Kết quả nghiên cứu của chúng tôi, trong lúc
phẫu thuật nhóm P sử dụng thuốc co mạch
ephedrine là 20 BN (66,7%) có tỉ lệ sử dụng
nhiều hơn hẳn nhóm S là 4 BN (12,9%), sự khác
biệt có ý nghĩa thống kê (p=0,00). Với thuốc
nicardipine, nhóm P là 12 BN (40,0%) cũng có tỉ
lệ sử dụng nhiều hơn hẳn nhóm S là 5 BN
(16,1%), sự khác biệt có ý nghĩa thống kê
(p=0,03). Thời gian ngừng inotrope của nhóm S
là 29,08 ± 31,55 giờ sớm hơn so với nhóm P là
43,58 ± 23,60 giờ, sự khác biệt có ý nghĩa thống
kê (p=0.04). Kết quả của chúng tôi cũng tương tự
với nghiên cứu của Ndoko S.K. và cs (6) trên 280
BN phẫu thuật van tim, bắc cầu MV hoặc phối
hợp, tác giả đã nhận xét nhóm thuốc mê hô hấp
có thời gian ngừng inotrope sớm hơn nhóm
thuốc mê tĩnh mạch. Với những chứng cứ trên,
cho thấy nhóm S cải thiện, hồi phục và ổn định
huyết động nhanh hơn nhiều so với nhóm P,
nhu cầu cần hỗ trợ inotrope ít hơn, do đó mà
thời gian ngừng inotrope cũng sớm hơn. Như
vậy, sevoflurane làm giảm nhu cầu sử dụng
thuốc vận mạch cũng như thuốc inotrope, do cải
thiện sớm chức năng co bóp của cơ tim tốt hơn
so với propofol.
Trong nghiên cứu của chúng tôi không có sự
khác biệt giữa 2 nhóm về thời gian rút nội khí
quản, thời gian nằm hồi sức và thời gian nằm.
Các BC loạn nhịp tim, viêm phổi, suy thận,
nhiễm trùng huyết, truyền máu và các chế
phẩm do chảy máu ở nhóm P có tỉ lệ nhiều
hơn so với nhóm S, không có BN nào bị
NMCT hoặc tử vong trong nghiên cứu. Tuy
nhóm P có tỉ lệ BC nhiều hơn so với nhóm S,
nhưng số liệu của 2 nhóm không có sự khác
biệt. Các BC sau phẫu thuật trong nghiên cứu
của chúng tôi có tỉ lệ thấp ở cả 2 nhóm và
không có sự khác biệt do cở mẫu nghiên cứu
không lớn, theo dõi các BC trong thời gian
ngắn, chỉ trong thời gian nằm viện.
5 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 07/02/2022 | Lượt xem: 150 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đánh giá hiệu quả bảo vệ cơ tim của Sevoflurane trong phẫu thuật van tim, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 2 * 2014
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Chợ Rẫy 2013 442
ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ BẢO VỆ CƠ TIM
CỦA SEVOFLURANE TRONG PHẪU THUẬT VAN TIM
Lê Hữu Đạt*
TÓM TẮT
Mục tiêu: Đánh giá tính ổn định huyết động trong và sau mổ, hiệu quả bảo vệ cơ tim qua tỉ lệ bệnh nhân
phải sốc điện, thay đổi men tim, sử dụng thuốc vận mạch. Đánh giá kết quả sau mổ qua thời gian rút ống nội khí
quản, thời gian nằm hồi sức, thời gian nằm viện cũng như các biến chứng và tỉ lệ tử vong trên những bệnh nhân
phẫu thuật van tim được gây mê với sevoflurane.
Đối tượng và phương pháp: Nghiên cứu thử nghiệm lâm sàng trên 61 bệnh nhân được phẫu thuật van
tim, từ tháng 10/2011 đến tháng 4/2012 tại Bệnh viện Chợ Rẫy.
Kết quả: Nhóm bệnh nhân nghiên cứu có tỉ lệ sốc điện, men tim thời điểm 24 giờ sau mổ, nhu cầu sử dụng
thuốc inotrope có tỉ lệ thấp hơn có ý nghĩa so với nhóm sử dụng propofol.
Kết luận: Sevoflurane có hiệu quả bảo vệ bảo vệ cơ tim trong phẫu thuật van tim.
Từ khóa: Sevoflurane, phẫu thuật van tim, nhồi máu cơ tim, bảo vệ cơ tim, men tim, thuốc tăng co bóp
cơ tim.
