BÀN LUẬN
Hiệu quả điều trị của cả hai hệ thống
VNCPAP và BNCPAP
Kết quả nghiên cứu cho thấy dấu hiệu
Silverman cải thiện tốt, SpO2 ổn định tốt, kết quả
X Quang cho thấy bệnh màng trong đều có tiến
triển tốt ở cả 3 nhóm nhất là sau 24giờ điều trị.
Tỷ lệ chuyển sang thở máy ở hai nhóm đều
không có ý nghĩa thống kê. Kết quả này tương
tự như KM CHAN(4) đã nghiên cứu trên 80 trẻ sơ
sinh non tháng được điều trị tại bệnh viện
United Christian có cân nặng dưới 1500g, không
có sự khác biệt về thời gian thở máy(4) cũng như
tỷ lệ thất bại với CPAP.
Biến chứng trong thở CPAP
Trong nhóm 2, có 2 trường hợp thở BNCPAP
bị tràn khí màng phổi trong đó một trường hợp
tràn khí ít không cần chọc hút dẫn lưu, một
trường hợp dẫn lưu kết quả tốt. Tỷ lệ tử vong ở
nhóm 1 (CNLS<1500g) có cao ở nhóm sử dụng
VNCPAP đều là các trường hợp cực non, CNLS
<900g. Hoại tử mô mũi không quan sát thấy
trong nhóm nghiên cứu. Một vài trường hợp tổn
thương niêm mạc mũi nhẹ ở cả 2 nhóm thở
NCPAP. Hoại tử mô ở mũi có thể thấy trong
trường hợp ống thông không cố định tốt trong
mũi khi trẻ tăng kích thích(5). Vai trò của y tá
chăm sóc rất quan trọng. Thao tác hút mũi nhẹ
nhàng để đường thở được thông mà không làm
tổn thương mũi. Kháng trở đường thở sẽ tăng
theo chiều dài của ống thông và sự giảm của
đường kính của ống thông. So với thông mũi
một nhánh và ống thông mũi hầu thì thông mũi
hai nhánh ngắn đủ lớn để không làm tổn thương
niêm mạc mũi, hổ trợ thơng khí tốt hơn và là
một sự lựa chọn tốt dùng trong NCPAP(5).
7 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 27/01/2022 | Lượt xem: 195 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đánh giá hiệu quả điều trị hội chứng suy hô hấp ở trẻ non tháng của hệ thống Bubble NCPAP chế tạo tại Việt Nam với thông mũi hai nhánh ngắn, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Chuyên đề Nhi Khoa 1
ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ ĐIỀU TRỊ HỘI CHỨNG SUY HÔ HẤP
Ở TRẺ NON THÁNG CỦA HỆ THỐNG BUBBLE NCPAP
CHẾ TẠO TẠI VIỆT NAM VỚI THÔNG MŨI HAI NHÁNH NGẮN
Nguyễn Thị Ái Xuân*, Phạm Thị Thanh Vân*, Nguyễn Thị Thanh Bình*, Ngô Minh Xuân
TÓM TẮT
NCPAP là phương pháp hổ trợ hô hấp hiệu quả ở trẻ non tháng. Từ năm 2007, khoa sơ sinh – Bệnh viện Từ
Dũ đã sử dụng hệ thống Bubble CPAP chế tạo tại Việt Nam với ống thông mũi hai nhánh ngắn để điều trị suy hô
hấp ở trẻ non tháng.
Mục tiêu: Đánh giá hiệu quả và độ an toàn của hệ thống này trong điều trị hội chứng suy hô hấp ở trẻ
non tháng.
Thiết kế nghiên cứu: thử nghiệm lâm sang có nhóm chứng.
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: nghiên cứu trên tất cả trẻ non tháng có cân nặng lúc sanh dưới
2500g được sinh ra tại bệnh viện Từ Dũ trong thời gian từ 1/1/2008 – 30/6/2008. Các yếu tố hô hấp được so
sánh giữa nhóm trẻ non tháng sử dụng NCPAP qua van Benveniste và BCPAP qua thông mũi hai nhánh ngắn.
