Trong nghiên cứu của chúng tôi, khi so sánh
giữa nhóm nguy cơ cao các rối loạn tăng HA có bổ
sung Aspirin và nhóm chứng, có sự khác biệt về
tỷ lệ các rối loạn tăng HA trong thai kỳ giữa nhóm
chứng (23,05%) và nhóm điều trị Aspirin (12,61%),
p = 0,0309. Và tương tự, có sự khác biệt về tỷ lệ
TSG giữa nhóm chứng (18,00%) và nhóm điều trị
canxi (5,41%). Tuy nhiên, không có sự khác biệt
về tỷ lệ TSG sớm, TSG trung gian, TSG nặng giữa
2 nhóm và không có sự khác biệt về tỷ lệ tăng HA
thai nghén, tăng HA mãn, TSG chồng chất giữa 2
nhóm. Can thiệp Aspirin không cải thiện tỷ lệ các
rối loạn tăng huyết áp trong thai kỳ so với nhóm
chứng (RR = 0,598, CKT 95%; 0,35–1,03, p=0,0642).
Tuy nhiên sử dụng Aspirin lại làm giảm tỷ lệ TSG so
với nhóm chứng (RR = 0,441, CKT 95%; 0,21–0,90,
p=0,0260). Không có sự khác biệt về tỷ lệ tăng HA
thai nghén, tăng HA mãn, TSG chồng chất như kết
quả thai kỳ và các biến chứng giữa 2 nhóm. Mặt
khác khi phân nhóm ngẫu nhiên để điều trị, nguy
cơ TSG mọi thời điểm trong thai kỳ của nhóm điều
trị là 5,10% cao hơn nguy cơ của nhóm chứng là
2,64%, sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê p =
0,012. Do đó nếu phân nhóm đồng đều hơn thì kết
quả điều trị Aspirin còn cải thiện nguy cơ Tiền Sản
Giật hơn nữa.
Nhìn chung, đánh giá vai trò dự phòng các rối
loạn tăng HA trong thai kỳ nói chung và bệnh lý
TSG nói riêng còn nhiều bàn cải. Đối với nhóm có
nguy cơ TSG, sử dụng aspirin liều thấp, bắt đầu
sớm trong thai kỳ, làm giảm tỷ lệ TSG. Phân tích
Cochrane 2010 đánh giá sự an toàn và hiệu quả
aspirin liều thấp để dự phòng TSG gồm 59 thử
nghiệm với hơn 37.560 phụ nữ có nguy cơ TSG
[13]. Kết quả cho thấy sử dụng aspirin liều thấp có
liên quan thấp, nhưng đáng kể, giảm nguy cơ TSG
(0.83 RR, 95% CI 0,77-0,89) (46 thử nghiệm, 32.891
phụ nữ), giảm 8% nguy cơ sinh non tháng (0,92
RR, 95% CI 0,88-0,97) (29 thử nghiệm khác, 31.1151
phụ nữ), và 14% tử vong chu sinh (RR 0,86 , 95% CI
0,76-0,98) (40 thử nghiệm, 33.098 phụ nữ) [7]. Một
phân tích hệ thống trên 14 thử nghiệm khác bao
gồm hơn 12.000 phụ nữ có yếu tố nguy cơ TSG cho
thấy Aspirin liều thấp làm giảm nguy cơ phát triển
TSG (OR 0,86, 95% CI 0,76-0,96), nhưng không thay
đổi đáng kể đến cân nặng lúc sinh hoặc nguy cơ
rau bong non [12].
7 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Lượt xem: 17 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đánh giá hiệu quả điều trị dự phòng bệnh lý tiền sản giật – sản giật bằng Aspirin ở những thai phụ có nguy cơ cao, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tập 13, số 03
Tháng 08-2015
Tạp chí PHỤ SẢN
47
TẠP CHÍ PHỤ SẢN - 13(3), 47-53, 2015
Tác giả liên hệ (Corresponding author): Cao Ngọc Thành, email: thanhykhue@yahoo.com
Ngày nhận bài (received): 18/07/2015. Ngày phản biện đánh giá bài báo (revised): 01/08/2015. Ngày bài báo được chấp nhận đăng (accepted): 01/08/2015
Cao Ngọc Thành, Trương Quang Vinh, Nguyễn Vũ Quốc Huy, Võ Văn Đức, Trần Mạnh Linh, Võ Văn Khoa
Bệnh viện Trường Đại học Y Dược Huế
ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ ĐIỀU TRỊ DỰ PHÒNG
BỆNH LÝ TIỀN SẢN GIẬT – SẢN GIẬT BẰNG ASPIRIN
Ở NHỮNG THAI PHỤ CÓ NGUY CƠ CAO
Tóm tắt
Mục tiêu nghiên cứu: Đánh giá hiệu quả điều trị
dự phòng bệnh lý Tiền sản giật – Sản giật bằng Aspirin
ở những thai phụ có nguy cơ cao.
Đối tượng và phương pháp:Thử nghiệm lâm sàng
ngẫu nhiên có đối chứng.Trong số 2.998 thai phụ đến
khám, sàng lọc và theo dõi thai nghén tại Khoa Phụ Sản,
Bệnh viện Đại học Y dược Huế từ 09/2012 đến 03/2015,
phát hiện 487 trường hợp thai nghén nguy cơ cao các rối
loạn tăng HA trong thai kỳ. Trong đó 111 trường hợp đã
được điều trị dự phòng TSG bằng sử dụng Aspirin liều 81
mg/ngày bắt đầu từ tuổi thai 13 tuần đến 26 tuần.
Kết quả: Tỷ lệ các rối loạn tăng huyết áp trong thai
kỳ chiếm 3,74% so với toàn bộ thai nghén, trong đó Tiền
sản giật chiếm tỷ lệ 2,84%. Tỷ lệ các rối loạn tăng HA trong
thai kỳ và tỷ lệ TSG chung ở nhóm điều trị Aspirin và nhóm
chứng, tương ứng là 23,05% và 12,61%, 18,00% và 5,41%.
Can thiệp Aspirin làm giảm tỷ lệ TSG so với nhóm chứng
(RR = 0.4414,KTC 95 0,21 – 0,90, p = 0.0260). Không có sự
khác biệt về tỷ lệ TSG nặng, TSG sớm, TSG trung gian và tỷ
lệ tăng HA thai nghén, tăng HA mãn, TSG chồng chất như
kết quả thai kỳ và các biến chứng giữa 2 nhóm.
