Chất lượng cuộc sống (WHOQOL- BREF) đối
tượng nghiên cứu trước và sau điều trị
Tổ chức Y tế thế giới (WHO) định nghĩa chất
lượng cuộc sống là những cảm nhận của các cá nhân
về cuộc sống của họ trong bối cảnh văn hóa và các
hệ thống giá trị mà họ đang sống và liên quan đến
các mục đích, nguyện vọng, chuẩn mực và các mối
quan tâm của họ [11].
Trong nghiên cứu này, dựa vào bảng 5 ta thấy
tuổi càng cao thì sức khỏe thể chất càng giảm được
ghi nhận qua nhiều biểu hiện như sự vận động hàng
ngày giảm, gặp khó khăn trong vấn đề giấc ngủ và
nghỉ ngơi dễ dẫn đến những thay đổi về tâm lý. Bên
cạnh đó, thời gian mắc bệnh lâu ngày càng khiến
cho cơ thể chịu nhiều đau đớn, mệt mỏi do bệnh
tật cũng như phụ thuộc vào các dịch vụ y tế do đó
những đối tượng trên 50 tuổi và thuộc giai đoạn
phục hồi có chất lượng cuộc sống kém hơn, đặc biệt
là khía cạnh thể chất và tâm lý. Tuy nhiên chúng tôi
chưa tìm thấy sự khác biệt giữa nhóm (p>0,05).
Qua bảng 6, có thể thấy rằng khía cạnh tâm lý
luôn có điểm số thấp nhất cả trước và sau điều trị.
Đặc biệt khi được hỏi các câu hỏi liên quan đến khía
cạnh tâm lý bao gồm những lo lắng về về ngoại hình,
cảm xúc tiêu cực hoặc tích cực, vấn đề về tâm linh
và tôn giáo, tâm lý trong công việc, học tập thì đa
số các đối tượng đều chọn mức điểm thấp và than
phiền về vấn đề ngoại hình. Điều này có thể thấy
rằng bệnh lý liệt dây thần kinh số VII ngoại biên ảnh
hưởng nhiều đến thẩm mỹ làm ảnh hưởng đến chất
lượng cuộc sống của người bệnh, hơn nữa với giai
đoạn bán cấp và phục hồi có thời gian mắc bệnh dài
(từ tuần thứ 2 đến tháng thứ 6) càng ảnh hưởng
đến sinh hoạt, công việc và học tập. Tuy vậy, qua quá
trình điều trị, chúng tôi đều ghi nhận sự cải thiện
chất lượng cuộc sống của đối tượng nghiên cứu.
Cụ thể, điểm số ở tất cả các khía cạnh đều có sự
tăng đáng kể sau khi điều trị, sự khác biệt có ý nghĩa
thống kê (p<0,05), đáng chú ý là khía cạnh tâm lý
mặc dù có điểm số thấp nhất nhưng sau khi điều trị
có sự tăng lên rõ ràng nhất.