Kết quả: nghiên cứu trên 150 bệnh nhân trong đó có 71 trường hợp thở BNCPAP và 79 trường hợp thở
NCPAP qua van Benvenist. Kết quả XQuang ngực, SpO2 và chỉ số Silverman đều cải thiện tốt sau 24 giờ ở cả hai
nhóm NCPAP. Tỷ lệ trẻ cần thở máy và thời gian thở máy không khác biệt có ý nghĩa thống kê ở hai nhóm. Kết quả
tương tự thấy được đối với tràn khí màng phổi và tỷ lệ tử vong. Không có trường hợp tổn thương mũi nặng.
Kết luận: không có sự khác biệt về hiệu quả điều trị suy hô hấp cho trẻ non tháng khi sử dụng BCPAP, chế
tạo tại Việt Nam, với thông mũi hai nhánh ngắn với hiệu quả của việc sử dụng NCPAP qua van Beneviste. Sử
dụng sớm BNCPAP cho kết quả tốt mang lại kinh tế.
ABSTRACT
THE EFFECTIVENESS OF BUBBLE-CPAP, MADE IN VIETNAM, USING SHORT BINASAL PRONGS
IN TREATMENT RESPIRATORY DISTRESS SYNDROME IN PRETERM NEONATES.
Nguyen Thi Ai Xuan, Pham Thi Thanh Van, Nguyen Thi Thanh Binh, Ngo Minh Xuan
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 12 – Supplement of No 4 – 2008: 137 - 141
Objective: Nasal continuous positive airway pressure is an effective method to treat the respiratory distress
syndrome in preterm neonates. The bubble CPAP with short binasal prongs made in Vietnam was introduced to
the Neonatal department of Tu Du hospital since 2007. This report described the effectiveness and safety of this
system in treatment of respiratory distress syndrome in preterm babies.
Study design: Randomised clinical trial controlled
Population and method: Studied on all premature neonates with birth weight less than 2500g born in Tu
Du hospital from 1 January 2008 to 30 June 2008. The respiratory outcomes in prematures infants treated by
bubble NCPAP, made in Vietnam, using short binasal prongs were compared with those treated by NCPAP
using valve Benveniste.
Result: On 150 babies indentified, 71 babies were initially treated with BCPAP using short binasal prongs,
79 babies with NCPAP using valve Benveniste. X-ray chest, oxygen saturation and Silverman index were
improved after 24 hours using CPAP in both groups. There was no significant difference in incidence of infants
required mechanical ventilation or duration of mechanical ventilatory support in both study groups. The similar
results were obtained in neonatal mortality and pneumothorax incidence. No infant had any severe nasal injury.
Conclusion: there was no difference in the effectiveness of Bubble CPAP, made in Viet Nam with short
binasal prongs and NCPAP using valve Benvenist in treatment the respiratory distress syndrome in premature
* Bệnh viện Từ Dũ
Chuyên đề Nhi Khoa 2
neonates. The early using bubble NCPAP has good effectiveness and economical.
ĐẶT VẤN ĐỀ
Hội chứng suy hô hấp (Respiratory distress
syndrome: RDS) rất thường xảy ra ở trẻ sơ sinh
non tháng nhất là đối với trẻ có tuổi thai <30tuần
do thiếu hụt Surfactan ở phổi (71% ở trẻ có cân
nặng cực thấp lúc sanh – Vermont Oxford
Network 2001). Thở áp lực dương liên tục qua
mũi (nasal continuous positive airway pressure:
NCPAP) là phương pháp hổ trợ hô hấp hiệu quả
cho nhóm bệnh nhi này vì trẻ vẫn còn tự thở
được và hội chứng suy hô hấp sẽ nặng dần theo
thời gian nếu không được điều trị tốt. Phương
pháp này được áp dụng đầu tiên năm 1971 và
được cải tiến liên tục cho đến nay(1).
