Do các nghiên cứu sử dụng các loại hình kim khác
nhau, kích thước khác nhau, kĩ thuật sinh thiết khác
nhau, cũng như loại hình tổn thương cột sống khác
nhau nên mức độ thỏa đáng là khác biệt (p<0,001). Kết
quả nghiên cứu của chúng tôi có mức độ thỏa đáng
tương tự với nghiên cứu của Rimmondi (p=0,56) và
nghiên cứu của Lis (p=0,062), cao hơn so với kết quả
nghiên cứu của Kornblun (p=0,029). Tỉ lệ tai biến trong
nghiên cứu của chúng tôi không có sự khác biệt có ý
nghĩa thống kê so với nghiên cứu của Rimmondi và
Lis (p=0,75). Trong tài liệu hướng dẫn quy trình sinh
thiết qua da của Hiệp Hội can thiệp Điện quang Hoa
Kỳ năm 2010 [3], thông qua đánh giá tổng hợp nhiều
nghiên cứu nhằm đưa ra chỉ định, tỉ lệ thỏa đáng dự
kiến cũng như tỉ lệ tai biến cho phép đối với từng loại
hình thủ thuật, đối với sinh thiết qua da tổn thương cơ
xương khớp nói chung, mức độ thỏa đáng đạt được
dao động từ 76 tới 93%, mức độ thỏa đáng tối thiểu
phải đạt được là 70%, tỉ lệ tai biến dao động từ 0,1 đến
3% và không được vượt quá 6% (bao gồm cả tai biến
nặng và nhẹ). Mức độ thỏa đáng của bệnh phẩm và tỉ
lệ tai biến trong nghiên cứu của chúng tôi nằm trong
khoảng cho phép của hướng dẫn kể trên.
Sinh thiết mở vẫn luôn luôn được coi là tiêu chuẩn
vàng trong chẩn đoán đối với tổn thương xương khớp,
so với sinh thiết qua da sinh thiết mở được coi là lựa
chọn thứ hai khi sinh thiết qua da thất bại, có rất ít các
nghiên cứu báo cáo về giá trị của sinh thiết mở trong
chẩn đoán bệnh lí cơ xương khớp nói chung và tổn
thương cột sống nói riêng. Chúng tôi trình bày một
nghiên cứu lớn đa trung tâm được thực hiện bởi hiệp
hội u bướu cơ xương khớp Hoa Kỳ [6] nhằm đánh giá
mức độ thỏa đáng, độ chính xác và tai biến của sinh
thiết mở trong chẩn đoán bệnh lí ác tính cơ xương khớp
nói chung và sự thay đổi các chỉ số trên qua các thời kì.
Nghiên cứu hồi cứu được tiến hành trên 926 bệnh nhân
sinh thiết mở chẩn đoán bệnh lí cơ xương khớp ác tính
được chia làm hai nhóm, nhóm một là các bệnh nhân
được sinh thiết trước năm 1979 (329 bệnh nhân), nhóm
hai là các bệnh nhân được sinh thiết sau năm 1979
(579 bệnh nhân), kết quả cho thấy mức độ thỏa đáng,
độ chính xác và tỉ lệ tai biến không có sự khác biệt có ý
nghĩa thống kê giữa hai nhóm (p>0,05), kết quả cụ thể
trình bày trong Bảng 3.