ABSTRACT
EVALUATING CARDIOPROTECTIVE EFFECTS OF SEVOFLURANE IN VALVE SURGERY
Le Huu Dat * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 18 - Supplement of No 2 - 2014: 442-446
Objective: Evaluating hemodynamic stability, cardioprotection effects based on electric shock, cardiac
enzyme change, inotrope needs. Evaluating postoperation results by extubation time, ICU time, hospital time,
complications and mortality rate in valve surgery with sevoflurane.
Subjects and method: Clinical trial study on 61 patients in valve surgery, from October 2011 to April 2012
at Cho Ray hospital.
Results: The patient group of sevoflurane has electric shock rate, cardiac enzyme at 24 hours after surgery
and inotrope needs is significantly lower than patient group received propofol.
Conclusion: Sevoflurane has cardioprotection effects in valve surgery.
Key words: Sevoflurane, valve surgery, myocardiac infarction, cardiosprotection, cardiac enzyme, inotrope.
ĐẶT VẤN ĐỀ
Thiếu máu cục bộ cơ tim (TMCBCT) và nhồi
máu cơ tim (NMCT) chu phẫu luôn là những
biến chứng (BC) phức tạp và gây ra những hậu
quả nặng nề, chúng góp phần gia tăng tỉ lệ tử
vong trong những ngày đầu sau phẫu thuật. Vì
vậy đã có nhiều công trình nghiên cứu tìm biện
pháp bảo vệ cơ tim (BVCT), nhằm phần nào hạn
chế những BC và tử vong sau phẫu thuật. Chọn
lựa thuốc mê, kỹ thuật gây mê phù hợp với tình
trạng bệnh lý của bệnh nhân (BN) là một trong
những biện pháp BVCT đã được đề cập trong y
văn. Năm 1986 Murry (7) mô tả cơ chế tiền thích
nghi với TMCT, sau đó đã có nhiều tác giả ở các
trung tâm trên thế giới nghiên cứu tác dụng
BVCT thông qua cơ chế tiền thích nghi của thuốc
mê hô hấp. Với đặc điểm BVCT, sevoflurane
được nghiên cứu và sử dụng trong phẫu thuật
van tim ngày càng nhiều hơn. Mục tiêu nghiên
* Khoa Phẫu thuật-Gây mê hồi sức, Bệnh viện Chợ Rẫy
Tác giả liên lạc: BS CKII Lê Hữu Đạt, ĐT: 0913134497, Email: dhtp4961@yahoo.com
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 2 * 2014 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Chợ Rẫy 2013 443
cứu của chúng tôi nhằm đánh giá tính ổn định
huyết động trong và sau phẫu thuật, hiệu quả
BVCT qua các đặc điểm của tim tự đập lại sau
khi tháo kẹp động mạch chủ (ĐMC), sự thay đổi
của men tim, tỉ lệ bệnh nhân sử dụng và thời
gian ngừng thuốc vận mạch, đánh giá kết quả
sau mổ qua thời gian rút ống nội khí quản
(NKQ), thời gian nằm hồi sức, thời gian nằm
viện cũng như các BC và tỉ lệ tử vong trên những
BN phẫu thuật van tim.
ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Phương pháp nghiên cứu
Nghiên cứu thử nghiệm lâm sàng.
Đối tượng nghiên cứu
BN mổ chương trình bệnh lý van 2 lá, van
ĐMC, van 3 lá và bệnh lý đa van, NYHA: I –IV,
ASA: I – IV. Loại trừ: chống chỉ định với:
sevoflurane, propofol, tiền sử mổ tim, có tai biến
trong lúc gây mê, tuần hoàn ngoài cơ thể
(THNCT) và phẫu thuật, tiền căn gia đình có
người tăng thân nhiệt ác tính trong phẫu thuật.
Cỡ mẫu và phương pháp lấy mẫu
Theo nghiên cứu của Landoni G.và cs (5),
sevofluranelàm giảm tỉ lệ BN bị NMCT sau phẫu
thuật là 2,4% so với 5,1% nhóm chứng không sử
dụng sevoflurane. Để có 95% tin tưởng nhằm
xác định được tỉ lệ như trên với sai số cho phép
là 10%, cỡ mẫu tối thiểu là 28 trường hợp cho
mỗi nhóm. Phân nhóm BN theo phương pháp
mở phong bì, nhóm P: BN được sử dụng
propofol và fentanyl, nhóm S: BN được sử dụng
sevoflurane và fentanyl. Thời gian nghiên cứu từ
tháng 10/ 2011 đến tháng 4/2012 tại Bệnh viện
Chợ Rẫy.