Tác dụng của thở áp lực dương qua mũi
giúp làm tăng sức đàn hồi phổi do các phế nang
không bị xẹp ở cuối thì thở ra do đó làm tăng sự
trao đổi khí, giảm công hô hấp. Có 3 loại CPAP
thường dùng là CPAP của máy thở, hệ thống
CPAP sử dụng van áp lực (van Benvenist) và hệ
thống CPAP tạp áp lực bằng cột nước (Bubble
CPAP) với cùng chung một nguyên tắc là tạo
được áp lực dương ở cuối kỳ thở ra (PEEP) và
chỉnh được nồng độ oxy theo yêu cầu.
Có nhiều cách thở CPAP nhưng cách hiện
nay được dùng nhiều nhất là thở qua mũi với
ống thông hai nhánh ngắn vì kháng trở đường
thở thấp2. Ở thành phố hiện nay đang sử dụng
hệ thống CPAP với van Benveniste (VNCPAP)
và hệ thống CPAP tạo áp lực bằng cột nước qua
mũi (BNCPAP). Tại khoa sơ sinh bệnh viện Từ
Dũ, BNCPAP với thông mũi hai nhánh ngắn
được đưa vào sử dụng từ năm 2007. Mặc dù, tỷ
lệ trẻ non tháng luôn trong tình trạng quá tải, tỷ
lệ trẻ non tháng luôn tăng (năm 2007: 4207
trường hợp – 6 tháng đầu năm 2008: 2150 trường
hợp), với 6 máy thở, 14 hệ thống CPAP dùng
van Benvenist (VNCPAP), 14 hệ thống CPAP tạo
áp lực bằng cột nước (BNCPAP), tỷ lệ tử vong ở
trẻ non tháng lại giảm rõ rệt (năm 2007: 8,93% - 6
tháng đầu năm 2008: 6,08%).
Cho đến nay, tại Việt Nam các nghiên cứu về
BNCPAP còn rất ít, hiệu quả của BNCPAP còn
nhiều tranh cãi, nhưng trong điều kiện y tế tại
Việt Nam đặc biệt là những trung tâm y tế vùng
sâu vùng xa, không có điều kiện để sử dụng
máy thở và các hệ thống CPAP mắc tiền,
BNCPAP có thể là một phương tiện mang tính
chiến lược về mặt chuyên môn lẫn kinh tế trong
điều trị RDS ở trẻ non tháng, giúp giảm tình
trạng quá tải ở các bệnh viện tuyến trên. Chính
vì vậy chúng tôi thực hiện nghiên cứu này,
nhằm đánh giá hiệu quả cũng như tính an tòan
của BNCPAP trong điều trị RDS ở trẻ non tháng
với mong muốn hướng dẫn cho các cơ sở y tế
mà trang thiết bị còn thô sơ cách dùng hệ thống
BNCPAP này để hổ trợ hô hấp cho trẻ non
tháng.
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU VÀ
CHỌN MẪU
Thiết kế nghiên cứu: thử nghiệm lâm sàng có
đối chứng.
Tất cả trẻ non tháng (tuổi thai <37tuần) có
cân nặng lúc sanh (CNLS) dưới 2500g được sinh
ra tại bệnh viện Từ Dũ và được điều trị tại khoa
Sơ Sinh Bệnh viện Từ Dũ trong thời gian từ
1/1/2008 – 31/6/2008. Các trẻ non tháng có hội
chứng suy hô hấp được hổ trợ VNCPAP hay
BNCPAP. Sự lựa chọn phương pháp thở
NCPAP là ngẫu nhiên. Trẻ có dị tật bẩm sinh
như tim bẩm sinh, chẻ não, não úng thủy, đa dị
tật bẩm sinh, hay cần phải chuyển qua bệnh viện
khác điều trị được loại trừ trong nghiên cứu này.