Kết luận: Điều trị Aspirin làm giảm tỷ lệ TSG chung
trong thai kỳ.
Abstract
ASPIRIN SUPPLEMENTATION DURING PREGNANCY
FOR PREVENTINGHYPERTENSIVE DISORDERS
Objective: To study the effect of aspirin in the
prevention of pre-eclampsia in high-risk women.
Materials and methods: A randomized
controlled trial study design. From the 487 high risk
pregnancy, 111 participants were randomised to start
Aspirin 81mg/day at 13 to 26 gestation.
Results: Of 2,998 patients with complete
outcome data, there were 3.74% of hypertension
disorder, and 2.84% cases of pre-eclampsia. Aspirin
supplementation during pregnancy reduced the rate
pre-eclampsia (RR 0,44, 95% CI 0.21 – 0,90, p=0,0260).
Conclusion: Aspirin supplementation during
pregnancy prevent pre-eclampsia.
Key word: Aspirin, hypertension disorder, pre-
eclampsia, gestational hypertension; screening,
pregnancy, prevention.
1. Đặt vấn đề
Tiền sản giật – sản giật (TSG – SG) là bệnh lý thường
gặp trong thai kỳ, theo tổ chức Y tế Thế giới, tỷ lệ TSG
thay đổi khoảng 5 – 10% trong tất cả các lần mang thai
và có thể gặp đến 18% tại các nước đang phát triển [9].
Đây là bệnh lý có nhiều biến chứng cho cả thai nhi và bà
mẹ, đặc biệt là một trong năm tai biến sản khoa hàng
đầu gây tử vong mẹ và trẻ sơ sinh.
Tuy nhiên, phần lớn tử vong do TSG – SG có thể
tránh được thông qua việc phát hiện kịp thời và kiểm
soát hiệu quả bệnh và các biến chứng. Chính vì vậy
WHO đã không ngừng tích cực đưa ra các bằng chứng
lâm sàng, các khuyến cáo nhằm thúc đẩy áp dụng
trong thực hành quản lý tiền sản đối với bệnh lý TSG
– SG [10], [11]. Mặc dù nguyên nhân và cơ chế bệnh
sinh của TSG – SG vẫn chưa được biết rõ nhưng các
biện pháp dự báo và dự phòng vẫn được tiến hành
nghiên cứu. Trong thời gian gần đây, các nghiên cứu
tập trung đến tuổi của mẹ, huyết áp trung bình động
mạch, Doppler động mạch tử cung và một loạt các
chất chỉ điểm sinh hóa liên quan đến TSG cho phép
xác định tỷ lệ dự báo thai phụ sẽ phát triển bệnh lý
TSG sớm lên đến 91,0% và kết luận rằng có thể dự
báo một cách hữu hiệu TSG từ thời điểm 11 – 13 tuần
tuổi thai và là cơ sở cho những can thiệp dự phòng
sớm trong thai kỳ [7].
Bên cạnh tìm ra những yếu tố sàng lọc TSG thì điều
trị dự phòng hình thành bệnh lý cũng đã được nghiên
cứu rộng rãi. Hiện nay trên thế giới có nhiều nghiên
cứu sử dụng các can thiệp như chất chống oxy hóa, các
CAO NGỌC THÀNH, TRƯƠNG QUANG VINH,
NGUYỄN VŨ QUỐC HUY, VÕ VĂN ĐỨC, TRẦN MẠNH LINH, VÕ VĂN KHOASẢN KHOA VÀ SƠ SINH
Tập 13, số 03
Tháng 08-2015
Tạp chí PHỤ SẢN
48
vitamin C, E, canxi cacbonat, giảm cân, chế độ ăn, liệu
pháp Aspirin liều thấp ở phụ nữ có nguy cơ cao đã
được thực hiện mục đích dự phòng TSG – SG. Giảm tỷ
lệ TSG bằng liệu pháp Aspirin liều thấp đã được chứng
minh trong nhiều thử nghiệm [10], [3].
Các công trình nghiên cứu về bệnh lý TSG ở Việt Nam
nói chung và khu vực miền Trung nói riêng đã tập trung
nhiều vào lĩnh vực dịch tễ học, các triệu chứng lâm sàng,
cận lâm sàng, chẩn đoán và điều trị trên thai phụ đã
phát triển bệnh lý TSG [1], [2], [4], [5], [6] tuy nhiên, thời
gian gần đây, dự báo TSG và điều trị dự phòng đang là
vấn đề được quan tâm hàng đầu trong tiếp cận bệnh
lý này. Với thực trạng bệnh lý TSG – SG còn nhiều bàn
cải về điều trị cũng như chưa có biện pháp dự báo dự
phòng được áp dụng cụ thể thì nghiên cứu các yếu tố
sàng lọc và điều trị dự phòng bệnh lý TSG là hết sức cần
thiết để góp phần giảm tỷ lệ bệnh tật, tử vong do bệnh
lý này gây ra. Xuất phát từ những vần đề trên, tôi đề xuất
đề tài nghiên cứu: Đánh giá hiệu quả điều trị dự phòng
bệnh lý Tiền sản giật – Sản giật bằng Aspirin liều thấp ở
những thai phụ có nguy cơ cao.
Mục tiêu nghiên cứu:Đánh giá hiệu quả điều trị dự
phòng bệnh lý Tiền sản giật – Sản giật bằng Aspirin
liều thấp ở những thai phụ có nguy cơ cao.
2. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu
2.1. Đối tượng nghiên cứu
Những thai phụ đến khám, sàng lọc quý I xác định
nguy cơ cao các rối loạn tăng HA trong thai kỳ tại
Khoa Phụ sản Bệnh viện Trường Đại học Y Dược Huế.
2.1.1. Tiêu chuẩn chọn bệnh:
- Mang thai đơn thai.
- Đến khám thai, làm các xét nghiệm, thăm dò
sàng lọc trong quý I thai kỳ ở tuổi thai từ 11 tuần 0
ngày đến 13 tuần 6 ngày.
- Kết quả sàng lọc nguy cơ cho mọi rối loạn tăng
HA trong thai kỳ theo FMF - The Fetal Medicine
Foundation ≥ 1/100.
- Được theo dõi cho đến khi kết thúc thai kỳ tại
Bệnh viện Trường Đại học Y Dược Huế.
2.1.2. Tiêu chuẩn loại trừ.
- Đa thai.
