Một đường tiếp cận khác là qua đường đá
trên, trong nghiên cứu này chúng tôi có được 1
trường hợp.Trong trường hợp này đường xoang
đá dưới chọn lọc thất bại, TM góc nhỏ và ngoằn
ngoèo, xoang đá trên thấy rõ trên hình chụp
DSA. Tuy nhiên đây là vị trí khó chọn lọc mặc
dù thấy rõ đường đi do giải phẫu của xoang đá
trên đổ vào xoang ngang do đó khi đi ngược
dòng từ xoang sigma cùng bên cần phải uốn
cong đầu microcatheter và microguidewire để có
thể móc được vào lỗ đổ của xoang đá trên. Trên
y văn thế giới cũng thấy tác giả Charbel báo cáo
1 trường hợp can thiệp qua xoang đá trên().
Bít thông hoàn toàn trong 71%các trường
hợp. Trong đó thông chỉ 1 bên xoang hang có tỉ
lệ điều trị hết hoàn toàn cao hơn so với thông 2
bên. Kết quả này cũng tương tự với Kim D.J với
tỉ lệ bít thông là 78%. Và thấp hơn so với Cheng
với tỉ lệ 89%. Những trường hợp thông 2 bên có
tỉ lệ thành công thấp do nguồn rò nhiều và lưu
lương cao hơn so với thông 1 bên và có trở ngại
trong vấn đề tài chính(2,8).
Nghiên cứu này có tỉ lệtai biến thấp, trong
trường hợp này là liệt vận nhãn toàn bộ do
huyết khối trong xoang hang nhưng sau đó
hồi phục hoàn toàn sau 1 tháng. So với các
nghiên cứu khác trong khu vực Châu Á một số
biến chứng do can thiệp qua đường TM là: liệt
thần kinh sọ do huyết khối, do chèn ép bởi
coils hay do tổn thương dây TK do
microcatheter và microguidewire, thủng tĩnh
mạch do chọn lọc mù xoang đá dưới hay sung
huyết tĩnh mạch sau gây tắc xoang hang do
còn sót nguồn thông vào trong khoang kín
thông trực tiếp với TM trào ngược(Error!
Reference source not found.,Error! Reference
source not found.,Error! Reference source not
found.,Error! Reference source not found.).
Trong nghiên cứu của chúng tôi chỉ gặp một
trường hợp liệt vận nhãn nghĩ do huyết khối
chứ không gặpnhững trường thủng TM hay
sung huyết TM. Điều này có thể do các nghiên
cứu trên đã được thực hiện cách nay hàngchục
năm nên dụng cụ phục vụ cho can thiệp Thần
Kinh chưa được tốt như hiện nay.
8 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 07/02/2022 | Lượt xem: 180 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đánh giá hiệu quả can thiệp bít thông động – tĩnh mạch màng cứng vùng xoang hang theo đường tĩnh mạch, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014 Nghiên cứu Y học
Mạch Máu Não và Xạ Phẫu 433
ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ CAN THIỆP BÍT THÔNG ĐỘNG – TĨNH MẠCH
MÀNG CỨNG VÙNG XOANG HANG THEO ĐƯỜNG TĨNH MẠCH
Nguyễn Đức Chỉnh*, Trần Chí Cường**
TÓM TẮT
Đặt vấn đề: Thông động – tĩnh mạch màng cứng (TĐ‐TMMC) vùng Xoang Hang (XH) là thông trực tiếp
bất thường giữa động mạch (ĐM) màng cứng vào tĩnh mạch (TM) Xoang Hang. Điều trị bít thông qua đường
TM hiện nay được coi như một chọn lựa ưu tiên trong điều trị TĐ‐TMMC vùng XH do tính an toàn và hiệu
quả cao. Nghiên cứu này nhằm mục đích đánh giá hiệu quả và tính an toàn của can thiệp đường tĩnh mạch bít
TĐ‐TMMC vùng XH.
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu hồi cứu các trường hợp được chẩn đoán TĐ‐TMMC
vùng xoang hang gián tiếp và can thiệp bít thông đường Tĩnh Mạch tại Bệnh Viện Đại Học Y Dược Thành Phố
Hồ Chí Minh trong khoảng thời gian từ tháng 08 năm 2012 đến hết tháng 08 năm 2014
Kết quả: Trong khoảng thời gian nghiên cứu trên có 38 trường hợp thỏa tiêu chuẩn nhận vào nghiên cứu.
