Đánh giá hiệu quả đặc biệt Candida Albicans của nano bạc

Nồng độ tiêu diệt tối thiểu của nano bạc đối với Candida albicans Kết quả thử nghiệm cho thấy nano bạc có khả năng tiêu diệt C.albicans ngay ở nồng độ thấp và trong thời gian tiếp xúc ngắn. Sau 48 giờ nuôi cấy hỗn hợp nấm và nano bạc trên môi trường Sabouraud, số lượng khuẩn lạc nấm mọc ít, thậm chí không xuất hiện. MFC của nano bạc đối với C. calbicans ngay sau khi tiếp xúc, sau 15 phút, 1 giờ, 2 giờ, 4 giờ lần lượt là 6,25mg/L; 50mg/L; 12,5mg/L; 3,125mg/L; 3,125mg/L. Theo nghiên cứu của Wady và cộng sự năm 2012, MFC của nano bạc đối với C. albicans là 15,63mg/L [10]. Một nghiên cứu khác của Wady và cộng sự năm 2014 cho thấy MFC/MBC của nano bạc đối với C. glabrata, C. tropicalis, S. aureus lần lượt là 62,5mg/L, 15,63mg/L, 3,19mg/L [11]. Sự khác nhau này là do kích thước và hình dạng của các hạt nano bạc, chất ổn định trong dung dịch nano bạc, cấu trúc của tế bào nấm, vi khuẩn được nghiên cứu. Với nhiều ưu điểm vượt trội, nano bạc là một vật liệu kháng khuẩn, kháng nấm đầy hứa hẹn. Song do kích thước nhỏ bé, các hạt nano bạc có thể xâm nhập và tích lũy bên trong tế bào của sinh vật sống. Tuy nhiên, bạc có độc tính rất thấp, ít tác dụng phụ, chỉ 2-4% lượng bạc khi ăn phải được giữ lại trong mô. Nghiên cứu của Nguyễn Như Lâm và cộng sự (2009) đã chỉ ra rằng ở nồng độ 5000 ppm, dung dịch nano bạc không gây ra nhiễm độc đáng kể nào trên chuột nhắt trắng thử nghiệm [12]. Độc tính phổ biến của bạc được quan sát thấy là hiện tượng da bị nhuộm màu xám, xanh xám (argyria) xảy ra khi sử dụng sản phẩm chứa bạc với lượng lớn và trên diện rộng. Khoảng 90% viêm âm hộ-âm đạo do Candida spp gây ra bởi Candida albicans. Bình thường, Candida albicans thích nghi với môi trường acid âm đạo, có thể gặp ở âm đạo 10-20% phụ nữ trong độ tuổi sinh sản. Tuy nhiên khi gặp điều kiện thuận lợi như suy giảm hệ thống miễn dịch, ức chế miễn dịch tại chỗ hay đáp ứng dị ứng tại chỗ tăng lên, C. albicans tăng sinh và phát triển nhanh gây nên viêm âm đạo do nấm. Bệnh không nguy hiểm đến tính mạng nhưng gây nhiều phiền toái trong đời sống và có thể để lại di chứng, biến chứng ảnh hưởng đến khả năng sinh sản của người phụ nữ. Với hiệu quả kháng nấm, kháng khuẩn đã được chứng minh, nano bạc có thể được ứng dụng vào trong điều trị, dự phòng để làm hạn chế các nhiễm trùng do nấm gây ra.

