn nhiều yếu tố mất
an toàn có thể lan truyền trong nguồn nước.
KHOA HC K THUT THuhoahoiY LI VÀ MÔI TRuchoaNG uhoahoiuhoahoiuhoahoi - S 58 (9/2017) 106
Áp dụng phương pháp tính chỉ số chất lượng
nước (WQI) của Bộ Tài nguyên và Môi trường
(Sổ tay hướng dẫn tính toán chỉ số chất lượng
nước Ban hành kèm theo Quyết định số 879
/QĐ-TCMT ngày 01 tháng 7 năm 2011 của
Tổng cục trưởng Tổng cục Môi trường), để so
sánh, đánh giá chất lượng nước giữa các khu
vực trong vùng BĐCM.
Chỉ số chất lượng nước (WQI) là một chỉ số
được tính toán từ các thông số quan trắc chất
lượng nước, dùng để mô tả định lượng về chất
lượng nước và khả năng sử dụng của nguồn
nước đó; được biểu diễn qua một thang điểm
(Bảng 3.1).
Bảng 1. Mức đánh giá chất lượng nước theo giá trị WQI
Giá trị WQI Mức đánh giá chất lượng nước Màu
91 - 100 Sử dụng tốt cho mục đích cấp nước sinh hoạt Xanh nước biển
76 - 90 Sử dụng cho mục đích cấp nước sinh hoạt nhưng cần các biện pháp xử lý phù hợp Xanh lá cây
51 - 75 Sử dụng cho mục đích tưới tiêu và các mục đích tương đương khác Vàng
26 - 50 Sử dụng cho giao thông thủy và các mục đích tương đương khác Da cam
0 - 25 Nước ô nhiễm nặng, cần các biện pháp xử lý trong tương lai Đỏ
Đối với vùng BĐCM, kết quả tính chỉ số chất
lượng nước WQI theo 2 đợt đo (mùa khô và
mùa mưa) được thể hiện trong Hình 2 và 3 cho
thấy:
- Vào mùa khô, kết quả chỉ số WQI có giá trị
thấp (0-25) tương ứng với mức đánh giá chất
lượng nước là ô nhiễm nặng chiếm 45% (Hình
3.2). Tại các vị trí quan trắc phía nam Bán đảo
Cà Mau WQI lớn hơn các vùng còn lại, hầu hết
giá trị WQI từ 51 – 75 (màu vàng), đồng nghĩa
với CLN của vùng phía nam Bán đảo Cà Mau
tốt hơn. Theo Bảng 3.1, nước mặt của vùng này
có thể sử dụng cho mục đích cấp nước tưới, tuy
nhiên đây là vùng ven biển, độ mặn lớn, do vậy
cần phải kết hợp quan trắc độ mặn trước khi cấp
nước tưới cho nông nghiệp. Có thể thấy rằng,
vùng này là vùng cuối nguồn, giáp biển nên có
sự trao đổi nước (triều) nên nồng độ các chất ô
nhiễm giảm. Trong khi đó, vùng phía Bắc của
Bán đảo bao gồm TP. Cần Thơ, Sóc Trăng, Bạc
Liêu và Hậu Giang trao đổi nước kém nên hàm
lượng các chất ô nhiễm cao. Hơn nữa, đây là
khu vực có tốc độ đô thị hóa cũng như phát triển
công nghiệp nhanh nhất vùng BĐCM. Một số
sông/kênh bị ô nhiễm nặng (WQI = 0-25) chủ
yếu bao gồm kênh KH6, Xà No, kênh tiếp nhận
nước thải của KCN Trà Nóc (TP. Cần Thơ),
KCN Tắc Cẩu (Kiên Giang); Kênh tiếp nhận
nước thải của các nhà máy chế biến thực phẩm,
nhà máy đường (Hậu Giang), các kênh tiếp nhận
nước thải của Thành phố Sóc Trăng và kênh
Bạc Liêu – Cà Mau (tiếp nhận nước thải từ các
nhà máy chế biến thủy sản ở dọc kênh);
- Vào mùa mưa, kết quả chỉ số WQI có giá
trị thấp (0-25) tương ứng với mức đánh giá chất
lượng nước là ô nhiễm nặng chiếm 52% (cao
hơn mùa khô). Có thể thấy rằng, chất lượng
nước của các sông/kênh trong vùng BĐCM kém
hơn so với mùa khô, phạm vi ô nhiễm đã lan
rộng đến cả vùng phía nam của Bán đảo (Hình
3.3). Trong đó, ô nhiễm nước trên sông/kênh tập
trung chủ yếu tại các khu đô thị, KCN của các
tỉnh/thành phố Cần Thơ, Sóc Trăng, Bạc Liêu,
Cà Mau và Vị Thanh (Hậu Giang);
KHOA HC K THUT THuhoahoiY LI VÀ MÔI TRuchoaNG uhoahoiuhoahoiuhoahoi - S 58 (9/2017) 107
Hình 2. Bản đồ kết quả tính WQI vùng
BĐCM (mùa khô)
Hình 3. Bản đồ kết quả tính WQI vùng BĐCM
(mùa mưa)
3.3. Đánh giá nguyên nhân gây ô nhiễm
nước sông vùng BĐCM
Có 4 nguồn thải chính tác động đến môi
trường nước mặt trong vùng BĐCM: nước thải
nông nghiệp, công nghiệp, sinh hoạt và y tế.