                
              
                                            
                                
            
 
            
                 7 trang
7 trang | 
Chia sẻ: hachi492 | Lượt xem: 8 | Lượt tải: 0 
              
            Bạn đang xem nội dung tài liệu Đánh giá hiệu quả điều trị liệt dây thần kinh số vii ngoại biên thể phong hàn giai đoạn bán cấp và phục hồi bằng điện châm kết hợp với thuốc cổ truyền, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
104
Tạp chí Y Dược học - Trường Đại học Y Dược Huế - Tập 9, số 4 - tháng 7/2019
ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ ĐIỀU TRỊ LIỆT DÂY THẦN KINH SỐ VII NGOẠI 
BIÊN THỂ PHONG HÀN GIAI ĐOẠN BÁN CẤP VÀ PHỤC HỒI BẰNG 
ĐIỆN CHÂM KẾT HỢP VỚI THUỐC CỔ TRUYỀN
Đoàn Văn Minh1, Nguyễn Thị Kim Liên1, Lê Thị Thảo Quyên3, 
Nguyễn Quang Tâm1, Phan Thị Thanh Nhàn2, Trần Nhật Minh1
(1) Khoa Y học cổ truyền, Trường Đại học Y Dược, Đại học Huế
(2) Bệnh viện Y học cổ truyền tỉnh Thừa Thiên Huế
(3) Lớp YHCT6,Trường Đại học Y Dược, Đại học Huế
Tóm tắt
Đặt vấn đề: Liệt dây thần kinh số VII ngoại biên là bệnh phổ biến trên lâm sàng, nguyên nhân thường 
do lạnh tương ứng với thể phong hàn theo Y học cổ truyền. Bệnh được chia làm 4 giai đoạn, nhưng mức độ 
đáp ứng điều trị ở các giai đoạn sau thường thấp hơn so với giai đoạn cấp. Nghiên cứu này áp dụng phác đồ 
châm cứu đã được khuyến cáo kết hợp với thuốc y học cổ truyền để điều trị bệnh lý này ở giai đoạn bán cấp 
và phục hồi nhằm đem lại hiệu quả điều trị cũng như để khuôn mặt sớm trở lại bình thường, không làm ảnh 
hưởng đến sinh hoạt và thẩm mỹ của bệnh nhân. Mục tiêu: Đánh giá hiệu quả điều trị và chất lượng cuộc 
sống bệnh nhân liệt dây thần kinh số VII ngoại biên thể phong hàn giai đoạn bán cấp và phục hồi bằng điện 
châm kết hợp với thuốc cổ truyền. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: nghiên cứu can thiệp, so sánh 
trước và sau điều trị trên 30 bệnh nhân được chẩn đoán xác định là liệt dây thần kinh số VII ngoại biên thể 
phong hàn giai đoạn bán cấp và phục hồi tại Bệnh viện Y học cổ truyền Thừa Thiên Huế, từ tháng 01/2018 
đến tháng 12/2018. Kết quả: Tỷ lệ khỏi hoàn toàn (phân độ I) sau điều trị chiếm 6,7%. Có 10 trường hợp hồi 
phục chức năng cơ vùng mặt gần như bình thường (75-100% bình thường) chiếm 33,3%. Về chất lượng cuộc 
sống, sau khi điều trị điểm số chất lượng cuộc sống có sự tăng đáng kể, sự khác biệt có ý nghĩa thống kê (p < 
0,05). Kết luận: Hiệu quả điều trị của điện châm kết hợp với thuốc y học cổ truyền đối với bệnh liệt dây thần 
kinh số VII ngoại biên thể phong hàn giai đoạn bán cấp và phục hồi là không cao. Chất lượng cuộc sống sau 
khi điều trị có cải thiện tốt hơn.
Từ khóa: Liệt dây thần kinh số VII ngoại biên, thể phong hàn, giai đoạn bán cấp, giai đoạn phục hồi, điện 
châm, thuốc y học cổ truyền.