- Dị tật hình thái thai được phát hiện qua sàng lọc
quý I: thai vô sọ, vô não, hở thành bụng, bất thường
cột sống
- Sẩy thai, thai chết trong tử cung mà nguyên nhân
không phải do bệnh lý hoặc các biến chứng của TSG – SG.
- Mất dấu trong quá trình theo dõi.
2.2. Phương pháp nghiên cứu.
2.2.1. Thiết kế nghiên cứu.
- Thử nghiệm lâm sàng ngẫu nhiên có đối chứng -
thời gian nghiên cứu từ 09/2012 đến 03/2015
2.2.2. Phương pháp tiến hành.
Bước 1. Sàng lọc nguy cơ tăng HA trong thai kỳ:
Thu thập thông tin tiền sử và bệnh sử:
- Số lần mang thai gồm: Thai con so nếu chưa có
lần sinh thai trên 22 tuần. Thai con rạ có hoặc không
có tiền sử mang thai bị TSG.
- Phương pháp thụ thai gồm: có thai tự nhiên, sử
dụng thuốc kích thích rụng trứng.
- Tiền sử sản khoa, tiếp xúc với thuốc lá trong quá
trình mang thai.
- Tiền sử bệnh lý: tăng HA mãn tính, đái tháo
đường, hội chứng kháng phospholipid, rối loạn đông
máu, suy giảm miễn dịch, bệnh hồng cầu lưỡi liềm,
tiền sử bệnh lý tim mạch, bệnh thận.
- Tiền sử gia đình mẹ, chị em gái mang thai TSG,
gia đình có người tăng HA.
Khám lâm sàng:
- Tuổi mẹ, chủng tộc, tuổi thai, khám các dấu hiệu
thai nghén bất thường trong 3 tháng đầu. Tính chỉ số
khối cơ thể (BMI).
- Đo HA: ghi kết quả hiển thị HATT, HATr mỗi lần đo
và kết quả HATB, HATB tính dựa trên kết quả trung bình
các lần đo, được thể hiện theo bội số trung vị MoM [14].
Siêu âm sàng lọc quí I thai kỳ:
- Đo chiều dài đầu – mông, độ dày khoảng mờ da
gáy, tìm các dị tật thai nhi.
- Siêu âm Doppler động mạch tử cung, đo chỉ số
xung – PI 2 bên. Xác định giá trị PI nhỏ nhất và thể
hiện theo bội số trung vị MoM [9].
Xét nghiệm:
- PAPP-A: sử dụng kit PAPP-A (A098-201) và hệ thống
DELFIA XPRESS analyzer (PerkinElmer Life and Analytical
Sciences, Wallac Oy, Mustionkatu 6, Turku, Finland).
- Nồng độ PAPP-A được hiệu chỉnh theo tuổi thai,
cân nặng, chủng tộc và được thể hiện theo bội số
trung vị MoM.
Xác định nguy cơ hình thành TSG về sau dựa theo
FMF gồm:
- Nguy cơ cho TSG sớm.
- Nguy cơ cho TSG ở bất kỳ mọi thời điểm trong thai kỳ.
- Nguy cơ cho tất cả các rối loạn tăng HA trong thai kỳ.
Chọn vào nhóm nguy cơ cao nếu nguy cơ cho mọi
rối loạn tăng HA trong thai kỳ ≥ 1/100.
Bước 2. Phân nhóm và can thiệp dự phòng các rối
loạn tăng HA trong thai kỳ bằng Aspirin liều thấp:
Chọn bệnh nhân nguy cơ cao các rối loạn tăng HA
trong thai kỳ, phân bố ngẫu nhiên vào 2 nhóm can
thiệp như sau:
Tập 13, số 03
Tháng 08-2015
Tạp chí PHỤ SẢN
49
TẠP CHÍ PHỤ SẢN - 13(3), 47-53, 2015
Các thai phụ sau khi xác định nguy cơ cao các rối
loạn tăng HA trong thai kỳ sẽ được phòng sàng lọc
Tiền sản chuyển cho nhóm nghiên cứu quản lý theo
mã số khám bệnh, khuyết tên.
Bốc xăm chia ngẫu nhiên các bệnh nhân theo mã
số khám bệnh làm 2 nhóm can thiệp:
- Nhóm 1: Sử dụng Aspirin liều thấp 81 mg/ngày,
bắt đầu điều trị ở tuổi thai từ tuần 13 – 26 tuần. Được
được ký hiệu As.
- Nhóm2: Được theo dõi và quản lý thai nghén,
không sữ dụng thuốc Calcium Cacbonat và Aspirin.
Được được ký hiệu Ch.
Chuyển thai phụ đã được phân nhóm điều trị theo
ký hiệu cho các bác sĩ chuyên trách, tư vấn và tiến
hành điều trị.
Bước 3. Theo dõi.
Dữ liệu kết quả thai kỳ được theo dõi từ thời điểm
sàng lọc quý I cho đến hết khi chuyển dạ và đến thời
gian hậu sản, 6 tuần sau sinh.
- Dựa vào thông tin thai phụ đã lưu trữ từ lần khám
sàng lọc quý I thai kỳ, dự tính thời điểm khám tiếp theo,
sàng lọc quý II, quý III và thời điểm kết thúc thai kỳ.
- Các thai phụ được lên lịch theo dõi và gọi điện
thoại hẹn thăm khám ở các lần khám tiếp theo.
- Theo dõi sử dụng thuốc, loại bỏ khỏi nhóm
nghiên cứu các trường hợp không sử dụng thuốc
theo đúng phác đồ.
- Sản phụ theo dõi tại Bệnh viện Trường Đại học Y
Dược Huế, kết quả thai kỳ được thu thập thông qua
hồ sơ bệnh án. Đối với các trường hợp xuất hiện các
rối loạn tăng HA, được trực tiếp theo dõi, kết hợp hồ
sơ bệnh án, ghi nhận tình trạng bệnh lý, diễn biến, các
biến chứng và kết quả kết thúc thai kỳ cho mẹ và con.
Kết quả thai kỳ:
Phân loại rối loại tăng HA trong thai kỳ tiếp tục sử
dụng phân loại truyền thống vẫn còn được sự dụng
cho đến hiện tại gồm 4 nhóm:
- Tăng huyết áp thai nghén: HATT < 160 mmHg,
HATr < 110 mmHg, không có protein niệu và không
triệu chứng.