Phương pháp thực hiện
Phương pháp vô cảm là gây mê đặt NKQ, cả
hai nhóm P và S đều được tiền mê giống nhau
với midazolam, dẫn mê giống nhau với propofol
và fentanyl, vecuronium để đặt NKQ. Sau khi
dẫn mê, nhóm P tiếp tục dùng propofol trong
suốt cuộc mổ, nhóm S ngừng propofol và
chuyển sang duy trì bằng sevoflurane đến cuối
cuộc mổ. Cả 2 nhóm được giảm đau bằng
fentanyl và dãn cơ vecuronium để duy trì tác
dụng.
Heparine được cho vào đường TM trung
tâm, THNCT bắt đầu hoạt động khi thời gian
đông máu được hoạt hóa (ACT) trên 420 giây.
Trong lúc THNCT, sevoflurane được duy trì
bằng bình bốc hơi của máy THNCT, hạ thân
nhiệt về 320C - 340 C. Sau khi ngừng THNCT,
dùng protamine trung hòa heparine theo tỉ lệ
1:1,2. Trong và sau mổ: ổn định huyết động bằng
các thuốc vận mạch và inotrope, điều chỉnh
lượng máu mất và các yếu tố đông máu, cân
bằng điện giải và lượng dịch xuất nhập.
Theo dõi trong và sau mổ: mạch (M). huyết
áp (HA), CVP và ECG trên monitor, theo dõi các
đặc điểm của tim đập lại sau khi tháo kẹp ĐMC,
đo men tim sau khi dẫn đầu, kết thúc mổ và mỗi
8 giờ tính từ thời điểm nhập hồi sức. Đo ECG 12
chuyển đạo ngay khi đến phòng hồi sức và sáng
hôm sau để phát hiện dấu hiệu TMCT, NMCT.
Tỉ lệ sử dụng và thời gian ngừng thuốc vận
mạch, thuốc inotrope, ghi nhận thời gian rút ống
NKQ, thời gian nằm hồi sức, thời gian nằm viện
cũng như các BC và tỉ lệ tử vong.
Phân tích và xử lý số liệu
Các số liệu được xử lý bằng phần mềm SPSS
11.5. Các biến số định tính được mô tả bằng tần
số và tỉ lệ phần trăm. Các biến số định lượng
được mô tả bằng trung bình và độ lệch chuẩn
nếu biến số có phân phối bình thường hoặc
trung vị, giá trị nhỏ nhất, lớn nhất nếu biến số
không có phân phối bình thường. So sánh các
trung bình bằng phép kiểm t (nếu biến số có
phân phối bình thường) hoặc phép kiểm Mann -
Whitney (nếu biến số không có phân phối bình
thường). So sánh các tỉ lệ bằng phép kiểm χ2
hoặc phép kiểm chính xác Fisher. Các phép kiểm
được tiến hành với khoảng tin cậy 95%, có ý
nghĩa thống kê với p < 0,05.
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
Nghiên cứu có 61 BN được chia làm 2 nhóm:
30 BN nhóm P và 31 BN nhóm S. Không có sự
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 2 * 2014
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Chợ Rẫy 2013 444
khác biệt về các đặc điểm tuổi, giới tính, BMI,
ASA, EUROSCORE, NYHA, bệnh lý nội khoa
kèm theo, xét nghiệm cận lâm sàng và chẩn đoán
hình ảnh trước mổ, số lượng van tim và các loại
van tim được phẫu thuật, thời gian gây mê, thời
gian THNCT, thời gian kẹp ĐMC và thời gian
phẫu thuật, liều lượng thuốc giảm đau và dãn cơ
được sử dụng trong phẫu thuật cũng như các
biện pháp BVCT.
Huyết động trong và sau phẫu thuật của 2
nhóm BN được ghi nhận tại các thời điểm: dẫn
mê, cưa xương ức, sau tháo kẹp ĐMC, kết thúc
mổ, nhập hồi sức, cai máy thở, rút NKQ và 24
giờ sau phẫu thuật. Kết quả không có khác biệt
về M, HA và CVP giữa hai nhóm.