6 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Lượt xem: 11 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đánh giá hiệu quả của phương pháp sinh thiết cột sống qua da dưới hướng dẫn cắt lớp vi tính bằng kim sinh thiết tủy xương kết hợp với kim sinh thiết phần mềm bán tự động, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ÑIEÄN QUANG VIEÄT NAM Số 20 - 04/201528
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
SCIENTIFIC RESEARCH
SUMMARY
ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ CỦA PHƯƠNG PHÁP
SINH THIẾT CỘT SỐNG QUA DA DƯỚI
HƯỚNG DẪN CẮT LỚP VI TÍNH BẰNG
KIM SINH THIẾT TỦY XƯƠNG KẾT HỢP VỚI
KIM SINH THIẾT PHẦN MỀM BÁN TỰ ĐỘNG
The role of percutaneous CT-guided vertebral biopsy
using bone marrow biopsy needle combine with
semi-automatic soft tissue biopsy needle
Phạm Mạnh Cường*, Phạm Minh Thông*
Introduction: The bone biopsy instruments were improved
regularly to increase successful rate and reduce complication but
accompany with increasing of cost price. Our research purpose to
assess the role of percutaneous CT-guided vertebral biopsy using
bone marrow biopsy needle combine with semi-automatic soft tissue
biopsy needle.
Method: This is a retrospective study involving 143 patients who
underwent percutaneous CT-guided vertebral biopsy in Radiology
department, Bach Mai hospital. Biopsy needle included: bone
marrow biopsy needle 13 and 11G, Surelock, TSK, Japan combined
with soft tissue biopsy needle Stericut 16 and 14 G, TSK, Japan.
Result: Adequacy 95.1%, pathologic specific diagnosis rate
86%, accuracy 85.3% and complication rate 0.7%.
Conclusion: The adequacy of technique is not lower than most
recent researches as so as open vertebral biopsy, the complication
rate is not higher than most recent researches but significant lower
than vertebral open biopsy.
Keywords: Percutaneous, vertebra, biopsy, CT scanner,
adequacy, complication.
* Khoa Chẩn đoán hình ảnh,
Bệnh viện Bạch Mai
ÑIEÄN QUANG VIEÄT NAM Số 20 - 04/2015 29
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Trong thực tế lâm sàng, việc chẩn đoán xác định
dựa trên bằng chứng giải phẫu bệnh hoặc vi khuẩn học
đối với các tổn thương cột sống là rất cần thiết đặc biệt
đối với các trường hợp mà triệu chứng lâm sàng, xét
nghiệm và chẩn đoán hình ảnh không xâm nhập đưa ra
nhiều chẩn đoán phân biệt.
Kĩ thuật sinh thiết cột sống qua da dưới hướng
dẫn cắt lớp vi tính (CLVT) đã được tiến hành từ những
năm 1981[1], cho đến nay kĩ thuật, phương tiện hướng
dẫn và dụng cụ sinh thiết đã có nhiều cải tiến với mục
đích tăng tỉ lệ thành công, đảm bảo an toàn cho bệnh
nhân, tuy nhiên việc sử dụng các dụng cụ mới làm tăng
giá thành của kĩ thuật. Kĩ thuật sinh thiết cột sống qua
da trước kia chúng tôi sử dụng kim sinh thiết đơn trục
cho cả tổn thương đặc xương và tiêu xương, đối với
tổn thương đặc xương tỉ lệ lấy bệnh phẩm thành công
cao tuy nhiên đối với tổn thương tiêu xương có nhiều
trường hợp thất bại do không lấy được bệnh phẩm. Kĩ
thuật sinh thiết xương cột sử dụng kim sinh thiết đơn
trục đơn thuần đối với tổn thương đặc xương và kết
hợp với kim sinh thiết phần mềm có chi phí thấp, kĩ
thuật đơn giản, tỉ lệ thành công cao. Mục tiêu nghiên
cứu của chúng tôi nhằm đánh giá hiệu quả của kĩ thuật,
so sánh kết quả với các nghiên cứu gần đây từ đó đưa
ra quyết định tiếp tục duy trì hay thay đổi kĩ thuật cho
phù hợp.