- Tiền sản giật – sản giật: TSG được định nghĩa xác
định theo tiêu chuẩn chẩn đoán của Hiêp hội quốc tế
nghiên cứu về tăng HA trong thai kỳ - International
Society for the Study of Hypertension in Pregnancy:
+ Tăng HA ≥ 20 tuần và protein niệu.
+ HATT ≥ 140 mmHg hoặc HATr ≥ 90 mmHg tại 2
thời điểm đo cách nhau 4 giờ và;
+ Protein niệu ≥ 300mg/24giờ hoặc có 2 lần
dương tính (++) trên thử nghiệm dipstick với nước
tiểu giữa dòng hoặc lấy qua ống thông tiểu.
- Tăng huyết áp mãn tính: Tăng HA trước khi mang
thai hoặc trước 20 tuần thai kỳ hoặc vẫn còn tồn tại
sau 6 tháng hậu sản.
- Tiền sản giật phát triển chồng chất trên Tăng
huyết áp mãn tính:
+ Đợt cấp của tăng HA (trước đó đã được kiểm
soát tốt bằng thuốc hại HA), và/hoặc;
+ Xuất hiện protein niệu, và/hoặc tăng đột ngột
protein niệu một cách rõ ràng bền vững.
Phân loại TSG – SG theo thời gian xuất hiện được
chia thành 2 nhóm dựa vào thời điểm phát triển TSG:
- TSG sớm: trước 34 tuần.
- TSG trung bình: 34 – 37 tuần
- TSG muộn: sau 37 tuần, chuyển dạ và hậu sản.
Phân loại theo mức độ bệnh lý TSG theo ACOG
gồm 2 mức độ:
- TSG (Tăng HA ≥ 20 tuần và protein niệu)
- TSG nặng: Xuất hiện tăng HA kèm theo bất kỳ
dấu hiệu sau:
+ Tăng HA nặng (tâm thu ≥ 160 mmHg hoặc tâm
trương ≥ 110 mmHg).
+ Các triệu chứng thần kinh trung ương nặng và
liên tục, giảm tiểu cầu dưới 100.000/mm3, tăng các
men gan gấp đôi ngưỡng trên giới hạn trên bình
thường, phù phổi, creatinine huyết thanh tăng trên
1,1 mg/dl.
Các dữ liệu được thu thập vào phiếu nghiên cứu
và nhập vào phần mềm Excel đồng thời lưu vào dữ
liệu sàng lọc tiền sản tại Bệnh viện Trường Đại học Y
Dược Huế.
2.3 Xữ lý số liệu.
Sự xuất hiện TSG là biến số phụ thuộc của nghiên
cứu và cũng là tiêu chuẩn đánh giá hiệu quả can thiệp
dự phòng.
Các biến số và giá trị xử lí theo phương pháp thống
kê, tính tỷ lệ, tần số, trung bình. Đối với các biến độc
lập liên tục, so sánh giữa các nhóm bằng test Mann-
Whitney cho phân phối không chuẩn, t-test đối với
phân phối chuẩn.
Với các biến nhị phân, so sánh bằng tỷ lệ thống
kê bằng χ2-test hoặc test chính xác Fisher khi tần số
lý thuyết < 4.
Kết quả can thiệp ở hai nhóm được diễn giãi theo
bảng 2 x 2. Nguy cơ tương đối (Relative risk) được sử
dụng để đo lường mối liên quan giữa 2 biến nhị phân có
hoặc không có TSG có cân nhắc đến mức độ mạnh - yếu.
- Nếu RR > 1, yếu tố phơi nhiễm làm tăng khả
năng mắc bệnh.
- Nếu RR = 1, không có mối liên hệ nào giữa yếu tố
phơi nhiễm và bệnh.
CAO NGỌC THÀNH, TRƯƠNG QUANG VINH,
NGUYỄN VŨ QUỐC HUY, VÕ VĂN ĐỨC, TRẦN MẠNH LINH, VÕ VĂN KHOASẢN KHOA VÀ SƠ SINH
Tập 13, số 03
Tháng 08-2015
Tạp chí PHỤ SẢN
50
- Nếu RR < 1, yếu tố phơi nhiễm làm giảm khả
năng mắc bệnh.
Sự khác biệt có ý nghĩa thống kê với mức p < 0,05.
3. Kết quả nghiên cứu
Trong thời gian nghiên cứu, 3.317 trường hợp đã
được tiến hành sàng lọc bệnh lý TSG tại thời điểm 11
tuần đến 13 tuần 6 ngày cùng với thời điểm sàng lọc quý
I thai kỳ. Có 2.998 trường hợp (90,38%) đã được theo dõi
đến kết thúc thai kỳ. Loại bỏ khỏi đối tượng nghiên cứu
319 trường hợp (9,62%) mất dấu trong quá trình nghiên
cứu gồm7,81% mất liên lạc, 0,39% thai dị dạng phát
hiện muộn, có chỉ định chấm dứt thai kỳ, 1,03% thai chết
lưu trước 22 tuần và 0,39% thai chết lưu muộn sau 22
tuần không liên quan đến bệnh lý TSG – SG
3.1. Kết quả chung của nghiên cứu.
* Chúng tôi loại bỏ 120 trường hợp nguy cơ cao
trong can thiệp Canxi để đánh giá vai trò của Aspirin
trong dự phòng các rối loạn tăng HA trong thai kỳ.
Trong số 2.998 trường hợp, chúng tôi phát hiện
487 trường hợp thai nghén nguy cơ cao phát triển
các rối loạn tăng HA trong thai kỳ, tỷ lệ 16,24%.
Có 112 trường hợp xuất hiện các rối loạn tăng
HA trong thai kỳ, chiếm tỷ lệ 3,74%. Trong đó, có 85
trường hợp phát triển TSG, chiếm tỷ lệ 2,84%, tỷ lệ
tăng HA thai nghén 0,5%.