Có thể thấy rằng, các hoạt động phát triển công
nghiệp và các ngành khác trong vùng cũng có
bước phát triển đáng kể, với ngành chủ đạo là
chế biến nông phẩm, thủy sản. Các KCN nhỏ lẻ
và tập trung hầu như chưa được đầu tư xây
dựng hệ thống xử lý nước thải nên là nguồn
phát thải đáng kể và đang gia tăng nhanh. Các
hoạt động khác như quá trình đô thị hóa, hay
khai thác thủy điện từ các quốc gia ở khu vực
thượng nguồn sông Mê Công cũng đang là
những tác nhân có nguy cơ gây ô nhiễm môi
trường khu vực ĐBSCL nói chung và vùng
BĐCM nói riêng.
a) Các nguồn thải xả vào hệ thống sông,
kênh vùng BĐCM
- Nguồn thải từ sản xuất nông nghiệp:
BĐCM nằm trong vùng kinh tế nông nghiệp
trọng điểm của nước ta. Mặc dù, diện tích sản
xuất nông nghiệp trong vùng giảm trong vòng
hai thập kỷ qua, nhưng năng suất liên tục tăng
cao. Việc năng suất tăng cao thường đi liền với
sử dụng nhiều thuốc trừ sâu và phân bón hóa
học. Nước thải từ hoạt động canh tác nông
nghiệp được xem là nguồn thải phân tán và hầu
như không thể kiểm soát được trong quá trình
canh tác. Kết quả nghiên cứu cho thấy có
khoảng 70% lượng phân bón do cây và đất hấp
thụ, còn khoảng 30% đưa vào môi trường nước.
Do đặc trưng nước thải của hoạt động sản xuất
nông nghiệp là nguồn thải phân tán, nên việc
việc kiểm soát, quản lý ô nhiễm là rất khó khăn:
Các hệ thống canh tác trồng lúa thâm canh,
lượng thuốc bảo vệ thực vật và phân bón sử
dụng trong nông nghiệp, chủ yếu là thuốc trừ
sâu do nông dân dùng cũng đã tăng lên rất đáng
kể do tăng mùa vụ canh tác. Từ đó, lượng thuốc
trừ sâu được sử dụng cũng tăng lên. Điều này
gây ảnh hưởng không nhỏ đến môi trường nước.
Còn việc xử lý phụ phẩm nông nghiệp như rơm,
rạ, trấu chủ yếu bằng cách đốt làm tro bón
ruộng. Thậm chí, có địa phương, người dân còn
tận dụng các ao, hồ và nơi trũng để đổ rác thải,
điều này có nguy cơ gây ô nhiễm nguồn nước
mặt và cả nước ngầm. Ngoài ra còn có các hộ
chăn nuôi gia đình phân bố rải rác trên các
huyện, thị xã, thành phố. Hoạt động chăn nuôi
đã làm phát sinh khối lượng lớn nước thải gây ô
nhiễm môi trường nước mặt.
- Nguồn thải từ nuôi trồng thủy sản: Trong
những năm gần đây, nuôi trồng thủy sản ở khu
vực BĐCM đã có một bước phát triển với diện
tích và sản lượng nuôi trồng với quy mô lớn.