Abstract 
EVALUATION OF THE TREATMENT EFFICIENCY PERIPHERAL FACIAL 
NERVE PALSY CAUSED BY COLD IN SUBACUTE AND RECOVERING 
STAGE BY ELECTROACUPUNTURE AND TRADITIONAL MEDICINE
Doan Van Minh1, Nguyen Thi Kim Lien1, Le Thi Thao Quyen3, 
Nguyen Quang Tam1, Phan Thi Thanh Nhan2, Tran Nhat Minh1
(1) Faculty of Traditional Medicine, Hue University of Medicine and Pharmacy, Hue University
(2) Thua Thien Hue Traditional Medicine Hospital
(3) 6th Traditional Medicine Class, Hue University of Medicine and Pharmacy, Hue University
Background: Peripheral facial nerve palsy is a relatively common disease in clinical practice, the major 
cause is cold which corresponding to Wind Cold clinical forms according to traditional medicine. The 
disease is divided into 4 stages, however the level of response to treatment in the later stages is often lower 
than in the acute phase. This study used acupuncture that were recommended combine with traditional 
medicine to treat this desease in subacute and recovering stage to bring about effective treatment as well 
as to return to normal face soon and it does not affect the patient’s quality life and aesthetics. Objectives: 
Evaluate the effect of treatment and quality of life of peripheral facial nerve palsy Wind-Cold clinical forms 
in subacute and recovering stage by electroacupunture combined with traditional medicine. Materials and 
Địa chỉ liên hệ: Đoàn Văn Minh, email: dvminh75@yahoo.com DOI: 10.34071/jmp.2019.4.15
Ngày nhận bài: 2/4/2019; Ngày đồng ý đăng: 14/6/2019; Ngày xuất bản: 1/7/2019
105
Tạp chí Y Dược học - Trường Đại học Y Dược Huế - Tập 9, số 4 - tháng 7/2019
method: Intervention studies, comparisons before and after treatment in 30 patients with definite diagnosis 
ofperipheral facial nerve palsy Wind-Cold clinical forms in subacute and recovering stage, from January to 
December 2018 in Thua Thien Hue Traditional Medicine Hospital. Result: The rate of complete recovery 
after treatment accounted for 6.7% (grade I). There are 10 cases of normal recovery of facial muscles 
function (normal 75-100%), accounting for 33.3%. About quality of life, after treatment, the score increased 
significantly, the difference was statistically significant (p < 0.05). Conclusion: The therapeutic effect of 
electroacupunturecombined with traditional medicine for disease peripheral facial nerve palsy Wind-Cold 
clinical forms in subacute and recovering stage is not high. Quality of life after treatment has improved better.
Key words: Peripheral facial nerve palsy, Wind Cold, subacute stage, recovering stage, electroacupunture, 
traditional medicine.
1. ĐẶT VẤN ĐỀ 
Liệt dây thần kinh số VII ngoại biên là một bệnh 
tương đối phổ biến trên lâm sàng. Nguyên nhân 
thường do lạnh, nhiễm trùng, chấn thương, u... 
nhưng chủ yếu là nguyên nhân do lạnh chiếm 60 – 
80%, tương ứng với thể Phong hàn theo Y học cổ 
truyền (YHCT) [1]. Bệnh tuy không nguy hại đến tính 
mạng nhưng ảnh hưởng nhiều đến sinh hoạt như 
hạn chế vận động các cơ ở mặt, điều tiết mắt, khó 
khăn trong ăn uống,giao tiếp xã hội, ngoài ra ảnh 
hưởng nhiều đến thẩm mỹ, cũng như làm giảm chất 
lượng cuộc sống (CLCS) của người bệnh.
Trong điều trị, y học hiện đại áp dụng phương 
pháp dùng thuốc corticoid, vitamin, phẫu thuật [2], 
[3]. Bên cạnh đó, Y học cổ truyền ngoài việc dùng 
các loại thuốc Đông dược còn áp dụng các phương 
pháp không dùng thuốc như: điện châm, xoa bóp, 
bấm huyệt, cứu đượcghi nhận ít biến chứng, bệnh 
nhân an tâm hơn trong điều trị và kết quả thu được 
cũng rất khả quan [4], [8].
Liệt dây thần kinh số VII ngoại biên do lạnh hay 
còn gọi là liệt Bell được chia làm 4 giai đoạn gồm 
cấp, bán cấp, phục hồi và di chứng [12]. Tuy nhiên 
mức độ đáp ứng điều trị ở các giai đoạn sau thường 
thấp hơn so với giai đoạn cấp và dễ để lại di chứng 
[12]. Hiện nay, có nhiều nghiên cứu trên thế giới 
cũng như trong nước về hiệu quả của châm cứu và 
các chế phẩm thuốc Y học cổ truyền trong điều trị 
bệnh lý này với hiệu quả khá cao và làm giảm đáng 
kể các triệu chứng. Tuy nhiên ở Việt Nam vẫn chưa 
có phác đồ điều trị theo Y học cổ truyền cụ thể cho 
từng giai đoạn khác nhau bằng châm cứu, do đó 
nghiên cứu này áp dụng phác đồ châm cứu điều trị 
liệt VII ngoại biên thể phong hàn giai đoạn cấp và 
bán cấp kết hợp bài thuốc thảo dược nhằm đem lại 
hiệu quả điều trị cao cũng như để khuôn mặt sớm 
trở lại bình thường, không ảnh hưởng đến chất 
lượng cuộc sống của bệnh nhân.Chúng tôi tiến hành 
nghiên cứu đề tài: “Đánh giá hiệu quả điều trị Liệt 
dây thần kinh số VII ngoại biên thể phong hàn giai 
đoạn bán cấp và phục hồi bằng điện châm kết hợp 
với thuốc cổ truyền” với hai mục tiêu:
(1) Đánh giá hiệu quả điều trị liệt dây thần kinh 
số VII ngoại biên thể phong hàn giai đoạn bán cấp và 
phục hồi bằng điện châm kết hợp với thuốc cổ truyền.