Tuổi trung bình 56 tuổi (nhỏ nhất 19 tuổi, lớn nhất 75 tuổi), nữ chiếm 79% (30/38).Tiếp cận đường tĩnh mạch
thành công trong 97% (37/38). Trong các đường TM tiếp cận, đường xoang đá dưới chiếm 78,4% (29/37). Bít rò
hoàn toàn trong 71% (27/38). Tai biến do thủ thuật 2,6% (1/38) nhưng hồi phục hoàn toàn sau 1 tháng.
Kết luận: Ưu tiên can thiệp bít TĐ‐TMMC vùng XH đường TM trong những trường hợp có chỉ định do tỉ
lệ thành công cao và tai biến thấp.
Từ khóa: TĐ‐TMMC, Xoang hang, Can thiệp nội mạch.
ABSTRACT
EVALUATING EFFECTIVENESS OF CAVERNOUS SINUS DURAL ARTERIOVENOUS FISTULA
TREATMENT BY TRANSVENOUSEMBOLISATION
Nguyen Duc Chinh*, Tran Chi Cuong
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 18 ‐ Supplement of No 6‐ 2014: 433 - 440
Background: Cavernous Sinus Dural ArterioVenous Fistula (CSDAVF) is an abnormal connection
between dural arteries and veins around cavernous sinus. Transvenous embolisation of CSDAVF is the first
choice for treatment because of effectiveness and safety. This study evaluate effectiveness of transvenous
embolisation for CSDAVF treatment.
Objectives and study method: Retrospective descriptive study all of case with CSDAVF and treatment by
transvenous coils embolisation from august 2012 to august 2014 at University Medical Hospital of Ho Chi Minh
city.
Results: 38 cases with CSDAVF and transvenous Embolisation. Medium age is 56 ys, Female: male ratio is
4:1. Successful transvenous access is 97%. Inferior petrosal sinus is the most common pathway with 78.4%.
Completed Embolisation is 71% and complication is 2.6% but complete recovery after 1 month.
Conclusions: Transvenous Embolisation of CSDAVF is effective and safe
Keywords: CSDAVF, transvenous embolisation, endovascular intervention.
* Bệnh viện Đại Học Y Dược TPHCM
Tác giả liên lạc: BS. Nguyễn Đức Chỉnh; ĐT: 0933023473 Email: Chinh0208@gmail.com
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014
Chuyên Đề Phẫu Thuật Thần Kinh 434
ĐẶT VẤN ĐỀ
Thông động – tĩnh mạch màng cứng là thông
trực tiếp bất thường giữa động mạch (ĐM) và
tĩnh mạch (TM) nằm trên bề mặt của màng cứng
trong naõ(Error! Reference source not found.,Error! Reference source
not found.,Error! Reference source not found.). Trong các vị trí
thông màng cứng thường gặp thì vị trí xoang
ngang – xoang sigma thường gặp nhất ở các
nước Phương Tây trong khi đó vị trí xoang
Hang (XH) thường gặp nhất tại các nước
Phương Đông. Triệu chứng lâm sàng thường
bao gồm đỏ mắt, lồi mắt, ù tai, đau đầu, nhìn
đôi, liệt vận nhãn hay các biến chứng xuất huyết
não(Error! Reference source not found.,Error! Reference source not
found.,Error! Reference source not found.). Các triệu chứng xuất
hiện phụ thuộc nhiều vào cách thức dẫn lưu và
đó cũng là yếu tố chính cho việc ra quyết định
điều trị. Dẫn lưu ngược ra TM não giữa nông,
TM lều tiểu não có nguy cơ xuất huyết cao lên
đến 10,4% mỗi năm và nên được điều trị tích
cực(Error! Reference source not found.). Những BN có triệu
chứng tăng nhãn áp gây nên do dẫn lưu TM mắt
lưu lượng cao cũng có chỉ định điều trị sớm do
hậu quả có thể gây nên mù mắt nếu tình trạng
kéo dài(Error! Reference source not found.). Trong những
trường hợp BN không dung nạp với triệu chứng
của bệnh cũng xem xét điều trị(Error! Reference source not
found.,Error! Reference source not found.,Error! Reference source not
found.).
Các phương pháp điều trị hiện nay bao gồm:
đè ép ĐM hoặc TM, can thiệp nội mạch qua ĐM
hay TM, xạ trị với tia gamma, phẫu thuật(Error!
Reference source not found.,Error! Reference source not found.,Error!
Reference source not found.,Error! Reference source not found.). Can
thiệp qua đường TM hiện nay được coi như một
chọn lưa ban đầu trong điều trị thông động –
tĩnh mạch màng cứng (TĐ‐TMMC) do tính an
toàn và hiệu quả cao(Error! Reference source not found.,Error!