3.2. Một số đặc điểm chung mẫu nghiên cứu
Kết quả thai kỳ Số lượng Tỷ lệ (%)
Nhóm nguy cơ thấp 2.511 83,76
Nhóm nguy cơ cao
- Điều trị Aspirin
- Can thiệp canxi *
- Nhóm chứng
487
111
120
256
16,24
3,70
4,00
8,54
Tổng 2.998 100,00
Bảng 1. Nguy cơ cao các rối loạn tăng huyết áp trong thai kỳ
Các rối loạn tăng HA trong thai kỳ Số lượng Tỷ lệ (%)
Không có rối loạn HA trong thai kỳ 2.886 96,26
Rối loạn tăng HA trong thai kỳ:
- Tăng HA thai nghén
- TSG
- Tăng HA mãn
- TSG chồng chất
112
15
85
5
7
3,74
0,50
2,84
0,17
0,23
Tổng 2.998 100,00
Bảng 2. Các rối loạn tăng HA trong thai kỳ
Các đặc điểm Nhóm chứng (n = 256) Nhóm điều trị Aspirin (n= 111) p
Tuổi mẹ trung bình (năm, trung vị) 31,2 (30,5–31,9) 30,0 (29,0–31,0) 0,051
BMI (kg/m2, trung vị) 21,0 (20,8–21.4) 21,3 (20,8–21,8) 0,41
CRL (mm, trung vị) 61,0 (55,0–69,6) 60,6 (55,1–70,0) 0,69
Độ mờ da gáy (mm, trung vị) 1,6 (1,4–1,9) 1,5 (1,3–1,8) -
Bảng 3. Một số đặc điểm chung của mẫu nghiên cứu
Tuổi thai (ngày, trung vị) 88,1 (87,5–88,6) 87,0 (85,0–92,0) -
Số lần mang thai:
− Con so (n,%)
− Con rạ mang thai bị TSG (n,%)
− Con rạ mang thai không bị TSG (n,%)
149 (58,20)
16 (6,20)
91 (35,5)
64 (57,70)
13 (11,70)
34 (30,63)
-
-
-
Phương pháp có thai:
− Mang thai tự nhiên (n,%)
− Dùng thuốc kích thích rụng trứng (n,%)
246 (96,10)
10 (3,90)
110 (99,10)
1(0,90)
-
-
Tăng HA mãn 4 (1,56) 7 (6,30) -
Gia đình có người mang thai TSG (n,%) 14 (5,50) 14 (12,60) -
Có tiếp xúc thuốc lá trong thai kỳ (n,%) 15 (5,90) 6 (5,40) -
Nguy cơ rối loạn tăng HA theo FMF (%)
− Nguy cơ TSG sớm
− Nguy cơ TSG mọi thời điểm
− Nguy cơ cho mọi rối loạn tăng HA
1,75 (0,99–2,53)
2,64 (1,73–3,55)
4,38 (3,11–5,65)
3,11 (1,58–4,62)
5,10 (2,76–7,45)
7,17 (4,34–10,00)
0,120
0,012
0,040
Nguy cơ TSG cho mọi thời điểm và nguy cơ cho
mọi rối loạn tăng HA ở nhóm điều trị Aspirin cao hơn
nhóm chứng (p < 0,05)
3.3. Kết quả thai kỳ và các biến chứng.
Không có sự khác biệt về tỷ lệ tuổi thai kết thúc thai
kỳ, cân nặng, , tỷ lệ thai chậm phát triển, sinh non, tỷ lệ rau
bong non, tử vong chu sinh, hội chứng HELLP giữa 2 nhóm.
3.4. Tỷ lệ phát triển các rối loạn tăng HA trong
thai kỳ ở nhóm điều trị và hiệu quả điều trị
Có sự khác biệt về tỷ lệ các rối loạn tăng HA trong
thai kỳ giữa nhóm chứng (23,05%) và nhóm điều trị
Aspirin (12,61%), p = 0.0309.
Kết quả thai kỳ Nhóm chứng (n = 256) Nhóm điều trị Aspirin (n= 111) p
Tuổi thai (tuần, trung vị) 38,77 ( 38,56–38,980) 38,82 (38,57–39,06) 0,799
Cân nặng (gram, trung vị) 3067,9 (3011,3–3124,6) 3144,1(3050,1–3238,2) 0,157
Mổ lấy thai (n,%) 138 (53,90) 45 (40,50) 0,02
Sinh thường (n,%) 118 (46,10) 66 (59,50) -
Sinh non ≤ 37 tuần (n,%) 26 (10,20) 5 (4,50) 0,11
Sinh cực non < 34 tuần (n,%) 4 (3,90) 1 (0,90) 0,96
Hội chứng HELLP (n,%) 8 (3,10) 0 (0,00) 0,13
Tử vong chu sinh (n,%) 6 (2,30) 2 (1,80) 0,93
Rau bong non (n,%) 2 (0,80) 1 (0,90) 0,59
Thai chậm phát triển (n,%) 10 (3,90) 3 (2,70) 0,79
Bảng 4. Kết quả thai kỳ và các biến chứng
Rối loạn tăng HA trong thai kỳ Nhóm chứng (n = 256) Nhóm điều trị Aspirin (n= 111) p
Các rối loạn tăng HA trong thai kỳ 59 23,05 14 12,61 0,0309
TSG chung 46 18,00 6 5,41 0,0117
Phân loại theo thơi gian:
− TSG sớm
− TSG trung gian
− TSG muộn
9
14
23
3,51
5,47
8,98
1
1
4
0,90
0,90
3,60
-
-
-
Phân loại theo mức độ:
− TSG nặng
− TSG
10
36
3,91
14,06
2
4
1,80
3,60
-
0,0056
Tăng HA thai nghén 9 3,50 1 0,90 -
Tăng HA mãn 1 0,40 4 3,60 -
TSG chồng chất 3 1,20 3 2,70 -
Bảng 5. Tỷ lệ phát triển các rối loạn tăng HA trong thai kỳ và hiệu quả điều trị
Tập 13, số 03
Tháng 08-2015
Tạp chí PHỤ SẢN
51
TẠP CHÍ PHỤ SẢN - 13(3), 47-53, 2015
Khi phân tích riêng đối với các trường hợp phát
triển TSG, tỷ lệ TSG ở nhóm điều trị thấp hơn nhóm
chứng, P = 0.0117
Không có khác biệt về tỷ lệ TSG sớm, trung gian,
muộn, tỷ lệ TSG nặng ở hai nhóm
Không có sự khác biệt về tỷ lệ tăng HA thai nghén,
tăng HA mãn, TSG chồng chất giữa 2 nhóm.
Mặc dù có sự khác biệt vè tỷ lệ các rối loạn tăng
HA trong thai kỳ giữa 2 nhóm, nhưng điêu trị Aspirin
không làm giảmcác rối loạn tăng HA trong thai kỳ so
với nhóm chứng (RR = 0.598, p = 0.0642).