 (2) Đánh giá chất lượng cuộc sống đối tượng 
nghiên cứu trước và sau điều trị.
2. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Đối tượng nghiên cứu
Bao gồm những bệnh nhân được chẩn đoán xác 
định là liệt dây thần kinh số VII ngoại biên thể phong 
hàn giai đoạn bán cấp và phục hồi.
2.1.1. Tiêu chuẩn chọn bệnh nhân
Bệnh nhân Liệt dây thần kinh số VII ngoại biên 
một bên (phải hoặc trái), không phân biệt tuổi, giới, 
nghề nghiệp; với các triệu chứng [5]:
+ Bệnh nhân phải có rối loạn vận động: Mất nếp 
nhăn trán; mất rãnh mũi má; lệch nhân trung, méo 
miệng, dấu hiệu Souques (+), dấu hiệu Charles - Bell 
(+), sức co cơ khi cười yếu/không co được.
+ Bệnh nhân có thể có: Rối loạn thực vật: khô 
mắt; chảy nước mắt, giảm tiết nước bọt, giảm vị 
giác; Rối loạn cảm giác: cảm giác đau vùng sau tai, 
nghe vang đau.
+ Nguyên nhân do lạnh thường xuất hiện đột 
ngột, hay gặp vào mùa lạnh sáng sớm và thường 
không tìm thấy nguyên nhân khác.
- Liệt VII ngoại biên ở giai đoạn bán cấp và phục 
hồi: bệnh nhân nhập viện điều trị trong thời gian từ 
tuần thứ 2 đến tuần thứ 3 (giai đoạn bán cấp) và từ 
sau tuần thứ 3 đến tháng thứ 6 (giai đoạn phục hồi) 
kể từ ngày bệnh khởi phát [12].
2.1.2. Tiêu chuẩn loại trừ:
- Các bệnh nhân liệt dây thần kinh số VII ngoại 
biên thuộc các giai đoạn cấp và di chứng.
- Có tổn thương các dây thần kinh sọ não khác 
kèm theo.
- Có hội chứng thần kinh khác.
- Đang mắc các bệnh cấp tính.
- Tiền sử chấn thương hoặc phẫu thuật vùng 
đường đi của dây thần kinh VII.
106
Tạp chí Y Dược học - Trường Đại học Y Dược Huế - Tập 9, số 4 - tháng 7/2019
3.1.1. Sự cải thiện về điểm số trung bình
Biểu đồ 1. Điểm số trung bình của thang điểm FNGS 2.0 trước và sau điều trị
Nhận xét: Sau khi điều trị điểm số trung bình của thang điểm FNGS 2.0 có giảm đáng kể, sự khác biệt có 
ý nghĩa thống kê với p<0,05.
- Khám tai mũi họng có biểu hiện viêm tai giữa, 
viêm tai xương chũm, zona tai
- Kèm theo các bệnh khác như: suy tim, bệnh 
phổi, bệnh tâm thần, HIV - AIDS, rối loạn đông máu.
- Không tuân thủ nguyên tắc điều trị, bỏ điều trị 
quá 3 ngày hoặc dùng thêm các phương pháp điều 
trị khác.