Bảng 1: Đặc điểm của tim đập lại sau khi tháo kẹp
động mạch chủ
Đặc điểm Nhóm P Nhóm S p
Tỉ lệ BN có tim đập lại
tự nhiên
12 (40,0) 21 (67,7) 0,02
Sốc điện sau mở kẹp
động mạch chủ
18 (60,0) 10 (32,3) 0,03
Thời gian tim đập lại tự
nhiên (giây)
176,2 ±
104,5
100,0 ± 75,8 0,01
Bảng 2: Sự thay đổi của men tim troponin I
troponin I (ng/ml) Nhóm P Nhóm S p
Sau khi đặt NKQ 0,02 ± 0,04 0,05 ± 0,1 0,29
Kết thúc mổ 0,8 ± 0,5 1,0 ± 1,3 0,60
8 giờ sau phẫu thuật 1,2 ± 0,7 0,9 ±0,9 0,08
16 giờ sau phẫu thuật 1,2 ± 0,6 0,9 ± 0,7 0,18
24 giờ sau phẫu thuật 0,9 ± 0,5 0,5 ± 0,3 0,00
Bảng 3: Sử dụng thuốc vận mạch, thuốc tăng co bóp
cơ tim trong và sau mổ
Nhóm P Nhóm S p
Ephedrine 20 (66,7) 4 (12,9) 0,00
Nicardipine 12 (40,0) 5 (16,1) 0,03
Thời gian ngưng inotrope
(giờ)
48,9 ± 41,3 29,0 ± 31,5 0,04
BÀN LUẬN
Nghiên cứu không có sự khác biệt về các đặc
điểm trước mổ giữa 2 nhóm BN. Theo dõi huyết
động trong quá trình mổ, không có sự khác biệt
về sự thay đổi mạch, huyết áp và CVP giữa 2
nhóm BN. Chúng tôi cũng nhận thấy M của cả 2
nhóm đều tăng nhẹ vào thời điểm cưa xương ức
so với giá trị cơ bản ban đầu lúc dẫn mê rồi dần
dần ổn định lại vào giai đoạn cuối cuộc mổ, có lẽ
cưa xương ức là một thao tác gây đau nhiều nhất
trong phẫu thuật mổ tim dẫn đến việc gia tăng
M của BN. Cả 2 nhóm có HA, CVP giảm dần vào
giai đoạn cưa xương ức cho đến sau khi tháo kẹp
ĐMC và tăng hơn vào giai đoạn kết thúc cuộc
mổ. Điều này có thể liên quan đến tình trạng dãn
mạch dưới tác dụng thuốc mê, các thao tác bóc
tách, đặt chỉ cố định và đặt các ống dẫn máu trên
các mạch máu lớn trong tim... rồi sau khi tháo
kẹp ĐMC và THNCT chấm dứt, tim đã hoạt
động trở lại cũng như BN được bồi hoàn máu,
dịch đầy đủ hơn thì HA, CVP được hồi phục
dần. Cũng như trong mổ, sự thay đổi M, HA,
CVP thời kỳ hậu phẫu của 2 nhóm đều cải thiện
dần và ổn định liên tục tại các thời điểm cai máy
thở cho đến khi rút NKQ và 24 giờ sau mổ.
Riêng M của 2 nhóm đều tăng khi vừa chuyển
đến HS, có lẽ do sự thức tỉnh khi chấm dứt thuốc
mê, các kích thích do sự thay đổi tư thế khi di
chuyển BN. Chúng tôi nhận xét sự thay đổi
huyết động trong và sau mổ của 2 nhóm không
có khác biệt, tương tự như các nghiên cứu khác
(4,3,1,2). Chúng tôi sử dụng liều fentanyl, propofol
và vecuronium cho 2 nhóm giống nhau, do đó
không có sự khác biệt về hiệu quả tác dụng của
các thuốc, để loại trừ các yếu tố gây nhiễu trong
nghiên cứu.
Phân tích các đặc điểm thời gian gây mê, thời
gian phẫu thuật, thời gian kẹp ĐMC ở cả hai
nhóm không khác biệt, do đó nguy cơ cơ tim bị
thiếu máu ở cả hai nhóm giống nhau. Các biện
pháp BVCT trong lúc THNCT ở 2 nhóm hoàn
toàn giống nhau, đó là thành phần của dung
dịch liệt tim, hạ thân nhiệt và liều lượng máu ấm
bơm rửa MV trước khi tháo kẹp ĐMC. Tuy
nhiên, kết quả thu nhận được về tính chất, đặc
điểm của tim đập lại sau khi tháo kẹp ĐMC rất
khác nhau, sự khác biệt có ý nghĩa thống kê. Với
kết quả này, chúng tôi nhận xét BN được gây mê
với sevoflurane có tim tự đập lại nhiều hơn, ít
phải sốc điện hơn và thời gian để tim tự đập lại
ngắn hơn so với BN được gây mê với propofol.