Tuy nhiên, Điều trị Aspirin làm giảm tỷ lệ TSG so
với nhóm chứng (RR = 0.4414, p = 0.0260).
4. Bàn luận
4.1. Lựa chọn nhóm nguy cơ cao.
Mặc dù các Hiệp hội chuyên ngành trên Thế
Giới đã đưa ra các hướng dẫn chăm sóc tiền sản
trong đó có hướng dẫn về quản lý TSG. Khuyến
cáo cho lần khám thai đầu tiên, những trường
hợp nguy cơ cao TSG dựa trên các yếu tố tiền sử
mẹ, nên được xếp vào nhóm nguy cơ cao và cần
can thiệp dự phòng.Theo ACOG, nguy cơ TSG gồm
mang thai con so, tiền sử mang thai TSG, tăng HA
mãn tính, bệnh thận mãn tính, đa thai, thụ tinh
trong ống nghiệm, tiền sử gia đình có người mang
thai TSG, đái đường, béo phì, lupus ban đỏ hệ
thống, mang thai trên 40 tuổi. Theo NICE, nguy cơ
TSG trung bình gồm thai con so, mang thai trên 40
tuổi, khoảng cách giữa các lần mang thai trên 10
năm, BMI > 35 kg/m2, đa thai, tiền sử gia đinh TSG.
Các đối tượng nguy cơ cao gồm tiền sủa mang
thai TSG, tăng HA mãn tính, bệnh thận mãn tính,
bệnh tử miễn, đái đường. Tuy nhiên, đánh giá hiệu
quả sàng lọc bằng các yếu tố nguy cơ mẹ vẫn còn
nhiều hạn chế. Một nghiên cứu của Leon Poon cho
thấy nếu sử dụng các yếu tố theo NICE trong dự
báo TSG cho tỷ lệ phát hiện TSG sớm, TSG trung
gian, TSG muộn thứ tự là 89,2%, 93,0% và 85,0%
tuy nhiên tỷ lệ dương tính giả đến 64,1%. Như vậy,
vẫn có những hạn chế trong xác định nhóm nguy
cơ cao các rối loạn tăng HA trong thai kỳ.
Chúng tôi lựa chọn nhóm nguy cơ cao dựa vào
tính nguy cơ các rối loạn tăng HA trong thai kỳ theo
FMF. FMF đánh giá nguy cơ TSG dựa vào các yếu tố
Aspirin (n, %) Chứng (n,%) RR KTC 95% P
Các rối loạn tăng HA trong thai kỳ 14 (12,61) 59 (23,05) 0,598 0,35–1,03 0,0642
TSG chung 6 (5,41) 46 (18,00) 0,4414 0,21–0,90 0,0260
Bảng 6. Kết quả điều trị dự phòng các rối loặn tăng HA trong thai kỳ bằng Aspirin
gồm: tuổi mẹ, chủng tộc, BMI. Yếu tố tiền sử gồm:
Đái tháo đường type 1, tiền sử tăng huyết áp mãn
tính, tiền sử có hút thuốc lá trong thời kỳ mang
thai, bệnh hệ thống, tiền sử gia đình có người TSG
– SG. Phương pháp có thai: tự nhiên, IVF và chỉ
dùng thuốc kích thích phóng noãn không IVF. Tiền
sử sản khoa: Con so, con rạ không hoặc có tiền sử
mang thai TSG-SG.Chỉ số xung – PI động mạch tử
cung thấp nhất. HA động mạch trung bình, xét
nghiệm PAPP-A. Các chỉ số PI, HATB, PAPP-A được
hiệu chỉnh các yếu tố liên quan và diễn giãi theo
bội số trung vị MoM. Thuật toán phối hợp các yếu
tố trên đã được chứng minh phát hiện TSG sớm,
TSG trung gian và TSG muộn lên đến 90%, 80% và
60% với tỷ lệ dương tính giả 5%. Việc kết hợp theo
mô hình dự báo không chỉ cải thiện tỷ lệ phát hiện
bệnh mà còn hạn chế được tỷ lệ dương tính giả.
Như vậy đồng thời giảm được số lượng bệnh nhân
không cần thiết điều trị.
Kết quả nguy cơ được FMF diễn giãi theo: nguy
cơ cho TSG sớm, nguy cơ cho TSG ở bất kỳ mọi thời
điểm trong thai kỳ, nguy cơ cho tất cả các rối loạn
tăng HA trong thai kỳ. Chúng tôi lựa chọn nhóm
nguy cơ cao cho tất cả các rối loạn tăng HA trong
thai kỳ khi kết quả nguy cơ ≥ 1:100 (1%).
4.2. Lựa chọn phác đồ, liều và thời gian điều trị.
Các nghiên cứu cho rằng TSG có liên quan đến
tăng tiêu thụ tiểu cầu và tổng hợp Thromboxan
là cơ sở dẫn đến những thử nghiệm ngẫu nhiên
đánh giá liệu pháp Aspirin liều thấp ở phụ nữ
có nguy cơ cao. Aspirin liều thấp xác định từ 60
đến 150mg/ngày, với liều này làm giảm tổng hợp
thromboxan trong khi vẫn duy trì mạch tổng hợp
tường prostacyclin. Thuốc đã được nghiên cứu cho
dự phòng TSG và phòng ngừa sự tiến triển của TSG
nhẹ đến nặng, tác động làm giảm nguy cơ TSG,
cũng như sinh non, thai chậm phát triển trong tử
cung khoảng 10 đến 15% [17].
Trong nghiên cứu chúng tôi chọn liều can thiệp
là 81mg/ngày từ tuần thứ 13 đến 26 của thai kỳ đối
với thai phụ có nguy cơ cao cho mọi rối loạn tăng
HA trong thai kỳ.