Reference source not found.,Error! Reference source not found.). Vùng
xoang hang là nơi hội lưu của nhiều nguồn TM
với dẫn lưu vào có TM mắt trên, TM mắt dưới,
TM não giữa nông, TM lều tiểu não và dẫn lưu
ra có TM đá trên và TM đá dưới. Do thông với
nhiều xoang TM như vậy nên việc chọn lựa
dường vào TM trong can thiệp bít TĐ‐TMMC
vùng XH cũng rất đa dạng tùy vào giải phẫu cụ
thể của từng bệnh nhân (BN). Tỉ lệ thành công
trong các nghiên cứu bít thông vùng xoang hang
qua đường tĩnh mạch trong một số báo cáo trên
thế giới dao động từ 70% ‐ 90% và tỉ lệ tai biến
nặng do thủ thuật khoảng 2%(Error! Reference source not
found.,Error! Reference source not found.,Error! Reference source not
found.,Error! Reference source not found.).
Tại Việt Nam chưa có những nghiên cứu
đánh giá về tình trạng bệnh lý cũng như phương
pháp điều trị cho bệnh lý trên. Do đó chúng tôi
tiến hành nghiên cứu này nhằm mục đích đánh
giá hiệu quả và tính an toàn của can thiệp đường
tĩnh mạch bít TĐ‐TMMC vùng XH.
ĐỐI TƯỢNG ‐ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Chúng tôi tiến hành nghiên cứu hồi cứu sổ
bộ những trường hợp được chẩn đoán
thôngđộng – tĩnh mạch màng cứng vùng xoang
hang và được can thiệp đường tĩnh mạch (thành
công hoặc không) gây tắc thông tại Bệnh Viện
Đại Học Y Dược TP Hồ Chí Minh trong thời gian
từ tháng 8 năm 2012 đến hết tháng 8 năm 2014.
Các trường hợp thỏa tiêu chuẩn nhận vào được
thu thập các dữ liệu về tuổi, giới, đặc điểm lâm
sàng, các đặc điểm hình ảnh chụp mạch máu
não, hiệu quả can thiệp về mạch hình ảnh học và
biến chứng ngắn hạn. Phân tích các đặc điểm
hình ảnh học mạch máu não bao gồm đánh giá
các nhánh rò (từ cảnh trong hay cảnh ngoài), vị
trí rò (hang hang phải hay trái hay cả hai), các
tĩnh mạch dẫn lưu (xuôi dòng có: xoang đá dưới,
xoang đá trên hay ngược dòng có TM mắt, TM
não giữa nông hay TM lều tiểu não). Phân tich
theo các đường tiếp cận xoang hang: đường
xoang đá dưới, xoang đá trên, TM thái dương
nông, TM mặt và chọc trực tiếp TM mắt.
Tiêu chuẩn hết thông hoàn toàn là hình ảnh
chụp DSA sau can thiệp không còn thấy bất kỳ
nhánh rò nào vào xoang xoang. Hết thông
không hoàn toàn là gây tắc được các đường trào
ngược nguy hiểm nhưng còn hình ảnh thông ở
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014 Nghiên cứu Y học
Mạch Máu Não và Xạ Phẫu 435
hình chụp cuối. Can thiệp thất bại là không thể
tiếp cận đường TM hay tiếp cận được nhưng
không gây tắc được các đường trào ngược.
Hình 1: Tương quan vị trí xoang hang với các xoang
khác (SSS: xoang dọc trên, ISS: xoang dọc dưới, CS:
xoang hang, SS: xoang sigma, TS: xoang ngang, OS:
xoang chẩm
Hình 2: Các dẫn lưu từ xoang hang (SOV: TM mắt
trên, IOV: TM mắt dưới, SMV: TM não giữa nông,
IPS: xoang đá dưới, SPS: xoang đá trên STV: TM thái
dương nông, Angula V: TM góc
Mô Tả Kỹ Thuật
Bệnh nhân được thực hiện thủ thuật trong
phòng DSA.
BN được chụp mạch máu não chẩn đoán:
gây tê tại chỗ vùng bẹn phải (P), đặt sheath 5F
vào ĐM đùi (P). Qua sheath 5F đưa bộ catheter
5F và guidewire 0.035 inches vào các động mạch
cảnh trong và cảnh ngoài 2 bên, đốt sống 1 bên.