pdf8 trang | Chia sẻ: hachi492 | Lượt xem: 4 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đánh giá hiệu quả đặc biệt Candida Albicans của nano bạc, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
DALIỄUHỌCSố27(Tháng09/2018) NGHIÊNCỨUKHOAHỌC 1, ,(8 8 ,(7 8 112% Lê Văn Hưng *, Trịnh Thị Hương ** TÓM TẮT Candida albicans là tác nhân hàng đầu gây ra các nhiễm trùng nấm ở người. Bình thường, chúng là một sinh vật sống cộng sinh, được tìm thấy ở niêm mạc đường tiêu hóa và miệng 40-60% người lớn khỏe mạnh. Khi hệ thống miễn dịch suy yếu C. albicans phát triển quá mức và gây ra nhiễm trùng. Đặc biệt, các thuốc kháng nấm thường có độc tính cao, tỷ lệ kháng thuốc đang tăng nhanh khiến cho việc điều trị gặp nhiều khó khăn. Mục tiêu: Đánh giá hiệu quả điều trị của nano bạc đối với C.albicans được phân lập được tại Bệnh viện Da liễu Trung ương. Phương pháp nghiên cứu: 30 chủng C. albicans phân lập từ bệnh nhân viêm âm hộ-âm đạo, được chẩn đoán xác định tại Bệnh viện Da liễu trung ương, cho tiếp xúc với nano bạc ở các nồng độ và khoảng thời gian khác nhau để đánh giá khả năng diệt C. albicans của nano bạc. Kết quả: Tác dụng diệt C. albicans của nano bạc tỷ lệ thuận với nồng độ và thời gian tiếp xúc. Nồng độ diệt C. albicans tối thiểu của nano bạc ngay sau khi tiếp xúc, sau 15 phút, 1 giờ, 2 giờ và 4 giờ lần lượt là 6,25mg/L; 25mg/L; 12,5mg/L; 3,125mg/L; 3,125mg/L. Kết luận: Nano bạc có hiệu quả diệt nấm tốt, ngay cả ở nồng độ thấp nếu thời gian tiếp xúc đủ dài. Từ khóa: Nano bạc, Candida albicans, Bệnh viện Da liễu trung ương. * Bộ môn Da liễu, Trường Đại học Y Hà Nội ** Bộ môn Vi sinh-Ký sinh trùng lâm sàng, Trường Đại học Y Hà Nội 1. ĐẶT VẤN ĐỀ Nấm là nguyên nhân hàng đầu gây ra các bệnh nhiễm trùng ở người, trong đó Candida albicans là nấm men gây bệnh phổ biến nhất [1], [2]. Bình thường, C. albicans sống cộng sinh ở niêm mạc đường tiêu hóa, cũng có thể tìm thấy trên da và niêm mạc âm đạo. Khi hệ thống miễn dịch của cơ thể suy yếu, chúng phát triển nhanh và gây ra nhiều bệnh nhiễm trùng như nhiễm khuẩn huyết, viêm âm đạo, viêm thực quản. Đặc biệt, C. albicans có khả năng hình thành biolm- cấu trúc màng sinh học giúp chúng bám dính tốt và khả năng chống lại tác dụng các thuốc kháng nấm. Trong các căn nguyên gây nhiễm trùng huyết liên quan đến đặt catherter, C. albicans là tác nhân đứng hàng đầu với tỷ lệ tử vong cao [3]. Do đó, việc điều trị các nhiễm trùng do tác nhân nấm gây ra gặp nhiều khó khăn. Sự xuất hiện của vật liệu mới với phổ kháng khuẩn, kháng nấm rộng và không chịu tác động bởi hiệu ứng kháng thuốc sẽ rất có ý nghĩa trong việc điều trị các bệnh nhiễm trùng. Từ lâu, bạc Số27(Tháng09/2018)DALIỄUHỌC NGHIÊNCỨUKHOAHỌC được biết đến như một kim loại có khả năng diệt khuẩn. Dung dịch keo bạc được sử dụng để điều trị các bệnh nấm trên da, các vết thương, vết bỏng, các bệnh răng miệng. Tuy nhiên, sự xuất hiện của thuốc kháng sinh vào giữa thế kỷ XX đã làm cho mức độ sử dụng các thuốc có nguồn gốc từ bạc giảm dần. Gần đây, do sự xuất hiện và gia tăng nhanh chóng của nhiều vi khuẩn, nấm, ký sinh trùng kháng thuốc, tính năng kháng khuẩn, kháng nấm của bạc lại được chú ý. Với