2.2. Phương pháp nghiên cứu: 
2.2.1. Thiết kế nghiên cứu: phương pháp can 
thiệp, so sánh trước và sau điều trị.
2.2.2.Phương pháp chọn mẫu:
- Chọn mẫu có mục đích: các bệnh nhân được 
chẩn đoán xác định là liệt dây thần kinh số VII ngoại 
biên thể phong hàn giai đoạn bán cấp và phục hồi 
điều trị tại bệnh viện Y học cổ truyền Thừa Thiên 
Huế được chọn làm đối tượng nghiên cứu.
- Cỡ mẫu: 30 đối tượng.
2.2.3. Địa điểm nghiên cứu: Bệnh viện Y học cổ 
truyền Thừa Thiên Huế.
2.2.4. Thời gian nghiên cứu: từ tháng 01/2018 
đến tháng 12/2018.
2.2.5.Phương pháp điều trị:
+ Điện châm: Công thức huyệt điều trị: Địa 
thương, Giáp xa, Dương bạch, Ngư yêu, Hạ quan, 
Ế Phong, Khiên chính bên bị bệnh và huyệt Hợp cốc 
2 bên. Thao tác: Bệnh nhân nằm ngữa. Sau khi sát 
trùng vùng châm, thực hiện tiến kim nhanh và xuyên 
từ huyệt Địa thương đến Giáp xa, từ Dương bạch 
đến Ngư yêu. Kích thích kim đến khi đắc khí. Gắn 
các điện cực vào 2 đến 3 cặp huyệt, ví dụ: Giáp xa và 
Khiên chính. Lưu kim 30 phút [12]. Liệu trình: 1 lần/ 
ngày, 15 ngày/ liệu trình. 
+ Thuốc: Dùng bài thuốc cổ phương “Đại tần giao 
thang”. Sắc uống ngày 01 thang, 15 thang/ liệu trình.
2.2.6. Phương pháp đánh giá điều trị
- Đánh giá hiệu quả điều trị: dựa theo thang 
điểm Facial Nerve Grading System (FNGS) 2.0 của 
Ủy ban về Rối loạn thần kinh mặt (FND Committee) 
thuộc Học viện Hoa Kỳ năm 2009 [10].
- Đánh giá chất lượng cuộc sống bệnh nhân: 
công cụ đánh giá chất lượng cuộc sống của Tổ chức 
Y tế thế giới (WHOQOL- BREF) năm 1996 [11].
2.2.7. Phân tích và xử lý số liệu: Phần mềm SPSS 
20.0
3. KẾT QUẢ
Tổng số bệnh nhân liệt dây VII ngoại vi điều trị 
bằng kết hợp điện châm và thuốc cổ truyền là 30 
với đặc điểm như sau: Về giới, tỷ lệ nam giới cao 
hơn nữ và nam/nữ xấp xĩ bằng 2; Về tuổi, nhóm 
tuổi từ 18-49 chiếm tỷ lệ cao nhất (56,7%); Về môi 
trường sống, đa số các đối tượng nghiên cứu đều 
có môi trường sống và thói quen sinh hoạt tiếp xúc 
với gió lạnh (>40,0%); Về giai đoạn bệnh, bệnh nhân 
vào viện ở giai đoạn bán cấp lớn hơn 3 lần giai đoạn 
phục hồi.
3.1. Hiệu quả điều trị liệt dây thần kinh số VII 
ngoại biên thể phong hàn giai đoạn bán cấp và phục 
hồi bằng điện châm kết hợp với thuốc cổ truyền.
Trước khi can thiệp điều trị, phân loại mức độ 
liệt dây thần kinh số VII ngoại biên theo thang điểm 
FNGS 2.0 là: Phân độ IV chiếm tỷ lệ cao nhất (56,7%), 
tiếp đến độ V (23,3%), độ III (16,7%), độ II (3,3%) và 
không có bệnh nhân nào thuộc độ I và độ VI.