Chụp mạch máu để xác định các nguồn thông từ
ĐM cảnh trong, cảnh ngoài bên nào vào xoang
hang và dẫn lưu đi đâu.
Can thiệp bít thông (thường thực hiện sau
chụp chẩn đoán 3 – 4 ngày) qua đường xoang đá
dưới: BN được gây mê hoặc gây tê. Tiếp tục làm
phía bẹn (P) nếu vị trí chọc kim lần trước không
có tụ máu, làm phía đối bên nếu có máu tụ. Đặt
sheath 5F vào ĐM đùi và sheath 6F vào TM
đùi.Dùng catheter 5F đặt vào ĐM có nguồn
thông nhiều (thường là cảnh ngoài) và
Guidingcatheter 6F vào TM cảnh trong gần chỗ
nối vào xoang sigma. Dùng guidewire 0.035
inches chọn lọc qua xoang đá dưới dưới hướng
dẫn của chế độ Roadmap (nếu nhìn thấy được
xoang đá dưới trên hình chụp thì ĐM) hay chọn
lọc mù dựa trên định vị giải phẫu. Sau khi đưa
được guidewire 0.035 inches vào trong xoang
hang thì tiến hành làm Roadmap trắng qua đó
đưa bộ microcatheter (đường kính lòng trong ít
nhất 0.021 inches) và microguidewire 0.014 chọn
lọc vào xoang hang. Chụp nhẹ nhàng qua
microcatheter để thấy được các dẫn lưu từ xoang
hang. Chọn lọc các vị trí dẫn lưu nguy hiểm để
bít trước (TM lều tiểu não, TM não giữa nông và
TM mắt) sau đó là xoang hang bằng lò xo có tính
huyết khối cao (fiber coil). Trong quá trình đặt lò
xo chụp kiểm tra qua đường động mạch để
khẳng định đã hết dẫn lưu ngược dòng và các
đường thông.Sau khi chụp kiểm tra đã hết thông
thì rút toàn bộ microcatheter, catheter và
Guidingcatheter ra ngoài, rút sheath và băng ép
bẹn 12 – 24 giờ.
Can thiệp bít thông qua đường xoang đá
trên: thực hiện giống như qua đường xoang đá
dưới nhưng có một số khác biệt sau: trên hình
chụp thì ĐM phải thấy rõ xoang đá trên, đặt
Guidingcatheter lên đến đoạn cuối xoang sigma,
microcather kích thước nhỏ hơn và
microguidewire uốn đầu cong hơn.
Can thiệp bít thông qua đường TM mặt: thực
hiện giống như qua đường xoang đá dưới
nhưng có một số khác biệt sau: Đặt
Guidingcatheter vào TM cảnh ngoài, dùng bộ
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014
Chuyên Đề Phẫu Thuật Thần Kinh 436
microcathater + microguidewire chọn lọc qua
đường TM mặt qua TM góc đến TM mắt trên
vào xoang hang.
Can thiệp bít thông qua đường TM thái
dương nông: thực hiện giống như qua đường
xoang đá dưới nhưng có một số khác biệt sau:
Đặt Guidingcatheter vào TM cảnh ngoài, dùng
bộ microcathater+ microguidewire chọn lọc qua
đường TM thái dương nông qua TM góc đến
TM mắt trên vào xoang hang.
Chọc kim trực tiếp vào TM mắt trên: Dưới
hướng dẫn siêu âm chọc kim vào TM mắt trên
đã bị giãn. Đặt micropuncture vào TM mắt trên,
đưa microcatheter qua micropuncture vào xoang
hang và đặt coils.
KẾT QUẢ
Trong thời gian từ tháng 8 năm 2012 đến hết
tháng 8 năm 2014 có 38 trường hợp thỏa tiêu
chuẩn nhận vào nghiên cứu. Tuổi trung bình 56
tuổi (nhỏ nhất 19 tuổi, lớn nhất 75 tuổi), có 30 BN
nữ (79%) và 8 BN nam (21%). Triệu chứng khiến
bệnh nhân nhập viện là đỏ mắt 92,1% (35/38), ù
tai 5,3% (2/38), nhìn đôi 2,6% (1/38).
a b c
d e f
Hình 1: Can thiệp bít thông đường TM mặt: BN nữ 34 tuổi, đỏ mắt (P) kéo dài. Thông từ ĐM cảnh trong (a) và
ĐM cảnh ngoài (b) vào xoang hang (P) dẫn lưu chủ yếu ra TM mắt trên qua TM mặt và TM thái dương nông
(c). Chọn lọc microcatheterqua TM mặt, TM góc vào xoang hang (d), tiến hành đặt coils (e) và bít thông hoàn
toàn sau đó (f)
Trong 38 trường hợp thông có 8 trường hợp
(21%) thông vào cả 2 xoang hang, vào xoang
hang (T) là 14 trường hợp (36,8%) và xoang hang
(P) là 16 trường hợp (42,2%). Các nguồn thông từ
ĐM cảnh 2 bên chiếm 81,6% (31/38) và từ ĐM
cảnh 1 bên chiếm 18,4% (7/38).