Phương pháp nghiên cứu
Nghiên cứu được tiến hành trên 143 bệnh nhân
được sinh thiết cột sống qua da dưới hướng dẫn CLVT
tại Khoa Chẩn đoán hình ảnh Bệnh viện Bạch Mai từ
tháng 2-2012 tới tháng 9-2014 bao gồm 82 bệnh nhân
nam và 61 bệnh nhân nữ, tuổi trung bình 51 tuổi. Trong
đó có 36 trường hợp di căn cột sống, 83 trường hợp
nhiễm trùng cột sống, 9 trường hợp u cột sống nguyên
phát ác tính, 5 trường hợp u cột sống nguyên phát lành
tính và 10 trường hợp bệnh lí khác. Tất cả các bệnh
nhân nghiên cứu đều có bệnh phẩm làm xét nghiệm
GPB và có kết quả chẩn đoán GPB, loại trừ các trường
hợp chỉ thực hiện kĩ thuật chọc hút tế bào hoặc các
trường hợp kĩ thuật sinh thiết thất bại (không lấy được
bệnh phẩm).
Kĩ thuật sinh thiết được tiến hành dưới hướng dẫn
của máy CLVT 2 dãy đầu dò Somatom Spirit, Siemens,
Cộng hòa liên bang Đức. Kim sinh thiết tủy xương đơn
trục Surelock (TSK, Nhật Bản) kích thước 11G (cột
sống thắt lưng, cùng-cụt), 13G (cột sống cổ, ngực) đối
với tổn thương đặc xương hoặc có vôi hóa, kết hợp với
kim sinh thiết phần mềm Stericut (TSK, Nhật Bản) kích
thước 14 và 16G đối với các trường hợp tổn thương
phần mềm cạnh sống hoặc tiêu xương Lodwick 1 kích
thước >2cm. Mảnh bệnh phẩm thu được cố định trong
dung dịch formol 10% đối với xét nghiệm giải phẫu
bệnh, phết lam kính phần dịch trong lòng kim sinh thiết
để làm xét nghiệm tế bào học, tổ chức mủn nát hoặc
dịch rửa kim sinh thiết được đựng trong ống vô khuẩn
chứa nước muối sinh lí làm xét nghiệm vi sinh (cấy vi
khuẩn hoặc PCR lao).
Chỉ tiêu nghiên cứu đánh giá mức độ thỏa đáng, tỉ
lệ chẩn đoán đặc hiệu của bệnh phẩm sinh thiết và tỉ lệ
chẩn đoán chính xác dựa trên kết quả giải phẫu bệnh
đối với bệnh phẩm sinh thiết.
II. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
Bảng 1. Hiệu quả sinh thiết cột sống qua da
Tiêu chí Số lượng Tỉ lệ
Mức độ thỏa đáng 136 95,1%
Tỉ lệ chẩn đoán mô bệnh học
đặc hiệu
123 86%
Tỉ lệ chẩn đoán đặc hiệu
(GPB+VS+TBH)
129 90,2%
Tỉ lệ chính xác 122 85,3%
Biến chứng 1 0,7%
III. BÀN LUẬN
Đã trải qua gần 80 năm kể từ khi Robert và cộng
sự tiến hành lần đầu tiên kĩ thuật sinh thiết cột sống
qua da không có phương tiện hình ảnh hướng dẫn[2].
Cho đến nay, với sự phát triển liên tục của trình độ
khoa học kĩ thuật, kĩ thuật sinh thiết cột sống qua da đã
được thay đổi rất nhiều cả về phương tiện hướng dẫn,
cũng như dụng cụ và kĩ thuật sinh thiết, nhằm mục đích
nâng cao tỉ lệ lấy được bệnh phẩm, đảm bảo lấy đủ số
lượng bệnh phẩm, bệnh phẩm được lấy đúng vị trí tổn
thương, sử dụng hiệu quả bệnh phẩm thu được cho
mục đích chẩn đoán, phân loại và điều trị. Ngoài ra, kĩ
ÑIEÄN QUANG VIEÄT NAM Số 20 - 04/201530
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
thuật còn phải đảm bảo tính an toàn, giảm thiểu tai biến
cũng như biến chứng. Để đánh giá tổng thể giá trị kĩ
thuật chúng tôi sử dụng các tiêu chí: mức độ thỏa đáng
của bệnh phẩm, tỉ lệ chẩn đoán đặc hiệu, tỉ lệ chính xác
và tỉ lệ tai biến.