những tiến bộ trong công nghệ nano, bạc được chia thành các phân tử có kích thước vô cùng nhỏ bé, nano mét, làm tăng diện tích bề mặt của bạc và nhờ đó khả năng diệt khuẩn được tăng lên gấp nhiều lần. Trong các nghiên cứu gần đây, nano bạc đã được chứng minh có hiệu quả đối với Candida albicans [4], [5]. Tuy nhiên, các nghiên cứu chỉ tập trung làm rõ cơ chế tác động của nano bạc. Do đó, chúng tôi tiến hành đề tài: “Đánh giá hiệu quả diệt Candida albicans của nano bạc” để xác định hiệu quả của nano bạc lên C. albicans theo nồng độ và thời gian tiếp xúc. 2. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 2.1. Đối tượng 30 chủng Candida albicans được phân lập từ bệnh từ bệnh nhân được chẩn đoán viêm âm hộ- âm đạo đến khám và điều trị tại Bệnh viện Da liễu Trung ương. 2.2. Vật liệu - Dung dịch nano bạc có nồng độ 500mg/L được cung cấp bởi Phòng Công nghệ thân môi trường, Viện Công nghệ môi trường. Các hạt nano bạc có kích thước 10-30 nm được điều chế bằng phương pháp dùng Sodium Borohydride (NaBH4) khử dung dịch bạc nitrat. - Môi trường thạch Sabouraud, bộ nhuộm Gram, huyết thanh thỏ, nước muối sinh lý. - Tủ ấm (Thermo), tủ an toàn sinh học, tủ lạnh thường, tủ âm sâu, máy đo độ đục (BioMérieux), máy vortex (IKA). 2.3. Phương pháp nghiên cứu: Mô tả cắt ngang, thực hiện các kỹ thuật xét nghiệm trong Labo. 2.3.1. Chuẩn bị chủng C. albicans 30 chủng C. albicans thử nghiệm phân lập từ bệnh phẩm mủ, dịch viêm của bệnh nhân được chẩn đoán viêm âm hộ-âm đạo dựa trên các tiêu chuẩn: - Soi tươi: trên tiêu bản soi tươi, bào tử C. albicans có hình bầu dục, nhiều bảo tử đang nảy chồi, đôi khi thấy sợi giả. - Nuôi cấy: sau 48 giờ nuôi cấy trên thạch Sabouraud, C. albicans tạo thành những khuẩn lạc màu trắng, dạng S, có đường kính khoảng 2-3mm. Bắt khuẩn lạc nhuộm Gram thấy các tế bào nấm men hình bầu dục, nhiều tế bào đang nảy chồi, bắt màu Gram dương. - Test mầm giá (Germ tube test): dương tính. Hình 1.1. Test mầm giá xác định Candida albicans DALIỄUHỌCSố27(Tháng09/2018) NGHIÊNCỨUKHOAHỌC Các chủng C. albicans sau khi phân lập được bảo quản trong môi trường Skim milk ở nhiệt độ -800C. Trước thử nghiệm, cấy chuyển 2 lần các chủng lên thạch Sabouraud để kiểm tra và ổn định các đặc tính sinh học. Sau khi kiểm tra, tiến hành pha huyền dịch nấm để thực hiện thử nghiệm. 2.3.2. Chuẩn bị dung dịch nano bạc với các nồng độ khác nhau Dung dịch nano bạc được pha loãng ở 10 nồng độ là 500mg/L; 50mg/L; 25mg/L; 12,5mg/L; 6,25mg/L; 3,125mg/L; 1,56mg/L; 0,78mg/L; 0,39mg/L; 0,19mg/L lần lượt tương ứng với các hệ số pha loãng 1, 1/10, 1/20, 1/40, 1/80, 1/160, 1/320, 1/640, 1/1280, 1/2560. 2mlddNanobạc Nướccất Nướccất Nướccất Nướccất Nướccất Nướccất Nướccất Nướccất Nướccất Ống chứng: cho vào 2ml nước cất vô trùng. Hình 2.2. Pha loãng dung dịch nano bạc ở các nồng độ khác nhau 2.3.3. Đánh giá khả năng diệt của nano bạc đối với C. albicans Pha hỗn hợp của huyền dịch nấm và dung dịch nano bạc ở các nồng độ khác nhau, điều chỉnh độ đục đạt 0,5 McFarland (tương đương 1-5x106 CFU/ml). Vortex để trộn đều hỗn hợp. Cấy trải 100µl hỗn hợp lên môi trường thạch Sabouraud, nuôi cấy ở 370C. Đối chứng chỉ có nước cất vô trùng và khuẩn lạc của C. albicans. Hiệu quả tiêu diệt của nano bạc đối với C. albicans được đánh giá dựa trên số lượng khuẩn lạc nấm này còn mọc trên môi trường so với nồng độ nấm ban đầu sau các khoảng thời gian tiếp xúc với dung dịch nano bạc. Số lượng khuẩn lạc của hỗn hợp ở từng nồng độ và thời gian tiếp xúc mọc trên đĩa nuôi cấy được tính trung bình trên 30 chủng. 