Các nguồn TM dẫn lưu là TM mắt trên 92 %
(35/35), xoang đá dưới 65,8% (25/38), TM não
giữa nông là 52,6% (20/38), TM lều tiểu não là
34% (13/38) và xoang đá trên là 2,6% (1/38).
Tiếp cận đường tĩnh mạch thành công trong
97% (37/38). Một trường hợpBN nữ 78 tuổi
thông từ ĐM cảnh trong và cảnh ngoài 2 bên vào
xoang hang (P) dẫn lưu TM mắt (P), TM não
giữa nông và TM lều tiểu não, không thấy xoang
đá dưới (P). Cố gắng chọn lọc qua xoang đá
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014 Nghiên cứu Y học
Mạch Máu Não và Xạ Phẫu 437
dưới (P) nhưng thất bại phải chuyển qua gây tắc đường ĐM.
a b c
d e f
g h i
Hình 2: Can thiệp bít thông đường xoang đá dưới. BN nữ 36 tuổi, đỏ mát (P) 5 tháng. Hình DSA thông vào
xoang hang (P) từ Đm cảnh ngoài (T) (a), Đm cảnh trong (T) (b), và Đm cảnh ngoài (P) (c) có trào ngược TM
não giữa nông (P) (a) và TM mắt (d), (e). Chọn lọc qua xoang đá dưới (e) và đặt lò xo (F). sau can thiệp hết thông
hoàn toàn từ ĐM cảnh trong và ngoài 2 bên (g), (h), (i).
Trong các đường TM tiếp cận, đường xoang
đá dưới chiếm ưu thế với 78,4% (29/37), kế tiếp
là đường TM mặt với 13,5% (5/37), các đường
còn lại là đường xoang đá trên, đường TM thái
dương nông và chọc trực tiếp qua TM mắt có 1
trường hợp (2,7%). Trong các trường hợp không
thấy xoang đá dưới tỉ lệ chọn lọc lên được xoang
hang qua đường xoang đá dưới là 38,5% (5/13).
Bít thông hoàn toàn trong 71% (27/38) các
trường hợp. Trong đó thông chỉ 1 bên xoang
hang có tỉ lệ điều trị hết hoàn toàn cao hơn với
73% (22/30) so với thông 2 bên là 62,5% (5/8).
Về mặt lâm sàng có 1 trường hợp (2,6%) đau
đầu nôn ói liên tục sau can thiệp bít thông 1 tuần
+ liệt vận nhãn toàn bộ. BN được điều trị với
kháng đông theo kinh nghiệm và corticoid với
nhận định huyết khối tạo lập quá mức trong
xoang hang. Sau can thiệp bít thông 1 tháng BN
hồi phục vận nhãn hoàn toàn, không còn buồn
nôn hay nôn ói.
BÀN LUẬN
Đa số các trường hợp có TĐ‐TMMC vùng
XH trong nghiên cứu là nữ tuổi sau mãn kinh
phù hợp với các nghiên cứu trên thế giới,
trong nghiên cứu của Kim.D.J thực hiện tại
Hàn Quốc thì tỉ lệ nữ mắc bệnh cũng chiếm tới
80% và tuổi trung bình là 57 (từ 30 – 73 tuổi)(8).
Nghiên cứu này cũng tương tự kết quả nghiên
cứu của Lekkhong với tuổi trung bình khởi
phát bệnh là 57 và nữ chiếm 70%(8). Có thể giải
thích điều này do sinh lý bệnh liên quan đến
thay đổi nội tiết tố sau mãn kinh. Các triệu
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014
Chuyên Đề Phẫu Thuật Thần Kinh 438
chứng khiến BN nhập viện chủ yếu vẫn là
triệu chứng tại mắt. Điều này phù hợp với các
nghiên cứu trên thế giới(Error! Reference source not
found.,Error! Reference source not found.,Error! Reference source not
found.,Error! Reference source not found.,Error! Reference source not found.)
do triệu chứng liên quan mật thiết với hình
thức dẫn lưu. Trong nghiên cứu này dẫn lưu
TM mắt chiếm 98% do đó triệu chứng tại mắt
là lý do chính khiến BN nhập viện.