107
Tạp chí Y Dược học - Trường Đại học Y Dược Huế - Tập 9, số 4 - tháng 7/2019
3.1.2. Sự cải thiện về điểm số của các tiêu chí trong thang điểm FNGS 2.0
Bảng 2. Sự cải thiện điểm số của các tiêu chí trong thang điểm FNGS 2.0
Tiêu chí (vùng)
Trước điều trị Sau điều trị
p
X̅ SD X̅ SD
Trán 4,8 1,3 3,3 1,3 <0,05
Mắt 3,6 0,9 1,9 0,8
Rãnh mũi má 4,7 1,2 3,3 1,2
Miệng 3,9 0,7 2,7 0,9
Cử động thứ cấp 0 0,3 0 0,2 >0,05
Nhận xét: 
- Trước khi điều trị tất cả các vùng đều có biểu hiện yếu rõ, nhất là vùng trán và rãnh mũi má (yếu hơn 50% 
so với lúc bình thường) với điểm trung bình >3,0; riêng các cử động thứ cấp thì bình thường.
- Sau điều trị, điểm số của các vùng đều có sự cải thiện, sự khác biệt có ý nghĩa thống kê (p<0,05), trong 
đó vùng mắt có sự cải thiện rõ nhất. 
3.1.3. Kết quả điều trị chung
Bảng 3. Sự cải thiện về mức độ liệt dây thần kinh số VII ngoại biên 
Phân độ
Trước điều trị Sau điều trị
p
Số lượng (n) Tỷ lệ (%) Số lượng (n) Tỷ lệ(%)
I 0 0,0 2 6,7 >0,05
II 1 3,3 10 33,3 <0,05
III 5 16,7 15 50,0
IV 17 56,7 3 10,0
V 7 23,3 0 0,0
VI 0 0,0 0 0,0 >0,05
Nhận xét: 
- Tỷ lệ khỏi hoàn toàn sau điều trị chiếm 6,7% tương đương với mức phân độ I theo thang FNGS 2.0. Có 
10 trường hợp hồi phục chức năng cơ vùng mặt gần như bình thường (75-100% bình thường) chiếm 33,3%.
- Sau khi điều trị, tỷ lệ bệnh nhân thuộc phân độ I, II và III tăng lên, trong khi đó tỷ lệ thuộc phân độ IVvà 
V giảm xuống, sự khác biệt có ý nghĩa thống kê với p<0,05.
Bảng 4. Sự thay đổi mức độ liệt qua quá trình điều trị
Trước điều trị Sau điều trị Tỷ lệ %
II I 100,0
III II 100,0
IV I 11,8
II 23,5
III 58,8
IV 5,9
V III 42,9
IV 57,1
Nhận xét: Hầu hết bệnh nhân có cải thiện trên phân độ FNGS 2.0 so với phân độ liệt ban đầu, chỉ có một 
trường hợp vẫn giữ nguyên độ IV (5,9%) sau điều trị. Sự khác biệt về kết quả điều trị theo phân độ liệt ban 
đầu không có ý nghĩa thống kê (p>0,05).
108
Tạp chí Y Dược học - Trường Đại học Y Dược Huế - Tập 9, số 4 - tháng 7/2019
3.2. Chất lượng cuộc sống đối tượng nghiên cứu trước và sau điều trị.
Bảng 5. Chất lượng cuộc sống của đối tượng nghiên cứu trước điều trị
 CLCS
Thể chất Tâm lý Xã hội Môi trường
X̅ (SD) p X̅ (SD) p X̅ (SD) p X̅ (SD) p
Tuổi
<18 88,0 (0,0)
>0,05
56,0 (0,0)
>0,05
50,0 (0,0)
>0,05
88,0 (0,0)
>0,05
18-49 73,1(9,5) 58,6 (14,9) 73,1 (10,6) 71,8 (12,1)
≥50 57,9 (9,0) 48,0 (13,9) 64,0 (9,8) 63,6 (12,4)
Giai 
đoạn
Bán cấp 69,0(13,2)
>0,05
55,0 (15,3)
>0,05
69,3 (11,9)
>0,05
70,4 (13,2)
>0,05
Phục 
hồi
62,7 (7,4) 51,9 (14,8) 66,9 (10,2) 64,4 (11,7)
Nhận xét: Những đối tượng ≥50 tuổi có điểm chất lượng cuộc sống ở khía cạnh thể chất, tâm lý và môi 
trường thấp hơn so với các nhóm đối tượng khác. Các đối tượng ở giai đoạn phục hồi có điểm chất lượng 
cuộc sống ở tất cả các khía cạnh thấp hơn giai đoạn bán cấp.