2.3.4. Xác định nồng độ tiêu diệt tối thiểu của nano bạc đối với C. albicans Nồng độ diệt nấm tối thiểu (Minimum Fungicidal Concentration-MFC) là nồng độ thấp nhất làm giảm 99,9% lượng nấm ban đầu. Trong nghiên cứu này, MFC của dung dịch nano bạc là nồng độ ở ống mà khi cấy lên môi trường không có khuẩn lạc mọc. Số liệu được xử lý theo chương trình Excell 2016. 3. KẾT QUẢ 3.1. Đánh giá hiệu quả kháng C. albicans của nano bạc Tại mỗi nồng độ và thời gian ủ cụ thể, hỗn hợp C. albicans và dung dịch nano bạc được cấy Số27(Tháng09/2018)DALIỄUHỌC NGHIÊNCỨUKHOAHỌC lên môi trường thạch Sabouraud và ủ ở 370C. Sau 48 giờ, đếm số lượng khuẩn lạc mọc và tính ra giá trị trung bình trên 30 chủng. Biểu đồ 3.1 cho thấy ở nồng độ thấp và tiếp xúc trong thời gian ngắn, nano bạc đã có khả năng tiêu diệt được C. albicans. Tác dụng diệt nấm của nano bạc tỷ lệ thuận với nồng độ và thời gian tiếp xúc. Ở nồng độ 25mg/L, nano bạc đã có khả năng tiêu diệt được trên 90% C. albicans ngay khi vừa tiếp xúc. Ở nồng độ 3,125mg/L, nano bạc có khả năng tiêu diệt 100% C. albicans khi ủ tương ứng trong 2 giờ và 4 giờ. Biểu đồ 3.1. Khả năng tiêu diệt của nano bạc đối với các chủng C. albicans theo thời gian tiếp xúc DALIỄUHỌCSố27(Tháng09/2018) NGHIÊNCỨUKHOAHỌC 3.2. Xác định nồng độ tiêu diệt tối thiểu của nano Sau 48 giờ nuôi cấy, với thời gian tiếp xúc 0 giờ, 15 phút, 1 giờ, 2 giờ, 4 giờ thì lần lượt tại các ống có nồng độ nano bạc là 6,25mg/L; 50mg/L; 12,5mg/L; 3,125mg/L; 3,125mg/L không phát hiện thấy khuẩn lạc của cả 30 chủng C. albicans nghiên cứu xuất hiện trên môi trường. Nhóm nghiên cứu đã xác định được nồng độ tiêu diệt tối thiểu của nano bạc đối với C. albicans theo 5 khoảng thời gian tiếp xúc (Bảng 3.1). Thời gian 0 giờ 15 phút 1 giờ 2 giờ 4 giờ MFC (mg/L) 6,25 50 12,5 3,125 3,125 Bảng 3.1. Nồng độ tiêu diệt tối thiểu của nano bạc đối với C. albicans theo thời gian tiếp xúc 4. BÀN LUẬN 4.1. Hiệu quả diệt Candida albicans của nano bạc Hiệu quả kháng nấm của nano bạc được đánh giá dựa trên số lượng khuẩn lạc mọc sau 48 giờ nuôi cấy so với số lượng tế bào nấm trong hỗn hợp ban đầu. Mẫu chứng được thực hiện đồng thời để kiểm soát chất lượng của 30 chủng C. albicans nghiên cứu, môi trường nuôi cấy và thao tác của người thực hiện. Candida albicans là tác nhân nấm hàng đầu gây nhiễm trùng cơ hội. Một yếu tố quan trọng góp phần vào sinh bệnh học của C. albicans là sự hình thành biolm-một cấu trúc màng sinh học giúp chúng bám tốt lên cả bề mặt rắn và bề mặt sinh học. Đặc biệt là các thiết bị thay thế nhân tạo và catheter chứa bề mặt tối ưu cho sự hình thành biolm. Trong các căn nguyên gây nhiễm trùng huyết liên quan đến đặt catherter, C. albicans là tác nhân đứng hàng đầu với tỷ lệ tử vong cao [3]. Mặt khác, lớp màng sinh học giúp các tế bào nấm chống