Trong 38 trường hợp thông có 21% thông
vào cả 2 xoang hang. Các nguồn thông từ ĐM
cảnh 2 bên chiếm 81,6% (31/38) và từ ĐM cảnh 1
bên chiếm 18,4% (7/38). Kết quả này phù hợp với
nghiên cứu của Akira thực hiện tại Nhật Bản với
39% ảnh hưởng đến cả 2 xoang hang và 75%
nguồn cấp máu từ cả 2 bên ĐM cảnh. Một
nghiên cứu khác của Cheng K.M cũng cho thấy
thông vào cả 2 xoang hang trong 44,4%. Với bản
chất tăng sinh mạch máu + nhiều thông giữa
xoang hang 2 bên có thể giải thích phần nào tính
lan tỏa của tổn thương trên.
Các đường tĩnh mạch dẫn lưu có tỉ lệ cao lần
lượt là TM mắt, xoang đá dưới, TM não giữa
nông và TM lều tiểu não. Các đường dẫn lưu
này tương tự với các đường dẫn lưu trong
nghiên cứu của tác giả Trần Chí Cường tuy
nhiên tỉ lệ có thấp hơn do trong nghiên cứu của
tác giả Trần Chí Cường đánh giá dẫnlưu của
thông ĐM cảnh – xoang hang trực tiếp do đó lưu
lượng cao hơn dẫn đến thoát ra TM theo nhiều
đường cùng lúc(Error! Reference source not found.).
Tiếp cận xoang hang qua dường tĩnh mạch
thành công cao do xoang hang là nơi hội lưu của
nhiều nguồn TM vì vậy ta có nhiều con đường
để chọn lựa. Trong các đường tiếp cận TM vào
xoang hang thì xoang TM đá dưới là vị trí
thường được chọn nhất do đường đi thẳng và
ngắn nhất. Một số nghiên cứu cho thấy tiếp cận
xoang đá dưới chiếm từ 64% đến 72% trong các
đường TM vào xoang hang(Error! Reference source not
found.,Error! Reference source not found.), tỉ lệ này khá tương
đồng với nghiên cứu này. Trong các trường hợp
thấy rõ xoang đá dưới trên hình chụp DSA thì
tiếp cận xoang đá dưới là ưu tiên hàng đầu. Một
số nghiên cứu cho thấy đôi khi không nhìn thấy
hình ảnh dẫn lưu của xoang đá dưới nhưng vẫn
có thể chọn lọc bằng microcatheter và
microguidewire qua được xoang đá dưới và tỉ lệ
thành công khi chọn lọc mù trong nghiên cứu
này là 38,5% thấp hơn so với nghiên cứu của
Lekkhong là 78,8%. Điều này có thể lý giải do
khác nhau về thiết kế nghiên cứu. Trong nghiên
cứu của Lekkhong nhằm mục đích đánh giá khả
năng chọn lọc microcatheter qua được xoang đã
tắc trong khi đó nghiên cứu này nhằm khảo sát
các đường tiếp cận vào xoang hang khác như
xoang đá trên, TM thái dương nông, TM mặt.
Tuy nhiên những trường hợp tiếp cận “mù” như
vậy có thể gây ra biến chứng thủng mạch máu.
Một số trường hợp không tiếp cận được qua TM
đá dưới cùng bên có thể tiếp cận từ TM đá đối
bên vào XH đối bên và qua kênh gian XH vào
XH mục tiêu(Error! Reference source not found.,Error! Reference
source not found.).
Trong trường hợp chọn lọc mù xoang đá
dưới thất bại ta có thể xem xét can thiệp ngược
dòng qua đường TM cảnh ngoài vào TM mặt
và TM thái dương nông sau đó vào TM góc,
TM mắt trên vào xoang hang nếu hình ảnh
DSA phù hợp. Tiếp cận từ TM cảnh ngoài qua
TM mặt vào TM góc là một lựa chọn thường
được nhắc đến. Trong nghiên cứu này tỉ lệ can
thiệp đi con đường trên là 13,5%. Nghiên cứu
của Kim.D.J tại Hàn Quốc cho thấy 13% các
trường hợp được can thiệp qua đường TM
mặt(Error! Reference source not found.).Tiếp cận
xoang hang từ phía trước như vậy có ưu điểm
là ít gây tổn thương mạch máu nội sọ, còn
nhược điểm là đường đi dài khó thao tác cần
nhiều thời gian và có khả năng gây tổn thương
TM mắt trên(8).