Đồng thời, các hoạt động trong nuôi trồng và
KHOA HC K THUT THuhoahoiY LI VÀ MÔI TRuchoaNG uhoahoiuhoahoiuhoahoi - S 58 (9/2017) 108
chế thủy sản ở BĐCM đã phát sinh các nguồn
chất thải rắn, chất thải lỏng, khí thải gây ô
nhiễm môi trường. Ô nhiễm môi trường nước từ
hoạt động nuôi thuỷ sản gây ra do mật độ thả
nuôi cao, lượng thức ăn và kháng sinh sử dụng
nhiều dẫn đến tình trạng nước ao nuôi bị ô
nhiễm và nước thải từ quá trình nuôi không
được xử lý đạt quy chuẩn trước khi thải vào môi
trường; bên cạnh đó BĐCM là vùng tập trung
nhiều các loại đất phèn tiềm tàng và phèn hoạt
động, sau mùa thu hoạch đã làm cho tầng phèn
tiềm ẩn bị tác động sẽ diễn ra quá trình lan
truyền phèn rất nhanh làm giảm độ pH môi
trường nước. Tại những khu vực nuôi trồng thủy
sản, nguồn gây ô nhiễm chính là bùn phù sa
lắng đọng trong ao nuôi trồng thủy sản thải ra
hàng năm trong quá trình vệ sinh và nạo vét ao
nuôi. Ngoài ra, thành phần thức ăn nuôi trồng
thuỷ sản chỉ có 17% trọng lượng khô của thức
ăn được chuyển thành sinh khối, phần còn lại
được thải ra môi trường dưới dạng phân và chất
hữu cơ dư thừa thối rữa. Một vấn đề quan trọng
là chất thải ao nuôi công nghiệp, đây là nguồn
có thể gây ô nhiễm môi trường và dịch bệnh
thủy sản phát sinh trong môi trường nước. Hiện
nay, vấn đề xử lý nguồn bùn thải, chất thải nuôi
trồng thuỷ sản còn rất hạn chế chưa đáp ứng các
yêu cầu quy chuẩn môi trường quy định. Thêm
vào đó, nước thải từ hoạt động nuôi trồng thủy
sản cũng thường không được kiểm soát, không
được xử lý (hoặc chỉ thông qua quá trình lắng sơ
bộ), thải trực tiếp ra môi trường, gây tác động
đáng kể đến chất lượng nước mặt. Sự cố tôm, cá
chết do bệnh cũng thường xảy ra, nếu không
kiểm soát tốt sẽ gây ảnh hưởng nghiêm trọng
đến chất lượng nước mặt.
- Nguồn thải công nghiệp: cơ cấu ngành công
nghiệp trong vùng BĐCM phổ biến vẫn là công
nghiệp chế biến nông nghiệp và thủy sản. Hầu
hết các khu, cụm công nghiệp sản xuất tập trung
trên địa bàn các tỉnh vùng BĐCM đều nằm dọc
tuyến sông Hậu. Việc xả nước thải không qua
xử lý hoặc xử lý không đạt tiêu chuẩn là một
trong những nguyên nhân gây ô nhiễm môi
trường nước tại các dòng sông này. Trên tuyến
sông Hậu, hiện có 22 KCN đã đi vào hoạt động,
chủ yếu là lĩnh vực chế biến thủy sản đông lạnh
xuất khẩu. Với tổng diện tích gần 5.000 ha, nếu
lấp đầy diện tích đất sẽ phát sinh lượng nước
thải vào khoảng 180.000 - 200.000 m3/ngày.
Hầu hết các khu, cụm công nghiệp đã đi vào
hoạt động nhưng chưa có hệ thống xử lý nước
thải tập trung, chỉ có 7/22 KCN có hệ thống
này. Nước thải từ hoạt động sản xuất của các
doanh nghiệp trong khu, cụm công nghiệp chỉ
xử lý sơ bộ rồi đấu nối vào hệ thống thoát nước
thải của khu, cụm công nghiệp, sau đó thải ra
sông Hậu.
- Nguồn thải từ sinh hoạt: vùng BĐCM với
các trung tâm đô thị lớn như TP Cần Thơ, Sóc
Trăng, Bạc Liêu, Vị Thanh, Cà Mau và Kiên
Giang. Đây là vùng có mức độ đô thị hóa tương
đối cao và có tỷ lệ dân cư sống ở các đô thị cao
của vùng BĐSCL. Chính vì vậy, nước thải sinh
hoạt chiếm tỷ lệ rất cao trong số các nguồn thải
của khu vực. Trong số các nguồn tiếp nhận
nước thải đô thị, sông Hậu tiếp nhận lượng chất
thải nhiều nhất với 66,6% tổng tải lượng BOD5.