Các trường hợp cần hổ trợ thở máy ngay từ khi
mới sanh, chưa có hỗ trợ bằng CPAP trước đó sẽ
không được nhận trong nghiên cứu này.
Các trẻ có hội chứng suy hô hấp được hỗ trợ
hô hấp bằng NCPAP có van Benveniste
(VNCPAP) hay BNCPAP qua thông mũi 2
nhánh ngắn đặt vào 2 bên mũi sâu 2cm. Thông
mũi có nhiều kích cỡ dành cho từng trẻ sao cho
khi đặt vào mũi vừa gia tăng tính hiệu quả của
CPAP vừa tránh tổn thương mũi. Hệ thống
BNCPAP luôn được kiểm tra thường xuyên: sự
sủi bọt, hệ thống làm ẩm, mực nước tạo áp lực.
Chuyên đề Nhi Khoa 3
Áp lực cài đặt ban đầu là 5-6cmH2O, thể tích
khí ban đầu là 6l/phút. Nếu trẻ có kích thích
nhiều và không thấy sự sủi bọt của hệ thống
BNCPAP, áp lực có thể được tăng hơn 6L/phút.
FiO2 được điều chỉ mức thấp nhất để duy trì
SpO2=92-96%. Chỉ số SpO2, silverman và XQ tim
phổi thẳng tại chỗ được so sánh tại 3 thời điểm:
trước thở NCPAP, sau 1giờ thở NCPAP, sau
24giờ thở NCPAP. Sau 24 giờ thở NCPAP, khi
trẻ có cơn ngưng thở lâu, SpO2<90% với áp lực
>6cmH2O và FiO260% được xem là thất bại với
NCPAP, có chỉ định thở máy. Trẻ ngưng thở
NCPAP khi không còn dấu hiệu thở co kéo
nhiều, FiO2<30% và áp lực<4cmH2O, không có
cơn ngưng thở trong 24giờ.
KẾT QUẢ
Mẫu nghiên cứu gồm 150 bệnh nhân trong
đó có 79 trường hợp thở VNCPAP và 71 trường
hợp thở BNCPAP. Tuổi thai trung bình của
nhóm nghiên cứu là 31 tuần. Tỷ lệ sử dụng
Surfactan trong nhóm nghiên cứu là 9,3%.
Không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê giữa
hai nhóm non tháng sử dụng BNCPAP và
NCPAP (bảng1).
Bảng 1: Đặc điểm chung của nhóm nghiên cứu
VNCPA
P
(N=79)
BNCPA
P
(N=71)
Tổng
số
(n=150
)
P
Tuổi thai trung bình (tuần) 31,3 30,9 31,1 0,501
Cân nặng trung bình lúc sanh
(g) 1723 1747 1742
0,88
8
Tỷ lệ sử dụng steroids trước
sanh
5% 5,6% 5,2% 0,38
6
Tỷ lệ sử dụng Surfactant (%) 9,2% 9,3% 9,3% 0,458
Tỷ lệ ối vỡ > 18giờ (%) 18% 28% 22,4% 0,303
Apgar 1 phút 5,6 5,1 5,4 0,171
Apgar 5phút 6.8 6.4 6,6 0,262
Khi xét chung cả nhóm nghiên cứu, tất cả trẻ
đều có cải thiện tốt về chỉ số Silverman (đồ thị 1),
SpO2 (đồ thị 2), kết quả Xquang tim phổi thẳng
(bảng 2) sau 24giờ trong cả hai nhóm thở
BNCPAP và VNCPAP.