Điều này chứng tỏ sevoflurane có vai trò BVCT
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 2 * 2014 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Chợ Rẫy 2013 445
trong phẫu thuật tim dưới THNCT. Kết quả của
chúng tôi tương tự một nghiên cứu trên 65 BN
phẫu thuật MV (4), tỉ lệ BN cần sốc điện phá rung
sau khi tháo kẹp ĐMC khác biệt có ý nghĩa
thống kê.
Trong thực hành lâm sàng thường không có
triệu chứng và dấu hiệu ECG điển hình, việc
chẩn đoán NMCT sau phẫu thuật chủ yếu vẫn
dựa vào sự thay đổi men troponin I. Troponin I
của cả 2 nhóm từ giá trị cơ bản ban đầu tăng dần
lên để đạt giá trị đỉnh vào thời điểm 16 giờ sau
mổ, không có sự khác biệt nhưng vẫn có thể thấy
rằng sự phóng thích troponin I của nhóm S thấp
hơn nhóm P. Sau khi đạt giá trị đỉnh tại 24 giờ
sau phẫu thuật, troponin I cả 2 nhóm đều giảm
nhiều, đặc biệt là troponin I nhóm S giảm đáng
kể so với nhóm P (p=0,00). Điều này tương ứng
với xu hướng hồi phục sớm của cơ tim, hồi phục
nhanh chóng chức năng của cơ tim sau THNCT.
Nó phù hợp với sự phục hồi về mặt huyết động
cũng như giảm liều lượng thuốc inotrope. Ở
những BN được phẫu thuật van tim, tác giả
Cromheecke S.và cs (2) trong nghiên cứu năm
2006 ở những BN được thay van ĐMC dưới
THNCT đã nhận thấy rằng nồng độ của
troponin I được phóng thích trong thời kỳ hậu
phẫu thấp hơn đáng kể ở những BN được gây
mê bằng sevoflurane, những dữ liệu của tác giả
cho thấy việc sử dụng thuốc mê hô hấp trong
thay van ĐMC có hiệu quả bảo vệ cơ tim tốt hơn
và giảm sự phóng thích troponin I thời kỳ hậu
phẫu. Tác giả Zangrillo A.(8) báo cáo ở 72 BN
phẫu thuật van 2 lá, khi nồng độ troponin I cao ở
thời kỳ hậu phẫu sẽ kèm theo gia tăng nguy cơ
tử vong trong thời kỳ hậu phẫu ngắn hạn cũng
như hậu phẫu xa.
Kết quả nghiên cứu của chúng tôi, trong lúc
phẫu thuật nhóm P sử dụng thuốc co mạch
ephedrine là 20 BN (66,7%) có tỉ lệ sử dụng
nhiều hơn hẳn nhóm S là 4 BN (12,9%), sự khác
biệt có ý nghĩa thống kê (p=0,00). Với thuốc
nicardipine, nhóm P là 12 BN (40,0%) cũng có tỉ
lệ sử dụng nhiều hơn hẳn nhóm S là 5 BN
(16,1%), sự khác biệt có ý nghĩa thống kê
(p=0,03). Thời gian ngừng inotrope của nhóm S
là 29,08 ± 31,55 giờ sớm hơn so với nhóm P là
43,58 ± 23,60 giờ, sự khác biệt có ý nghĩa thống
kê (p=0.04). Kết quả của chúng tôi cũng tương tự
với nghiên cứu của Ndoko S.K. và cs (6) trên 280
BN phẫu thuật van tim, bắc cầu MV hoặc phối
hợp, tác giả đã nhận xét nhóm thuốc mê hô hấp
có thời gian ngừng inotrope sớm hơn nhóm
thuốc mê tĩnh mạch. Với những chứng cứ trên,
cho thấy nhóm S cải thiện, hồi phục và ổn định
huyết động nhanh hơn nhiều so với nhóm P,
nhu cầu cần hỗ trợ inotrope ít hơn, do đó mà
thời gian ngừng inotrope cũng sớm hơn. Như
vậy, sevoflurane làm giảm nhu cầu sử dụng
thuốc vận mạch cũng như thuốc inotrope, do cải
thiện sớm chức năng co bóp của cơ tim tốt hơn
so với propofol.