Đây là một trong những nguồn thải cơ bản nhất
gây nên tình trạng ô nhiễm môi trường nước
trong vùng, đặc biệt là ô nhiễm hữu cơ, ô nhiễm
do dầu mỡ, chất hoạt động bề mặt và vi trùng
gây bệnh.
- Nguồn thải từ y tế: hầu hết các cơ sở y tế tại
vùng BĐCM đều chưa được đầu tư hệ thống xử
lý nước thải y tế. Nước thải y tế có tính chất độc
hại, ô nhiễm nhưng vẫn chưa được thu gom, xử
lý triệt để. Tại vùng BĐCM tỷ lệ cơ sở khám
chữa bệnh được xử lý nước thải còn khá thấp
(chiếm 55%). Nguồn thải này là một trong
những tác nhân gây ô nhiễm môi trường nghiêm
trọng cho nguồn tiếp nhận và vùng lân cận.
Theo ước tính sơ bộ, tổng lượng nước thải xả
vào nguồn nước xả vào hệ thống sông/kênh
trong vùng BĐCM là 298.916 m3/ngày.đêm.
Trong đó lượng nước thải do hoạt động công
nghiệp chiếm cao nhất (63%); sinh hoạt là 27%;
nguồn khác là 9% và nước thải y tế chiếm
khoản 1%.
4. ĐỀ XUẤT CÁC GIẢI PHÁP KHAI
THÁC, QUẢN LÝ NGUỒN NƯỚC MẶT
VÙNG BĐCM
Trong vùng BĐCM đã gia tăng ô nhiễm
nguồn nước mặt do ảnh hưởng của nước thải
trong quá trình phát triển công nghiệp, nước thải
sinh hoạt, hoạt động chăn nuôi, NTTS và hóa
chất BVTV trong sản xuất nông nghiệp. Nhằm
giảm thiểu ô nhiễm môi trường nước mặt trong
KHOA HC K THUT THuhoahoiY LI VÀ MÔI TRuchoaNG uhoahoiuhoahoiuhoahoi - S 58 (9/2017) 109
vùng BĐCM thì cần triển khai đồng bộ các
nhóm giải pháp ưu tiên, cụ thể như sau:
- Đẩy mạnh ứng dụng các thành tựu kỹ thuật
và công nghệ về sản xuất sạch, sạch hơn nhằm
phòng ngừa ô nhiễm tại nguồn trong các hoạt
động sản xuất và phát triển kinh tế - xã hội;
- Đẩy mạnh ứng dụng các giải pháp kỹ thuật
nhằm hoàn thiện hệ thống tiêu thoát nước mưa
và thu gom, xử lý nước thải đô thị, nông thôn,
KCN, CCN; nạo vét, cải tạo các kênh, rạch bị ô
nhiễm nặng tại các đô thị và vùng nông thôn.
- Xử lý nước thải ô nhiễm tại khu, cụm công
nghiệp, cơ sở sản xuất; cải tạo, phục hồi môi
trường các ao hồ, kênh, mương, đoạn sông trong
các đô thị, khu dân cư đang bị ô nhiễm môi
trường nghiêm trọng; thu gom, xử lý nước thải
sinh hoạt tập trung, cải tạo, nâng cấp hệ thống
thoát nước đô thị;
- Tăng cường công tác giám sát, dự báo, cảnh
báo ô nhiễm nước sông, kênh trong vùng BĐCM;
Để cải thiện tình hình khai thác và quản lý
nước ngọt phục vụ nông nghiệp cần phải chú ý
tới các vấn đề sau:
- Hệ thống kênh trục lấy nước từ sông Hậu
vào, thông qua 33 tuyến kênh trục và cấp 1,
trong đó các kênh thuộc vùng TSH ngoài nhiệm
vụ cấp nước cho bản thân vùng, còn có nhiệm
vụ cấp nước cho vùng BĐCM.
- Cần phải nạo vét mở rộng các kênh cấp 1 ở
vùng U Minh Thượng, U Minh Hạ để dẫn nước
và trữ nước các tháng mùa khô.