- Mức độ thỏa đáng của bệnh phẩm là tỉ lệ bệnh
phẩm mà bác sĩ giải phẫu bệnh kết luận trong biên bản
trả lời là đảm bảo đủ cả về mặt kích thước cũng như
chất lượng cho xét nghiệm GPB (chỉ cần thỏa đáng cho
xét nghiệm GPB thì bệnh phẩm cũng được coi là thỏa
đáng cho xét nghiệm TBH và vi sinh). Bệnh phẩm được
coi là không thỏa đáng khi sinh thiết lấy được mảnh
bệnh phẩm nhưng các nhà giải phẫu bệnh trả lời là
bệnh phẩm quá nhỏ hoặc mủn nát không phù hợp cho
xét nghiệm hoặc là mảnh xương lành, mảnh xương
chết, máu cục chứa ít thành phần tổ chức, vùng tổ chức
hoại tử. Trong nghiên cứu tỉ lệ bệnh phẩm thỏa đáng
cho xét nghiệm giải phẫu bệnh là 95,1%. Theo quan
điểm của chúng tôi, mức độ thỏa đáng là tiêu chí quan
trọng nhất trong đánh giá giá trị của kĩ thuật, bởi vì tiêu
chí này hầu như chỉ phụ thuộc vào quy trình kĩ thuật
cũng như loại hình dụng cụ sinh thiết, không bị phụ
thuộc vào quá trình sử lí bệnh phẩm, nhuộm và đọc kết
quả giải phẫu bệnh cũng như môi trường và kĩ thuật
cấy bệnh phẩm.
- Chẩn đoán đặc hiệu là kết quả chẩn đoán dựa
trên kết quả giải phẫu bệnh/vi sinh cho phép khẳng định
hoặc loại trừ chẩn đoán trước sinh thiết từ đó có tác
động tích cực tới quyết định điều trị. Các chẩn đoán
không đặc hiệu không cho phép khẳng định hay loại
trừ chẩn đoán trước sinh thiết, không giúp ích cho quá
trình điều trị. Trong nghiên cứu, nếu chỉ xét đến kết quả
giải phẫu bệnh tỉ lệ bệnh phẩm cho kết quả chẩn đoán
đặc hiện là 86%, tuy nhiên nếu bao gồm cả kết quả
xét nghiệm tế bào học và vi sinh (cấy vi khuẩn, PCR
lao) dựa trên bệnh phẩm sinh thiết thì tỉ lệ chẩn đoán
đặc hiệu là 90,2% do có 6 bệnh nhân mặc dù bệnh
phẩm giải phẫu bệnh là không thỏa đáng hoặc có kết
quả chẩn đoán không đặc hiệu nhưng có kết quả cấy
vi khuẩn hoặc PCR lao dựa trên mẫu bệnh phẩm thu
được từ sinh thiết cột sống là dương tính cho phép
chẩn đoán xác định.