Trong nghiên cứu của chúng tôi không có sự
khác biệt giữa 2 nhóm về thời gian rút nội khí
quản, thời gian nằm hồi sức và thời gian nằm.
Các BC loạn nhịp tim, viêm phổi, suy thận,
nhiễm trùng huyết, truyền máu và các chế
phẩm do chảy máu ở nhóm P có tỉ lệ nhiều
hơn so với nhóm S, không có BN nào bị
NMCT hoặc tử vong trong nghiên cứu. Tuy
nhóm P có tỉ lệ BC nhiều hơn so với nhóm S,
nhưng số liệu của 2 nhóm không có sự khác
biệt. Các BC sau phẫu thuật trong nghiên cứu
của chúng tôi có tỉ lệ thấp ở cả 2 nhóm và
không có sự khác biệt do cở mẫu nghiên cứu
không lớn, theo dõi các BC trong thời gian
ngắn, chỉ trong thời gian nằm viện.
KẾT LUẬN
Qua nghiên cứu này chúng tôi nhận thấy
Sevoflurane có các ưu điểm như tỷ lệ bệnh nhân
có tim tự đập lại sau khi tháo kẹp ĐMC cao hơn,
nồng độ tropomin I vào thời điểm 24 giờ sau mổ
thấp hơn có ý nghĩa so với nhóm propofol. BN
nhóm sevoflurane có tỉ lệ sử dụng thuốc vận
mạch thấp hơn và thời gian ngừng thuốc
inotrope sớm hơn đáng kể so với BN sử dụng
propofol. Kết quả nghiên cứu của chúng tôi
tương tự với nhiều tác giả trên thế giới,
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 2 * 2014
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Chợ Rẫy 2013 446
sevoflurane nên được lựa chọn sử dụng trong
phẫu thuật van tim cũng như các phẫu thuật tim
mạch với đặc điểm bảo vệ cơ tim của nó.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bharti N., Chari P., Thingnam S.K.S., et al (2008). "Comparison
of
2. Cromheecke S., Pepermans V., Hendrickx E., et al (2006).
"Cardioprotective properties of sevoflurane in patients
undergoing aortic valve replacement with cardiopulmonary
bypass". Anesth Analg, 103(2), pp.292-295.
3. De Hert S.G., Cromheecke S., Broecke P.W.T., et al (2003).
"Effects of propofol, desflurane, and sevoflurane on recovery of
myocardial function after coronary surgery in elderly high-risk
patients". Anesthesiology, 99 (2), pp.316-322.
4. Hồ Thị Xuân Nga (2011). "Đánh giá hiệu quả bảo vệ cơ tim của
sevoflurane trong phẫu thuật bắc cầu động mạch vành". Luận
văn thạc sỹ y học, Đại học Y Dược TP.HCM, tr.60-71.
5. Landoni G., Biondi-Zoccai G.G.L., Zangrillo A., et al (2007).
"Desflurane and sevoflurane in cardiac surgery: A meta-analysis
of randomized clinical trials". J Cardiothorac Vasc Anesth, 21 (4),
pp.502-511.
6. Ndoko S.K., Tual L., Mamar B.A., et al (2007). "Isoflurane, 0.5
minimum alveolar concentration administered through the
precardiopulmonary bypass period, reduces posoperative
dobutamine requirements of cardiac surgery patients: A
randomized study". J Cardiothorac Vasc Anesth, 21 (5), pp.683-
698.
7. Nguyễn Thị Quý (2011). "Bảo vệ cơ tim: thuốc và thuốc mê hô
hấp", Chuyên đề tim mạch học tháng 5/2011. Nxb Y Học, chi nhánh
TP.Hồ Chí Minh, tr.9-20.
8. Zangrillo A., Crescenzi G., Landoni G., et al (2005). "The effect of
concomitant radiofrequency ablation and surgical technique
(repair versus replacement) on release of cardiac biomarkers
during mitral valve surgery". Anesth Analg, 101, pp.24-29.
Ngày nhận bài: 12/03/2013
Ngày phản biện đánh giá bài báo: 20/08/2013
Ngày bài báo được đăng: 30/05/2014
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- danh_gia_hieu_qua_bao_ve_co_tim_cua_sevoflurane_trong_phau_t.pdf