- Cần bổ sung hoàn chỉnh xây dựng hệ thống
đê, cống ngăn mặn ở dọc sông Hậu từ Đại Ngãi
đến cửa kênh số 1 thuộc tiểu vùng Kế Sách; dọc
sông Cái Lớn - Cái Bé, ven biển Tây (kết hợp với
hệ thống đê biển, đê sông), bờ bắc sông Đốc.
- Phát triển đồng bộ hệ thống kênh mương
các cấp và hệ thống nội đồng theo yêu cầu của
từng vùng. Các kênh thiếu năng lực cần được
nạo vét mở rộng, bổ sung kênh mới nơi mật độ
kênh còn thấp.
- Xây dựng hệ thống bờ bao trữ nước ở các
quy mô khác nhau: đối với rừng tràm thiết lập
hệ thống tập trung, đối với cây trồng hàng năm
hệ thống trữ nước cấp nội đồng rất quan trọng
trong việc điều tiết chống hạn. Ngoài ra dung
tích lòng kênh của hệ thống kênh mương cũng
được sử dụng để trữ nước thông qua vận hành
hệ thống cống hoặc hệ thống đập tạm.
- Đưa nước lên ruộng: đặc thù địa phương là
vùng có hệ thống kênh mương khá dày, để đưa
nước lên mặt ruộng nên sử dụng bơm nhỏ sẽ dễ
dàng trong công tác quản lý, vận hành, đầu tư
công trình đầu mối nhỏ, hình thức này phù hợp
với chế độ sử dụng đất hiện nay.
5. KẾT LUẬN
Đây là nghiên cứu dựa vào kết quả quan trắc
CLN của đề tài “Nghiên cứu dự báo và giải
pháp giảm thiểu sự lan truyền ô nhiễm theo
dòng chảy phục vụ nuôi trồng thủy sản vùng
Bán đảo Cà Mau”. Vùng Bán đảo Cà Mau có
nguồn tài nguyên nước mặt khá phong phú,
nguồn thủy sinh vô cùng phong phú; đó là các
ngư trường dồi dào hải sản, là nơi nuôi trồng
đánh bắt thủy sản... đã mang lại nguồn lợi kinh
tế lớn cho các địa phương trong vùng.
Tuy nhiên, do sức ép ngày càng gia tăng của
quá trình phát triển KT-XH, công nghiệp hóa,
đô thị hóa và gia tăng dân số. Các loại nước thải
phát sinh làm suy thoái, ô nhiễm môi trường
nước. Có 4 nguồn thải chính tác động đến môi
trường nước mặt trong vùng BĐCM: nước thải
nông nghiệp, công nghiệp, sinh hoạt và y tế.
Chất lượng môi trường nước đang bị ô nhiễm
cục bộ, một số nơi ô nhiễm kéo dài và có xu
hướng gia tăng, đặc biệt là tại khu vực đô thị. Ô
nhiễm môi trường tại khu công nghiệp, làng
nghề, các cơ sở ô nhiễm môi trường nghiêm
trọng chưa được xử lý dứt điểm. Nguồn nước
thải từ các thành phố, thị xã, thị trấn, các
KCN/CCN... hiện tại đã lan truyền rất rộng
trong Bán đảo, ảnh hưởng đến cấp nước sinh
hoạt, các vùng sản xuất nông nghiệp, thủy sản.
Kết quả tính toán WQI đã đánh giá được
tổng quát chất lượng nước mặt trong vùng
BĐCM. Trong đó đã xác định được các vị trí ô
nhiễm nghiêm trọng (giá trị từ 0-25), đây là
những vị trí có nguồn nước bị ô nhiễm nặng,
cần có biện pháp xử lý ngay, chủ yếu tập trung
tại các thành phố Cần Thơ, Sóc Trăng, Cà
Mau... Các vùng giữa Bán đảo bị ô nhiễm
nghiêm trọng hơn các vùng ven biển do trao đổi
nước kém. Đặc biệt, kết quả quan trắc CLN vào
mùa mưa tăng hơn mùa khô và phạm vi ô nhiễm
rộng hơn.