Bảng 2: Chỉ số Silverman, SpO2, kết quả Xquang
tim phổi thẳng
Cân nặng Dưới 1500g Từ 1500-2000g Từ 2000-2500g
Kiểu thở BNCP
AP
(N=20)
VNCP
AP
(N=16)
BNCP
AP
(N=43)
VNCP
AP
(N=41)
BNCP
AP
(N=16)
VNCP
AP
(N=14)
Trước
thở
NCPA
P
4,0 3,6 3,4 4,3 4,4 5,0
Sau 1
giờ
3,2 2,9 3,5 3,5 3,7 3,4
Silverm
an
Sau 24
giờ
2,4 2,3 2,2 2,7 2,5 2,0
Trước
thở
NCPA
P
86,6 89,6 93,4 91,3 88 90,3
Sau 1
giờ
97 96,5 95,8 97,1 96 97,4
SpO2
Sau 24
giờ
97,9 95,7 97,4 93,7 97,3 98,1
Tỷ lệ cải thiện
XQuang (%)
88.2 83.3 92.7 93.3 100.0 100.0
Đồ thị 1: Chỉ số Silverman khi thở NCPAP
Đồ thị 2: SpO2 khi thở NCPAP
INDEX1
24 gio1 giotruoc
100
98
96
94
92
90
88
Loai NCPAP su dung
BNCPAP
VNCPAP
Loại NCPAP sử dụng
INDEX1
24 gio1 giotruoc
4.5
4.0
3.5
3.0
2.5
2.0
loai cpap su dung
BNCPAP
VNCPAP
Trước thở NCPAP
Loại NCPAP sử dụng
Trước thở
NCPAP
Chuyên đề Nhi Khoa 4
Bảng 3: Các yếu tố thuộc hô hấp.
Cân
nặng
Nhóm 1
Dưới 1500g
Nhóm 2
Từ 1500-
2000g
Nhóm 3
2000-2500g
Phân
tích
chung
Kiểu thở BNCPA
P
(N=20)
VNCP
AP
(N=16)
BNCP
AP
(N=43)
VNCP
AP
(N=41)
BNCP
AP
(N=16)
VNCP
AP
(N=14)
Số ngày
thở
CPAP
4,9 4,1 4,8 5,9 1,9 2,6 0.05
Thở máy 1 0 3 3 2 0 0,076
Số ngày
thở máy 5 -- 1,1 1,6 0,8 -- 0,541
Tràn khí
màng
phổi
0 0 2 1 0 0 0,054
Tử vong 1 5 1 0 0 0 0,144
Trong nhóm 1 (CNLS <1500g), có một
trường hợp nào phải thở máy (bảng 3). Số
trường hợp tử vong trong nhóm VNCPAP cao
hơn so với nhóm BNCPAP (5 trường hợp so
với 1 trường hợp).
Trong nhóm 2 (CNLS từ 1500-2000g), tỷ lệ
thở máy và thời gian thở máy trong hai nhóm
NCPAP không có sự khác biệt có ý nghĩa thống
kê. Kết quả cho thấy có hai trường hợp tràn khí
màng phổi trong nhóm thở BNCPAP so với 1
trường hợp trong nhóm VNCPAP.
Trong nhóm 3 (CNLS từ 2000-2500g), hai
trường hợp thở BNCPAP cần thở máy đều có
kèm theo rối loạn đông máu bẩm sinh và viêm
phổi. Trong cả hai nhóm NCPAP, không có
trường hợp nào tràn khí màng phổi và tử vong.
Trong cả hai nhóm thở NCPAP ở cả 3 nhóm
cân nặng, không có trường hợp tổn thương vách
ngăn mũi hay tổn thương niêm mạc mũi nặng.
BÀN LUẬN
Hiệu quả điều trị của cả hai hệ thống
VNCPAP và BNCPAP
Kết quả nghiên cứu cho thấy dấu hiệu
Silverman cải thiện tốt, SpO2 ổn định tốt, kết quả
X Quang cho thấy bệnh màng trong đều có tiến
triển tốt ở cả 3 nhóm nhất là sau 24giờ điều trị.