- Độ chính xác của xét nghiệm GPB dựa trên xét
nghiệm bệnh phẩm sinh thiết đánh giá mức độ tương
đồng giữa kết quả chẩn đoán GPB với kết quả chẩn
đoán ra viện (dựa vào phẫu thuật, cấy vi khuẩn, các
xét nghiệm khác, giải phẫu tử thi, theo dõi hiệu quả
điều trị...). Để đơn giản trong việc đánh giá độ chính
xác chúng tôi chia các chẩn đoán riêng lẻ thành nhóm
bệnh để so sánh, các nhóm bệnh gồm có: di căn cột
sống, lao cột sống, viêm cột sống đĩa đệm do vi khuẩn
sinh mủ, u cột sống nguyên phát ác tính (đa u tủy,
u tương bào, u Lymphom, u nguyên sống, ung thư
xương và ung thư sụn), u cột sống nguyên phát lành
tính (u máu cột sống, u dạng xương, u hạt tế bào ái
toan, u tế bào khổng lồ, u vỏ bao thần kinh), tăng sinh
tủy lành tính, nhóm tổn thương thoái hóa cột sống
(thoái hóa Modic, loãng xương, thoát vị nội xốp) và
các chẩn đoán khác. Độ chính xác của chẩn đoán giải
phẫu bệnh được đánh giá dựa theo ba nhóm kết quả:
nhóm kết quả đặc hiệu, nhóm kết quả không đặc hiệu
và nhóm bệnh phẩm không thỏa đáng. Trong nhóm
kết quả đặc hiệu (123 bệnh nhân), độ chính xác của
kết quả giải phẫu bệnh là 98,4%, nhóm kết quả không
đặc hiệu độ với kết quả trả lời chủ yếu là không thấy tế
bào ác tính, độ chính xác là 7,7% và nhóm bệnh phẩm
không thỏa đáng chúng tôi coi là độ chính xác tương
đương 0%, tính chung lại độ chính xác của xét nghiệm
giải phẫu bệnh là 85,3%.
- Tai biến, biến chứng là hiện tượng bệnh lí mới
không mong muốn phát sinh do quá trình sinh thiết
có thể xuất hiện trong hoặc sau khi sinh thiết. Chúng
tôi chia mức độ tai biến theo hướng dẫn của Hội Điện
quang can thiệp Hoa Kỳ (SIR) [3], trong đó biến chứng
được chia ra làm 3 cấp độ: biến chứng nhẹ là những
biến chứng không hoặc rất ít cần điều trị bổ sung và
qua khỏi không để lại biến chứng (tụ máu dưới da,
trong cơ); biến chứng nặng là các biến chứng mà bệnh
nhân cần phải có thêm các biện pháp điều trị khác, kéo
dài thêm thời gian điều trị, nguy cơ để lại biến chứng
(tràn khí màng phổi, tổn thương rễ, tủy thần kinh...); và
mức độ nặng nhất của biến chứng là tử vong do thực
hiện thủ thuật. Kết quả nghiên cứu cho thấy tỉ lệ tai biến
là 0,7%. Biến chứng được coi là xảy ra trên một bệnh
nhân sinh thiết cột sống cổ với chẩn đoán u Lympho
xương có hình ảnh phá vỡ vỏ xương, xâm lấn phần
mềm cạnh sống và khoang ngoài màng cứng, không
có biến chứng ngay sau sinh thiết, bệnh nhân xuất hiện
liệt tứ chi sau sinh thiết 7 ngày, mặc dầu không đủ bằng
ÑIEÄN QUANG VIEÄT NAM Số 20 - 04/2015 31
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
chứng khẳng định dấu hiệu liệt là do biến chứng sinh
thiết hay do tiến triển của bệnh.
Theo nghiên cứu của Rimondi và cộng sự [4] trên
703 trường hợp sinh thiết cột sống cho kết quả tỉ lệ
bệnh phẩm thỏa đáng là 96,1%, trong đó có 19,8 các
trường hợp cho chẩn đoán không đặc hiệu, còn lại
76,4% là cho kết quả chẩn đoán đặc hiệu, mặc dù tỉ
lệ bệnh phẩm cho chẩn đoán đặc hiệu không chỉ phụ
thuộc vào kĩ thuật lấy bệnh phẩm mà còn phụ thuộc
vào trình độ, kinh nghiệm của bác sĩ giải phẫu bệnh
và kĩ thuật chuẩn bị bệnh phẩm, tỉ lệ biến chứng 1,1%.
Kornblum và cộng sự [5] tiến hành nghiên cứu trên 103
trường hợp sinh thiết cột sống cho kết quả mức độ
thỏa đáng của bệnh phẩm đạt 87% tỉ lệ bệnh phẩm cho
chẩn đoán đặc hiệu 71%, tác giả không đề cập tới tỉ lệ
biến chứng trong nghiên cứu. Một vài nghiên cứu lớn
khác gần đây cũng báo cáo về hiệu quả cũng như biến
chứng của kĩ thuật được trình bày trong Bảng 2.