Một con đường tiếp cận khác là can thiệp
trực tiếp TM mắt trên bằng cách đặt Sheath vào
TM mắt trên dưới hướng dẫn siêu âm. Trong
suốt quá trình 2 năm chúng tôi chỉ tiến hành can
thiệp trực tiếp qua đường TM mắt trên 1 trường
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014 Nghiên cứu Y học
Mạch Máu Não và Xạ Phẫu 439
hợp. Dưới hướng dẫn Siêu âm, BS siêu âm can
thiệp chọc kim vào TM mắt trên giãn lớn 5mm
và đặt bộ micropuncture sau đó tiến hành đặt
coils bít thông hoàn toàn. Trên y văn có ghi nhận
một số trường hợp tiếp cận TM mắt trên bằng
cách bộc lộ trực tiếp TM mắt qua một vết cắt da
vùng trong góc mắt sau đó đặt Sheath và tiến
hành chọn lọc xoang hang bằng microcatheter và
microguidewire(). Trên y văn chưa thấy ghi nhận
đặt sheath trực tiếp TM mắt trên dưới hướng
dẫn siêu âm. Đây là đường tiếp cận trực tiếp,
ngắn, thuân lợi khi chọn lọc xoang hang nhưng
bất lợi là cần phải có chuyên gia siêu âm mạch
máu có kinh nghiệm và hiểu rõ đặc điểm giải
phẫu vùng hốc mắt trong đó có TM mắt trên, đặt
sheath khó khăn mặc dù đã chọc kim vào đúng
vị trí và tổn thương vùng hốc mắt do phải chọc
kim nhiều lần.
Một đường tiếp cận khác là qua đường đá
trên, trong nghiên cứu này chúng tôi có được 1
trường hợp.Trong trường hợp này đường xoang
đá dưới chọn lọc thất bại, TM góc nhỏ và ngoằn
ngoèo, xoang đá trên thấy rõ trên hình chụp
DSA. Tuy nhiên đây là vị trí khó chọn lọc mặc
dù thấy rõ đường đi do giải phẫu của xoang đá
trên đổ vào xoang ngang do đó khi đi ngược
dòng từ xoang sigma cùng bên cần phải uốn
cong đầu microcatheter và microguidewire để có
thể móc được vào lỗ đổ của xoang đá trên. Trên
y văn thế giới cũng thấy tác giả Charbel báo cáo
1 trường hợp can thiệp qua xoang đá trên().
Bít thông hoàn toàn trong 71%các trường
hợp. Trong đó thông chỉ 1 bên xoang hang có tỉ
lệ điều trị hết hoàn toàn cao hơn so với thông 2
bên. Kết quả này cũng tương tự với Kim D.J với
tỉ lệ bít thông là 78%. Và thấp hơn so với Cheng
với tỉ lệ 89%. Những trường hợp thông 2 bên có
tỉ lệ thành công thấp do nguồn rò nhiều và lưu
lương cao hơn so với thông 1 bên và có trở ngại
trong vấn đề tài chính(2,8).
Nghiên cứu này có tỉ lệtai biến thấp, trong
trường hợp này là liệt vận nhãn toàn bộ do
huyết khối trong xoang hang nhưng sau đó
hồi phục hoàn toàn sau 1 tháng. So với các
nghiên cứu khác trong khu vực Châu Á một số
biến chứng do can thiệp qua đường TM là: liệt
thần kinh sọ do huyết khối, do chèn ép bởi
coils hay do tổn thương dây TK do
microcatheter và microguidewire, thủng tĩnh
mạch do chọn lọc mù xoang đá dưới hay sung
huyết tĩnh mạch sau gây tắc xoang hang do
còn sót nguồn thông vào trong khoang kín
thông trực tiếp với TM trào ngược(Error!
Reference source not found.,Error! Reference
source not found.,Error! Reference source not
found.,Error! Reference source not found.).
Trong nghiên cứu của chúng tôi chỉ gặp một
trường hợp liệt vận nhãn nghĩ do huyết khối
chứ không gặpnhững trường thủng TM hay
sung huyết TM. Điều này có thể do các nghiên
cứu trên đã được thực hiện cách nay hàngchục
năm nên dụng cụ phục vụ cho can thiệp Thần
Kinh chưa được tốt như hiện nay.