Sử dụng Aspirin liều thấp trong điều trị dự
phòng TSG đã được khuyến cáo ở một số trung
tâm, đặc biệt ở nhóm phụ nữ có nguy cơ trung
bình, cao với TSG. NICE hướng dẫn điều trị Aspirin
liều thấp 75mg ở những thai phụ khi có một trong
các yếu tố nguy cơ cao TSG: tăng huyết áp mãn
tính, đái đường, bệnh tự miễn, tiền sử tăng huyết
áp trong thai kỳ, hoặc ít nhất có 2 yếu tố nguy cơ
CAO NGỌC THÀNH, TRƯƠNG QUANG VINH,
NGUYỄN VŨ QUỐC HUY, VÕ VĂN ĐỨC, TRẦN MẠNH LINH, VÕ VĂN KHOASẢN KHOA VÀ SƠ SINH
Tập 13, số 03
Tháng 08-2015
Tạp chí PHỤ SẢN
52
trung bình ( mẹ ≥ 40 tuổi, con so, đa thai, khoảng
cách giửa 2 lần sịnh trên 10 năm, BMI ≥ 35, tiền sử
gia đình có TSG) [15]. Trong khi đó, Hiệp hội Sản
phụ khoa Hoa Kỳ khuyến cáo chỉ nên điều trị cho
nhóm có nguy cơ cao tiền sản giật sớm, nguyên
nhân là do kết quả sàng lọc tại thời điểm 11 – 13
tuần 6 ngày hiệu quả nhất ở nhóm TSG sớm [8],
thời điểm bắt đầu khoảng 12 – 14 tuần, liều thấp
tối ưu khoảng 60 đến 80 mg/ngày, chất lượng các
bằng chứng mức trung bình và mức độ khuyến
cáo đủ điều kiện. Tính an toàn khi sử dụng aspirin
liều thấp trong ba tháng giữa và cuối thai kỳ cũng
được chứng minh. Tuy nhiên thời gian quan trọng
nhất trong mục đích sử dụng là ba tháng đầu thai
kỳ vì bệnh sinh của TSG phát triển trong thời gian
này. Ngưng Aspirin 5 đến 10 ngày trước khi sinh dự
kiến sẽ làm giảm bớt nguy cơ chảy máu trong khi
sinh. Tổ chức y tế thế giới cũng đã khuyến cáo điều
trị dự phòng TSG cho thai phụ thuộc nhóm nguy
cơ cao nên thực hiện trước tuần thứ 20 của thai kỳ.
Nhìn chung các khuyến cáo đều đồng quan điểm
liều Aspirin nên sử dụng từ 60 – 80mg/ ngày.
4.3. Hiệu quả điều trị dự phòng TSG và các rối
loạn tăng HA trong thai kỳ bằng Aspirin.
Trong nghiên cứu của chúng tôi, khi so sánh
giữa nhóm nguy cơ cao các rối loạn tăng HA có bổ
sung Aspirin và nhóm chứng, có sự khác biệt về
tỷ lệ các rối loạn tăng HA trong thai kỳ giữa nhóm
chứng (23,05%) và nhóm điều trị Aspirin (12,61%),
p = 0,0309. Và tương tự, có sự khác biệt về tỷ lệ
TSG giữa nhóm chứng (18,00%) và nhóm điều trị
canxi (5,41%). Tuy nhiên, không có sự khác biệt
về tỷ lệ TSG sớm, TSG trung gian, TSG nặng giữa
2 nhóm và không có sự khác biệt về tỷ lệ tăng HA
thai nghén, tăng HA mãn, TSG chồng chất giữa 2
nhóm. Can thiệp Aspirin không cải thiện tỷ lệ các
rối loạn tăng huyết áp trong thai kỳ so với nhóm
chứng (RR = 0,598, CKT 95%; 0,35–1,03, p=0,0642).
Tuy nhiên sử dụng Aspirin lại làm giảm tỷ lệ TSG so
với nhóm chứng (RR = 0,441, CKT 95%; 0,21–0,90,
p=0,0260). Không có sự khác biệt về tỷ lệ tăng HA
thai nghén, tăng HA mãn, TSG chồng chất như kết
quả thai kỳ và các biến chứng giữa 2 nhóm. Mặt
khác khi phân nhóm ngẫu nhiên để điều trị, nguy
cơ TSG mọi thời điểm trong thai kỳ của nhóm điều
trị là 5,10% cao hơn nguy cơ của nhóm chứng là
2,64%, sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê p =
0,012. Do đó nếu phân nhóm đồng đều hơn thì kết
quả điều trị Aspirin còn cải thiện nguy cơ Tiền Sản
Giật hơn nữa.
Nhìn chung, đánh giá vai trò dự phòng các rối
loạn tăng HA trong thai kỳ nói chung và bệnh lý
TSG nói riêng còn nhiều bàn cải. Đối với nhóm có
nguy cơ TSG, sử dụng aspirin liều thấp, bắt đầu
sớm trong thai kỳ, làm giảm tỷ lệ TSG. Phân tích
Cochrane 2010 đánh giá sự an toàn và hiệu quả
aspirin liều thấp để dự phòng TSG gồm 59 thử
nghiệm với hơn 37.560 phụ nữ có nguy cơ TSG
[13]. Kết quả cho thấy sử dụng aspirin liều thấp có
liên quan thấp, nhưng đáng kể, giảm nguy cơ TSG
(0.83 RR, 95% CI 0,77-0,89) (46 thử nghiệm, 32.891
phụ nữ), giảm 8% nguy cơ sinh non tháng (0,92
RR, 95% CI 0,88-0,97) (29 thử nghiệm khác, 31.1151
phụ nữ), và 14% tử vong chu sinh (RR 0,86 , 95% CI
0,76-0,98) (40 thử nghiệm, 33.098 phụ nữ) [7]. Một
phân tích hệ thống trên 14 thử nghiệm khác bao
gồm hơn 12.000 phụ nữ có yếu tố nguy cơ TSG cho
thấy Aspirin liều thấp làm giảm nguy cơ phát triển
TSG (OR 0,86, 95% CI 0,76-0,96), nhưng không thay
đổi đáng kể đến cân nặng lúc sinh hoặc nguy cơ
rau bong non [12].
Trong nghiên cứu của chúng tôi, tuổi thai kết
thúc thai kỳ, sinh non,sinh cực non, thai chậm phát
triển, rau bong non, tỷ vong chu sinh, hội chứng
HELLP ở nhóm điều trị bằng Aspirin không có sự
khác biệt so với nhóm chứng. Riêng tỷ lệ mổ lấy
thai ở nhóm điều trị Aspirin thấp hơn so với nhóm
chứng (p= 0,02) tuy nhiên tỷ lệ này còn phụ thuộc
thêm nhiều nguyên nhân mổ lấy thai khác trong
chỉ định chấm dứt thai kỳ.