Bảng 2. So sánh kết quả nghiên cứu của một số tác giả
Nghiên cứu n Cỡ kim Loại kim Thỏa đáng
Chẩn đoán
đặc hiệu
Chính xác
Biến
chứng
Rimmondi 703 8G (85%)
14G (15%)
Đồng trục,
đơn trục
96,1% 71% 93,3% 1,1%
Kornblun 103 17-20G Đơn trục 87% 71%
Lis 410 15G Đơn trục 98% 89% 0,75%
Nourbakhsh Tổng hợp Nhiều loại Nhiều loại 96,6% 90,2% 3,3%
Chúng tôi 143 11-13G Đơn trục 95,1% 90,2% 85,3% 0,7%
Do các nghiên cứu sử dụng các loại hình kim khác
nhau, kích thước khác nhau, kĩ thuật sinh thiết khác
nhau, cũng như loại hình tổn thương cột sống khác
nhau nên mức độ thỏa đáng là khác biệt (p<0,001). Kết
quả nghiên cứu của chúng tôi có mức độ thỏa đáng
tương tự với nghiên cứu của Rimmondi (p=0,56) và
nghiên cứu của Lis (p=0,062), cao hơn so với kết quả
nghiên cứu của Kornblun (p=0,029). Tỉ lệ tai biến trong
nghiên cứu của chúng tôi không có sự khác biệt có ý
nghĩa thống kê so với nghiên cứu của Rimmondi và
Lis (p=0,75). Trong tài liệu hướng dẫn quy trình sinh
thiết qua da của Hiệp Hội can thiệp Điện quang Hoa
Kỳ năm 2010 [3], thông qua đánh giá tổng hợp nhiều
nghiên cứu nhằm đưa ra chỉ định, tỉ lệ thỏa đáng dự
kiến cũng như tỉ lệ tai biến cho phép đối với từng loại
hình thủ thuật, đối với sinh thiết qua da tổn thương cơ
xương khớp nói chung, mức độ thỏa đáng đạt được
dao động từ 76 tới 93%, mức độ thỏa đáng tối thiểu
phải đạt được là 70%, tỉ lệ tai biến dao động từ 0,1 đến
3% và không được vượt quá 6% (bao gồm cả tai biến
nặng và nhẹ). Mức độ thỏa đáng của bệnh phẩm và tỉ
lệ tai biến trong nghiên cứu của chúng tôi nằm trong
khoảng cho phép của hướng dẫn kể trên.
Sinh thiết mở vẫn luôn luôn được coi là tiêu chuẩn
vàng trong chẩn đoán đối với tổn thương xương khớp,
so với sinh thiết qua da sinh thiết mở được coi là lựa
chọn thứ hai khi sinh thiết qua da thất bại, có rất ít các
nghiên cứu báo cáo về giá trị của sinh thiết mở trong
chẩn đoán bệnh lí cơ xương khớp nói chung và tổn
thương cột sống nói riêng. Chúng tôi trình bày một
nghiên cứu lớn đa trung tâm được thực hiện bởi hiệp
hội u bướu cơ xương khớp Hoa Kỳ [6] nhằm đánh giá
mức độ thỏa đáng, độ chính xác và tai biến của sinh
thiết mở trong chẩn đoán bệnh lí ác tính cơ xương khớp
nói chung và sự thay đổi các chỉ số trên qua các thời kì.
Nghiên cứu hồi cứu được tiến hành trên 926 bệnh nhân
sinh thiết mở chẩn đoán bệnh lí cơ xương khớp ác tính
được chia làm hai nhóm, nhóm một là các bệnh nhân
được sinh thiết trước năm 1979 (329 bệnh nhân), nhóm
hai là các bệnh nhân được sinh thiết sau năm 1979
(579 bệnh nhân), kết quả cho thấy mức độ thỏa đáng,
độ chính xác và tỉ lệ tai biến không có sự khác biệt có ý
nghĩa thống kê giữa hai nhóm (p>0,05), kết quả cụ thể
trình bày trong Bảng 3.