KẾT LUẬN
Thông động – tĩnh mạch màng cứng vùng
xoang hang là thể bệnh diễn tiến chậm tuy nhiên
cần điều trị trong những trường hợp có trào
ngược TM nông hay sâu nguy hiểm. Những
bệnh nhân có chỉ định điều trị tích cực nên chọn
lựa phương pháp can thiệp qua đường tĩnh
mạch do khả năng bít thông hoàn toàn cao và tỉ
lệ tai biến, biến chứng thấp.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Berenstein A, Lasjaunias PL, Ter Brugge K. (2004) Dural
arteriovenous shunts. In: Berenstein A, Lasjaunias PL, Ter
Brugge K, editors. Surgical Neuroangiography. New York:
Springer; 2004. pp 565–60
2. Cheng KM, Chan CM, Cheung YL. (2003) Transvenous
embolisation of dural carotid‐cavernous fistulas by multiple
venous routes: a series of 27 cases. Acta Neurochir (Wien)
2003;145:17–29
3. Choi BS, Park JW, Kim JL, Kim SY, Park YS, Kwon HJ. (2011)
Treatment strategy based on multimodal management
outcome of cavernous sinus dural arteriovenous fistula.
Neurointervention.2011;6:6–12.
4. Chung SJ, Kim JS, Kim JC. (2002) Intracranial dural
arteriovenous fistulas: analysis of 60 patients. Cerebrovasc Dis
2002;13:79–88.
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014
Chuyên Đề Phẫu Thuật Thần Kinh 440
5. Ha JG, Hae Woong Jeong HW, Hyun Sin In HS. (2011)
Transvenous Embolization of Cavernous Sinus Dural
Arteriovenous Fistula Using the Direct Superior Ophthalmic
Vein Approach: A Case Report.Neurointervention. 2011
August; 6(2): 100–103.
6. Halbach VV, Higashida RT, Hieshima GB. (2011)
Transvenous embolization of dural distulas involving the
carvenous sinus. AJNR Am J Neuroradiol 10, pp 377‐383.
7. Istvan Szikora. Dural Arteriovenous Malformations. (2011) In:
Baert AL, Knauth M, Sartor K. Intracranial Vascular
Malformations and Aneurysms From Diagnostic Work – up
to Endovascular Therapy. Springer 2nd Edition. Pp 121‐161.
8. Kim DJ, Kim DI, Suh SH.(2006) Results of Transvenous
Embolization of Cavernous Dural Arteriovenous Fistula: A
Single‐Center Experience with Emphasis on Complications
and Management. AJNR November 2006 27: 2078‐2082
9. Kim MS, Han DH, Kwon OK. (2002) Clinical characteristics of
dural arteriovenous fistula. J Clin Neurosci; 9:147–55
10. Kurata A, Suzuki S,Iwamoto K. (2011) Dural Arteriovenous
Fistulas in the Cavernous Sinus: Clinical Research and
Treatment. ISRN Neurology Volume 2011, Article ID 453834,
6 pages.
11. Lekkhong E, Pongpech S, Brugge K. (2011) Transvenous
Embolization of Intracranial Dural Arteriovenous Shunts
through Occluded Venous Segments: Experience in
51Patients. AJNR 32 Oct 2011, pp 1738‐1744
12. Miller NR, Monsein LH, Debrun GM.(1995)Treatment of
carotid‐cavernoussinus fistulas using a superior ophthalmic
vein approach. J Neurosurg 1995; 83, pp 838–842.
13. Mounayer C, Piotin M, Spelle L. (2002) Superior Petrosal
Sinus Catheterization for Transvenous Embolization of a
Dural Carotid Cavernous Sinus Fistula. AJNR 23August 2002,
pp 1153–1155.
14. Oishi H, Arai H, Sato K.(1999) Complications associated
with transvenous embolisation of cavernous dural
arteriovenous fistula. Acta Neurochir (Wien) 1999;
141:1265–71
15. Osborn AG. Vascular Malformations. In: Diagnostic Cerebral
Angiography. Lippincott Williams & Wilkins 2nd Edition.
pp277‐312.
16. Van Dijk JM, terBrugge KG, Willinsky RA. Clinical course of
cranial dural arteriovenous fistulas with long‐term persistent
cortical venous reflux. Stroke 2002;33:1233–36
Ngày nhận bài báo: 10/10/2014
Ngày phản biện nhận xét bài báo: 02/11/2014
Ngày bài báo được đăng: 5/12/2014
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- danh_gia_hieu_qua_can_thiep_bit_thong_dong_tinh_mach_mang_cu.pdf