Theo một phân tích 5 thử nghiệm trên tổng số
556 phụ nữ được điều trị bằng Aspirin trước tuần
thứ 16 của thai kỳ thì nhóm điều trị Aspirin làm
giảm mạnh nguy cơ tiền sản giật sớm (RR 0.11, 95%
CI 0,04-0,33) nhưng không có ảnh hưởng đáng kể
đến tiền sản giật muộn (RR 0,98, 95% CI 0,42-2,33)
[16]. Nhìn chung, hiệu quả điều trị dự phòng TSG
và các rối lạn tăng HA trong thai kỳ còn nhiều bàn
cãi. Các nghiên cứu cho các kết quả khác nhau có
thể do tiêu chuẩn lựa chọn nhóm nguy cơ cao can
thiệp khác nhau, cở mẫu khác nhau. Tuy nhiên
hiệu quả của Aspirin trong dự phòng Tiền sản giật
– sản giật là có. Và Hội sản phụ Khoa Hoa Kỳ, NICE
đều đã có các khuyến cáo đối với điều trị dự phòng
Tiền sản giật bằng Aspirin.
5. Kết luận
Tỷ lệ các rối loạn tăng huyết áp trong thai kỳ
chiếm 3,74% so với toàn bộ thai nghén, trong đó
Tiền sản giật chiếm tỷ lệ 2,84%.
Tập 13, số 03
Tháng 08-2015
Tạp chí PHỤ SẢN
53
TẠP CHÍ PHỤ SẢN - 13(3), 47-53, 2015
Tỷ lệ các rối loạn tăng HA trong thai kỳ và tỷ lệ TSG
chung ở nhóm điều trị Aspirin và nhóm chứng, tương
ứng là 23,05% và 12,61%, 18,00% và 5,41%. Can thiệp
Aspirin làm giảm tỷ lệ TSG so với nhóm chứng (RR =
0.4414, p = 0.0260).
Không có sự khác biệt về tỷ lệ TSG nặng, TSG sớm,
TSG trung gian và tỷ lệ tăng HA thai nghén, tăng HA
mãn, TSG chồng chất như kết quả thai kỳ và các biến
chứng giữa 2 nhóm.
Tài liệu tham khảo
1. Phạm Thị Mai Anh (2009), Nghiên cứu thông số Doppler
động mạch tử cung ở thai phụ Tiền Sản Giật, Luận văn Thạc
sĩ Y hoc 2009, Đại học Y Hà Nội.
2. Bộ y tế (2009), “Tăng huyết áp trong thai nghén”,
Hướng dẫn quốc gia về các dịch vụ chăm sóc sức khỏe sinh
sản, tr 112 – 114.
3. Trần Danh Cường, Nguyễn Quốc Trường (2005), “Nhận xét
về hình thái của phổ Doppler động mạch rốn ở những sản phụ
tiền sản giật tại bệnh viện Phụ Sản Trung Ương 2/2005 - 7/2005”,
Tạp chí Nghiên cứu y học, 39(6) Phụ bản, tr: 260 - 268.
4. Trần Thị Thu Hường, Đặng Thị Minh Nguyệt (2012),
“Nhận xét về xử trí sản khoa và một số biến chứng của thai
phụ sản giật tại bệnh viện Phụ Sản Trung ương”, Tạp chí
Phụ sản, 10 (2), tr: 75 - 79.
5. Lê Thị Mai ( 2004 ), Nghiên cứu tình hình sản phụ bị
nhiễm độc thai nghén tại BVPSTW trong năm 2003, Luận
văn tốt nghiệp Bác sỹ chuyên khoa cấp II, Trường Đại Học
Y Hà Nội.
6. Mignini L (2011), “Chất chống kết dính tiểu cầu trong dự
phòng và điều trị tiền sản giật”, Thư viện sức khỏe sinh sản
của WHO, Geneva: Tổ chức Y tế Thế giới.
7. Ngô Văn Tài (2006), Tiền sản giật và sản giật, Nhà xuất
bản y học, tr 7-51.
8. ACOG (2002), “Diagnosis and management of
preeclampsia and eclampsia: ACOG practice bulletin – 33”,
American College of Obstetricians and Gynecologists,
Washington, DC 2002.
9. Akolekar R, Syngelaki A, Sarquis R, Zvanca M,
Nicolaides KH (2011), “Prediction of early, intermediate and
late pre-eclampsia from maternal factors, biophysical and
biochemical”. Prenat Diagn 2011; 31, pp: 66 – 74.
10. Churchill D, Beevers GD, Meher S, Rhodes C (2007),
“Diuretics for preventing pre-eclampsia”, Cochrane
Database Syst Rev 2007.
11. Cnossen JS, Vollebregt KC, de Vrieze N, et al (2008),
“Accuracy of mean arterial pressure and blood pressure
measurements in predicting preeclampsia: systematic
review and meta-analysis”, BMJ, 336 (7653), pp: 1117 – 1120.
12. Coomarasamy A, Honest H, Papaioannou S, Gee H,
Khan KS (2003), “Aspirin for prevention of preeclampsia in
women with historical risk factors: a systematic review”,
Obstet Gynecol, 101 (6), pp: 1319 – 1332.
13. Duley L, Henderson-Smart DJ, Meher S, King JF (2010),
“Antiplatelet agents for preventing pre-eclampsia and its
complications (Review)”, Cochrane Database Syst Rev2010.
14. Mello G, Parretti E, Fatini C, Riviello C, Gensini
F, Marchionni M, Scarselli GF, Gensini GF (2005), “Low-
molecular-weight heparin lowers the recurrence rate of
preeclampsia and restores the physiological vascular
changes in angiotensin-converting enzyme DD women”,
Hypertension, 45 (1), pp: 86 – 91.
15. Sibai BM (2003), “Diagnosis and Management of
Gestational Hypertension and reeclampsia”, Obstetrics &
gynecology, 102 (1), pp: 181 – 192.
16. Stéphanie Roberge, Pia Villa, Kypros Nicolaides,
“Yves Giguère et al (2012), Early Administration of Low-
Dose Aspirin for the Prevention of Preterm and Term
Preeclampsia: A Systematic Review and Meta-Analysis”,
Fetal diagnosis and theraph , 31, pp: 141 – 146.
17. Visintin C, Mugglestone MA, Almerie MQ, et al (2010),
“Management of hypertensive disorders during pregnancy: summary
of NICE guidance”, BMJ. 2010 Aug 25;341:c2207. doi:10.1136/bmj.c2207.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
danh_gia_hieu_qua_dieu_tri_du_phong_benh_ly_tien_san_giat_sa.pdf