ÑIEÄN QUANG VIEÄT NAM Số 20 - 04/201532
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
Bảng 3. Kết quả nghiên cứu của hội u bướu cơ xương khớp Hoa Kì và trong nghiên cứu của chúng tôi
N Mức độ thỏa đáng Độ chính xác Tai biến
Nhóm 1 329 90% 82% 17%
Nhóm 2 597 91,6% 82,2% 15,9%
Nhóm 1+2 926 90,7% 82,1% 16,3%
Chúng tôi 143 95,1% 85,3% 0,7%
So với kết quả nghiên cứu trên, mặc dù đối tượng nghiên cứu không hoàn toàn tương đồng nhưng cũng có thể
thấy mức độ thỏa đáng và độ chính xác của sinh thiết qua da dưới hướng dẫn CLVT tương đương so với sinh thiết
mở (p>0,05) nhưng tỉ lệ tai biến thấp hơn có ý nghĩa thống kê (p=0,014).
a b
c
Hình 1. Sinh thiết tổn thương tiêu xương do lao
(a) ở thân S1. Sinh thiết tổn thương di căn thể
đặc xương thân L2 (b), (c) mảnh bệnh phẩm thu
được khi sinh thiết bằng kim sinh thiết tuỷ xương
Surelock 11G.
IV. KẾT LUẬN
Qua nghiên cứu 143 trường hợp sinh thiết cột sống qua da dưới hướng dẫn CLVT cho kết quả mức độ thỏa
đáng là 95,1%, tỉ lệ chẩn đoán đặc hiệu dựa trên kết quả giải phẫu bệnh là 86%, tỉ lệ chính xác 85,3% và tỉ lệ tai biến
là 0,7%. Mức độ thỏa đáng trong nghiên cứu không thấp hơn so với sinh thiết mở cũng như mức độ thỏa đáng trong
các báo cáo lớn được thực hiện gần đây được thực hiện với các dụng cụ sinh thiết khác nhau, tỉ lệ tai biến trong
nghiên cứu không cao hơn các báo cáo kể trên và thấp hơn sinh thiết mở có ý nghĩa thống kê.
ÑIEÄN QUANG VIEÄT NAM Số 20 - 04/2015 33
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
1. Adapon, B.D., et al., CT-guided closed biopsy of
the spine. J Comput Assist Tomogr, 1981. 5(1): p. 73-8.
2. Robertson, R.C. and R.P. Ball, Destructive spine
lesions: diagnosis by needle biopsy. The journal of bone
and joint surgery, 1935. 17(3): p. 749-758.
3. Gupta, S., et al., Quality Improvement Guidelines
for Percutaneous Needle Biopsy. Journal of Vascular
and Interventional Radiology, 2010. 21(7): p. 969-975.
4. Rimondi, E., et al., Percutaneous CT-guided
biopsy of the musculoskeletal system: results of 2027
cases. Eur J Radiol, 2011. 77(1): p. 34-42.
5. Kornblum, M.B., et al., Computed tomography-
guided biopsy of the spine. A review of 103 patients.
Spine (Phila Pa 1976), 1998. 23(1): p. 81-5.
6. Mankin, H.J., C.J. Mankin, and M.A. Simon,
The hazards of the biopsy, revisited. Members of the
Musculoskeletal Tumor Society. J Bone Joint Surg Am,
1996. 78(5): p. 656-63.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Người liên hệ: Phạm Mạnh Cường, Khoa CĐHA, Bệnh viện Bạch Mai
Email: drphammanhcuong@gmail.com
Ngày nhận bài: 2.4. 2015
Ngày chấp nhận đăng: 10. 4 .2015
Các file đính kèm theo tài liệu này:
danh_gia_hieu_qua_cua_phuong_phap_sinh_thiet_cot_song_qua_da.pdf