lại các cơ chế bảo vệ của tế bào chủ và hiệu lực của các thuốc chống nấm. Do đó, việc điều trị các nhiễm trùng do nấm gây ra gặp nhiều khó khăn. Từ lâu, bạc được biết đến như một kim loại có khả năng diệt khuẩn. Dung dịch keo bạc được sử dụng để điều trị các bệnh nấm trên da, các vết thương, vết bỏng, các bệnh răng miệng. Với những tiến bộ trong công nghệ nano, bạc được chia thành các phân tử có kích thước vô cùng nhỏ bé, nano mét, làm tăng diện tích bề mặt của bạc và nhờ đó khả năng diệt khuẩn được tăng lên gấp nhiều lần. Cho đến nay, các nhà khoa học đã đưa ra nhiều thuyết về cơ chế diệt khuẩn của nano bạc, trong đó lý thuyết hấp thụ thuyết phục hơn cả. Bản chất của thuyết này là ở chỗ tế bào vi sinh vật bị vô hiệu hóa là do kết quả của quá trình tương tác tĩnh điện giữa bề mặt mang điện tích âm của tế bào và ion Ag+ được hấp phụ lên đó, các ion này sau đó xâm nhập vào bên trong tế bào vi sinh vật và vô hiệu hóa chúng. Với kích thước nhỏ bé, các hạt nano bạc có diện tích bề mặt lớn để tương tác lớn, từ đó giúp cho nano bạc có hiệu quả diệt khuẩn, diệt nấm vượt trội. Kết quả thử nghiệm của nhóm nghiên cứu cho thấy, nano bạc đã có khả năng tiêu diệt C. albicans ngay khi vừa tiếp xúc. Ở nồng độ 3,125mg/L, nano bạc đã tiêu diệt được >90% nấm C. albicans (<100 khuẩn lạc mọc). Tác dụng Số27(Tháng09/2018)DALIỄUHỌC NGHIÊNCỨUKHOAHỌC diệt nấm tăng mạnh khi tăng nồng độ và thời gian tiếp xúc với nano bạc. Ở nồng độ 12,5mg/L, không có khuẩn lạc mọc trên cả 5 khoảng thời gian tiếp xúc. Ở nồng độ 3,125mg/L không có khuẩn lạc mọc sau khi tiếp xúc với nano bạc trong 2 giờ và 4 giờ. Nhiều nghiên cứu đã chỉ ra rằng nano bạc có tác dụng kháng nấm, kháng khuẩn tốt, trên cả các chủng Candida albicans có khả năng hình thành biolm [6], [7]. Theo nghiên cứu của Atef và cộng sự, nano bạc ở ngay nồng độ thấp đã ức chế tốt sự phát triển của nấm T. mentagrohytes và C. albicans với nồng độ ức chế tối thiểu lần lượt là 4±2,0mg/L và 5±0,1mg/L [8]. Nghiên cứu của Kim và cộng sự cũng cho thấy nano bạc có tác dụng ức chế trên một số loại nấm như T  .mentagrophytes  , C  . albicans  , C  .  tropicalis  , C. gablata và hiệu quả cao hơn so với thuốc kháng nấm uconazole [9]. Ngoài ra, nano bạc có tác dụng hiệp đồng với nhiều loại thuốc kháng nấm, kháng khuẩn. Qua đó, có thể ứng dụng vào việc lựa chọn thuốc trong điều trị giúp đạt hiệu quả tốt và tính an toàn cao do giảm được liều dùng, hạn chế được nhiều tác dụng không mong muốn. 4.2. Nồng độ tiêu diệt tối thiểu của nano bạc đối với Candida albicans Kết quả thử nghiệm cho thấy nano bạc có khả năng tiêu diệt C.albicans ngay ở nồng độ thấp và trong thời gian tiếp xúc ngắn. Sau 48 giờ nuôi cấy hỗn hợp nấm và nano bạc trên môi trường Sabouraud, số lượng khuẩn lạc nấm mọc ít, thậm chí không xuất hiện. MFC của nano bạc đối với C. calbicans ngay sau khi tiếp xúc, sau 15 phút, 1 giờ, 2 giờ, 4 giờ lần lượt là 6,25mg/L; 50mg/L; 12,5mg/L; 3,125mg/L; 3,125mg/L. Theo nghiên cứu của Wady và cộng sự năm 2012, MFC của nano bạc đối với C. albicans là 15,63mg/L [10]. Một nghiên cứu khác của Wady và cộng sự năm 2014 cho thấy MFC/MBC của nano bạc đối với C. glabrata, C. tropicalis, S. aureus