Tỷ lệ chuyển sang thở máy ở hai nhóm đều
không có ý nghĩa thống kê. Kết quả này tương
tự như KM CHAN(4) đã nghiên cứu trên 80 trẻ sơ
sinh non tháng được điều trị tại bệnh viện
United Christian có cân nặng dưới 1500g, không
có sự khác biệt về thời gian thở máy(4) cũng như
tỷ lệ thất bại với CPAP.
Biến chứng trong thở CPAP
Trong nhóm 2, có 2 trường hợp thở BNCPAP
bị tràn khí màng phổi trong đó một trường hợp
tràn khí ít không cần chọc hút dẫn lưu, một
trường hợp dẫn lưu kết quả tốt. Tỷ lệ tử vong ở
nhóm 1 (CNLS<1500g) có cao ở nhóm sử dụng
VNCPAP đều là các trường hợp cực non, CNLS
<900g. Hoại tử mô mũi không quan sát thấy
trong nhóm nghiên cứu. Một vài trường hợp tổn
thương niêm mạc mũi nhẹ ở cả 2 nhóm thở
NCPAP. Hoại tử mô ở mũi có thể thấy trong
trường hợp ống thông không cố định tốt trong
mũi khi trẻ tăng kích thích(5). Vai trò của y tá
chăm sóc rất quan trọng. Thao tác hút mũi nhẹ
nhàng để đường thở được thông mà không làm
tổn thương mũi. Kháng trở đường thở sẽ tăng
theo chiều dài của ống thông và sự giảm của
đường kính của ống thông. So với thông mũi
một nhánh và ống thông mũi hầu thì thông mũi
hai nhánh ngắn đủ lớn để không làm tổn thương
niêm mạc mũi, hổ trợ thơng khí tốt hơn và là
một sự lựa chọn tốt dùng trong NCPAP(5).
KẾT LUẬN
So với hệ thống BNCPAP, VNCPAP nhẹ
hơn, dễ dàng lắp ráp sử dụng và dễ tháo rời sát
trùng hơn. Tuy nhiên, so với VNCPAP,
BNCPAP có kết quả điều trị không có khác biệt:
ổn định nhịp thở, cải thiện oxy hóa máu động
mạch, giúp phổi dãn nở tốt, tỷ lệ thành công cao
trong điều trị RDS ở trẻ sơ sinh non tháng. Đặc
biệt, thông mũi 2 nhánh ngắn cũng dễ cố định và
không gây tổn thương mũi đáng kể nếu được cố
định tốt. Vì vậy, với tính hiệu quả, an toàn, rẻ
tiền, BNCPAP với thông mũi hai nhánh ngắn là
một sự lựa chọn mới; nhất là ở các tuyến mà
trang thiết bị hổ trợ hô hấp cho trẻ sơ sinh còn
hạn chế.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Gregory GA KJ, Phibbs RH, Tooley WH, Hamilton, WK.
Treatment of the idiopathic respiratory-distress syndrome
Chuyên đề Nhi Khoa 5
with continuous positive airway pressure. N Engl J Med
1971:1333-40.
2. De Paoli AG, Morley CJ, Davis PG, Lau R, E. H. In vitro
comparison of nasal continuous positive airway pressure
devices for neonates. Arch Dis Child Fetal Neonatal 2002:87:
F42-5.
3. De Paoli AG, Davis PG, Faber B, CJ. M. Devices and pressure
sources for administration of nasal continuous positive
airway pressure (NCPAP) in preterm neonates. Cochrane
Database Syst Rev 2002; (4):CD002977
4. KM CHAN HC. The Use of Bubble CPAP in Premature
Infants:Local Experience. HK J Paediatr 2007; 12:86-92.
5. Rego MA, FE. M. Comparison of two nasal prongs for
application of continuous positive airway pressure in
neonates. Pediatr Crit Care Med 2002;3:239-43.
Chuyên đề Nhi Khoa 6
Chuyên đề Nhi Khoa 7
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- danh_gia_hieu_qua_dieu_tri_hoi_chung_suy_ho_hap_o_tre_non_th.pdf