Nghiên cứu cũng đã đề xuất được các giải
pháp ô nhiễm nguồn nước mặt, trong đó cần
quản lý chặt chẽ các nguồn xả thải chính như
KHOA HC K THUT THuhoahoiY LI VÀ MÔI TRuchoaNG uhoahoiuhoahoiuhoahoi - S 58 (9/2017) 110
trên. Đồng thời, đưa ra các giải pháp khai thác,
quản lý nguồn nước mặt trong vùng BĐCM.
Nhằm giải quyết các vấn đề thực tế đang tồn
tại về khai thác và bảo vệ nguồn nước vùng Bán
đảo Cà Mau. Nghiên cứu cũng đánh giá được
thực trạng nguồn nước, phục vụ thiết thực cho
công tác quản lý và bảo vệ tài nguyên nước nhằm
đáp ứng nhu cầu phát triển bền vững về kinh tế
xã hội của vùng BĐCM. Trong đó, các tỉnh trong
vùng BĐCM cần huy động tổng hợp các nguồn
lực của các ngành, các cấp và cộng đồng để triển
khai hiệu quả, đồng bộ các giải pháp giảm thiểu
ô nhiễm môi trường nước mặt nhằm đảm bảo
mục tiêu phát triển bền vững KT-XH.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Bộ Tài nguyên và Môi trường (2015), Báo cáo môi trường quốc gia 2014, Hà Nội.
Cục Quản lý Tài nguyên nước (2008), Báo cáo “Điều tra tình hình khai thác, sử dụng tài nguyên
nước, xả nước thải vào nguồn nước vùng vùng Bán đảo Cà Mau”, Hà Nội.
TS. Trịnh Thị Long (2012), Đề tài cấp Bộ NN-PTNT: "Nghiên cứu giải pháp phục vụ phát triển bền
vững các vùng nuôi tôm", Viện Khoa học Thủy lợi miền Nam.
PGS. TS Tăng Đức Thắng (2010), Đề tài cấp Nhà nước: "Nghiên cứu giải pháp thủy lợi phục vụ
phát triển bền vững vùng Bán đảo Cà Mau", Viện Khoa học Thủy lợi miền Nam.
GS. TS Tăng Đức Thắng (2015), Đề tài trọng điểm Bộ NN&PTNT "Nghiên cứu các biện pháp khoa
học công nghệ đánh giá và quản lý nguồn nước, giảm thiểu ô nhiễm trong các hệ thống thủy lợi
ĐBSCL", Viện Khoa học Thủy lợi Miền Nam.
Viện nghiên cứu nuôi trồng thủy sản 2 (2013), Báo cáo nhiệm vụ quan trắc thường xuyên "Quan
trắc cảnh báo môi trường một số vùng nuôi thủy sản các tỉnh Đồng bằng sông Cửu Long và
miền Đông Nam Bộ”, Thành phố Hồ Chí Minh.
Viện nghiên cứu nuôi trồng thủy sản 2 (2013), Báo cáo tổng kết đề tài "Đánh giá sức tải môi
trường sông Tiền và sông Hậu phục vụ quy hoạch nuôi cá tra bền vững trên sông Tiền và sông
Hậu", Thành phố Hồ Chí Minh.
Abstract:
ASSESSMENT AND PROPOSED SOLUTIONS MANAGEMENT
FOR SURFACE WATER RESOURCES IN CA MAU PENINSULA
In recent years, the socio-economic development of Ca Mau Peninsula is in a rapidly growing.
Besides, there is the rapid change process for production, especially from ecology of freshwater
zone to ecology of saline zone (from rice to shrimp farming) which leads to the infrastructure could
not adopt require of production, especially irrigation system. In the past, water was used primarily
for agriculture, but now it is also supplied for aquaculture, which has led to appear many
shortcomings in the irrigation system. Moreover, under the pressure of economic development and
rapid population growth, the water demand in the study area has been increasing. Discharging into
water sources has caused more serious water pollution. For the Ca Mau Peninsula, the areas most
affected by the deterioration in water resources are the transition areas of the production model
from rice to shrimp farming, or industrial and service zones. This article will be shown the result of
the survey and assessment of the status of exploitation and use of water resources and the
assessment of surface water quality in order to propose solutions to manage and reduce surface
water pollution in the study area.
Keywords: Ca Mau Peninsula, Exploitation and use of water resources, water quality and water
resources management.
Ngày nhận bài: 28/8/2017
Ngày chấp nhận đăng: 13/9/2017
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 31683_106119_1_pb_4251_2070320.pdf