lần lượt là 62,5mg/L, 15,63mg/L, 3,19mg/L [11]. Sự khác nhau này là do kích thước và hình dạng của các hạt nano bạc, chất ổn định trong dung dịch nano bạc, cấu trúc của tế bào nấm, vi khuẩn được nghiên cứu. Với nhiều ưu điểm vượt trội, nano bạc là một vật liệu kháng khuẩn, kháng nấm đầy hứa hẹn. Song do kích thước nhỏ bé, các hạt nano bạc có thể xâm nhập và tích lũy bên trong tế bào của sinh vật sống. Tuy nhiên, bạc có độc tính rất thấp, ít tác dụng phụ, chỉ 2-4% lượng bạc khi ăn phải được giữ lại trong mô. Nghiên cứu của Nguyễn Như Lâm và cộng sự (2009) đã chỉ ra rằng ở nồng độ 5000 ppm, dung dịch nano bạc không gây ra nhiễm độc đáng kể nào trên chuột nhắt trắng thử nghiệm [12]. Độc tính phổ biến của bạc được quan sát thấy là hiện tượng da bị nhuộm màu xám, xanh xám (argyria) xảy ra khi sử dụng sản phẩm chứa bạc với lượng lớn và trên diện rộng. Khoảng 90% viêm âm hộ-âm đạo do Candida spp gây ra bởi Candida albicans. Bình thường, Candida albicans thích nghi với môi trường acid âm đạo, có thể gặp ở âm đạo 10-20% phụ nữ trong độ tuổi sinh sản. Tuy nhiên khi gặp điều kiện thuận lợi như suy giảm hệ thống miễn dịch, ức chế miễn dịch tại chỗ hay đáp ứng dị ứng tại chỗ tăng lên, C. albicans tăng sinh và phát triển nhanh gây nên viêm âm đạo do nấm. Bệnh không nguy hiểm đến tính mạng nhưng gây nhiều phiền toái trong đời sống và có thể để lại di chứng, biến chứng ảnh hưởng đến khả năng sinh DALIỄUHỌCSố27(Tháng09/2018) NGHIÊNCỨUKHOAHỌC sản của người phụ nữ. Với hiệu quả kháng nấm, kháng khuẩn đã được chứng minh, nano bạc có thể được ứng dụng vào trong điều trị, dự phòng để làm hạn chế các nhiễm trùng do nấm gây ra. 5. KẾT LUẬN Nano bạc có khả năng diệt nấm tốt ngay ở nồng độ thấp, MFC của nano bạc đối với Candida albicans khi tiếp xúc trong 2 giờ là 3,125mg/L. C. albicans là nguyên nhân thứ hai gây viêm âm hộ- âm đạo, một bệnh phụ khoa thường gặp ở phụ nữ. Việc nghiên cứu về tác dụng của nano bạc với C. albicans là rất tốt, nghiên cứu này đã mở ra hướng mới trong điều trị các bệnh nấm ở da trong chuyên ngành Da liễu như: viêm kẽ, viêm âm hộ, loét da và niêm mạc do C. albicans và các loài vi nấm kháng thuốc khác. Ngoài ra, có thể ứng dụng nano bạc để sản xuất: dung dịch sát trùng, kem bôi, miếng dán, gạc đắp các vết thương và nhiều sản phẩm khác như băng vệ sinh, bỉm cho trẻ em và người già. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Pfaller M, Diekema D (2007) Epidemiology of invasive candidiasis: a persistent public health problem. Clin Microbiol Rev20: 133–63. 2.  Sardi JCO, Scorzoni L, Bernardi T, Fusco-Almeida AM, Mendes Giannini MJS (2013)  Candida  species: current epidemiology, pathogenicity, biolm formation, natural antifungal products and new therapeutic options. J Med Microbiol 62: 10–24 DOI 10.1099/ jmm.0.045054-0. 3. Yapar N.(2014). Epidemiology and risk factors for invasive candidiasis. Ther Clin Risk Manag. 2014;10:95-105.  4. Selvaraj M, Pandurangan P, Ramasami N, Rajendran SB, Sangilimuthu SN, Perumal P. Highly potential antifungal activity of quantum-sized silver nanoparticles against Candida albicans. Appl Biochem Biotechnol. 2014;173:55–66. 5. Monteiro DR, Takamiya AS, Feresin LP, Gorup LF, de Camargo ER, Delbem ACB, Henriques M, Barbosa DB. Susceptibility of Candida albicans and Candida glabrata biolms to silver nanoparticles in intermediate and mature development phases.  J Prosthodont Res. 2015;59:42–48. 6. Feng QL, et al.(2000). A mechanistic study of the antibacterial eect of silver ions on Escherichia coli and Staphylococcus aureus. J Biomed Master Res 52: 662-668. 7. Humberto H. Lara, et al.(2015). Eect of silver nanoparticles on Candida albicans biolms: an ultrastructural study. J nanobiotechnology. 2015;13:91. 8. Atef AH, Mogda KM, HH M. Biosynthesis of silver nanoparticles (AgNps) (a model of metals) by Candida albicans and its antifungal activity on Some fungal pathogens (Trichophyton mentagrophytes and Candida albicans) New York Sci J. 2013;6(3):27–43. 9. Kim KJ, Sung WS, Moon SK, Choi JS, Kim JG, Lee DG. Antifungal eect of silver nanoparticles on dermatophytes.  J Microbiol Biotechnol. 2008;18(8):1482–1484. 10. A. F. Wady, et al.(2012). Evaluation of  Candida albicans  adhesion and biolm formation on a denture base acrylic resin containing silver nanoparticles. Journal of Applied Microbiology. 2012;112(6):1163–1172. Số27(Tháng09/2018)DALIỄUHỌC NGHIÊNCỨUKHOAHỌC 11. AF Wady, et al.(2014). Eect of a Silver Nanoparticles Solution on Staphylococcus aureus and Candida spp. Jour of Nanomaterials. 2014 ;128. 12. Nguyễn Như Lâm, Nguyễn Gia Tiến, Trương Thu Huyền, Nguyễn Hoài Châu, Trần Thị Ngọc Dung.(2009). Nghiên cứu nồng độ diệt khuẩn tối thiểu và độc tính cấp tính của dung dịch nano bạc. Tạp chí Học Thảm Học và Bỏng. SUMMARY EVALUATION OF THE THERAPEUTIC EFFECTIVENESS OF SILVER NANOPARTICLES ON CANDIDA ALBICANS Candida albicans is the leading cause of human fungal infections. Normally, it is a symbiotic organism that is detected in the gastrointestinal tract and the mouth in 40–60% of healthy adults. When the immune system is weakened, C. albicans overgrowth and cause the human infection candidiasis. In particular, the antifungal drugs are highly toxic, the rate of drug resistance is increasing rapidly, causing many diculties for the treatment. Objectives: To evaluate the therapeutic eectiveness of silver nanoparticles on C. albicans isolated in the National Hospital of Dermatology and Venereology. Methods: 30 species of C. albicans were isolated from patients with vulvovaginitis diagnosed at the National Dermatology Hospital. 30 species were contacted silver nanoparticles at dierent concentrations and durations to evaluate the eect of silver nanoparticles to evaluate the eect of silver nanoparticles. Results: Fungicidal eect of silver nanoparticles was proportional to the concentration and contacting time period. MFC of Candida albicans immediately, after 15 minutes, 1 hour, 2 hours and 4 hours were 6.25 mg / L; 25mg / L; 12.5mg / L; 3,125mg / L; 3,125mg / L. Conclusion: Fungicidal eect of silver nanoparticles was high, even at low concentrations if contacting time period is long enough.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfdanh_gia_hieu_qua_dac_biet_candida_albicans_cua_nano_bac.pdf
Tài liệu liên quan