Bảng 6. Chất lựợng cuộc cuộc sống của đối tượng nghiên cứu trước và sau điều trị.
Các khía 
cạnh
Trước điều trị Sau điều trị
p
X̅ SD
Giá trị 
nhỏ 
nhất
Giá trị 
lớn 
nhất
X̅ SD
Giá trị 
nhỏ 
nhất
Giá trị 
lớn 
nhất
Thể chất 67,5 12,3 44 88 75,9 12,8 50 94 <0,05
Tâm lý 54,3 15,0 19 88 70,1 12,5 44 88
Xã hội 68,7 11,4 50 100 74,8 10,1 50 100
Môi trường 69,0 13,0 44 88 76,2 10,7 50 94
Nhận xét:
- Khía cạnh tâm lý luôn có điểm số thấp nhất cả trước và sau điều trị.
- Trước điều trị, điểm số trung bình của tất cả khía cạnh đều ở mức dưới 70 điểm. Sau khi điều trị, điểm số 
đó có sự tăng đáng kể, cụ thể: khía cạnh thể chất tăng 8,4 điểm, tâm lý tăng 15,9 điểm, xã hội tăng 6,1 điểm, 
môi trường tăng 7,2 điểm. Sự khác biệt có ý nghĩa thống kê (p<0,05).
4. BÀN LUẬN
4.1. Hiệu quả điều trị liệt dây thần kinh số VII 
ngoại biên thể phong hàn giai đoạn bán cấp và phục 
hồi bằng điện châm kết hợp với thuốc cổ truyền.
Nhìn chung, các nghiên cứu trước đây đa số sử 
dụng thang đo House-Brackman (HB) để đánh giá 
hiệu quả điều trị của bệnh liệt dây thần kinh số VII 
ngoại biên [7], [8], [13]. Tuy nhiên nhận thấy thang 
đo này có một vài nhược điểm như không đánh giá 
cụ thể từng vùng và mang tính chủ quan của người 
khám, do đó khó khăn trong việc phân loại mức độ 
trên lâm sàng. Năm 2009, Ủy ban về Rối loạn thần 
kinh mặt (FND Committee) thuộc Học viện Hoa Kỳ đã 
đưa ra thang đo Facial Nerve Grading System (FNGS) 
2.0 để khắc phục những yếu điểm trên đồng thời 
tăng độ chính xác trong việc đánh giá và tiên lượng 
bệnh nhân trong quá trình điều trị, do đó chúng tôi sử 
dụng thang đo này để đánh giá quá trình điều trị [9].
Dựa vào các biểu đồ 1, ta thấy có sự cải thiện 
đáng kể điểm số trung bình của thang điểm FNGS 
2.0 từ 17,2 ±3,0 (trước điều trị) tương đương với độ 
IV, V xuống còn 11,4±3,5 (sau điều trị) đương đương 
với độ II và III và sự khác biệt này có ý nghĩa thống 
kê với p<0,05. Điều này cho thấy có sự cải thiện về 
các triệu chứng lâm sàng qua quá trình điều trị bằng 
điện châm kết hợp với thuốc y học cổ truyền.
Qua bảng 2 cho thấy trước khi điều trị tất cả các 
vùng đánh giá (trán, mắt, rãnh mũi má, miệng) đều 
có biểu hiện yếu rõ (yếu hơn 50% so với lúc bình 
thường), đặc biệt vùng trán và rãnh mũi má có biểu 
hiện yếu liệt rõ nhất. Trán và rãnh mũi má khi cử 
động tạo ra các nếp nhăn tự nhiên trên khuôn mặt. 
Trong bệnh lý này, vùng trán ngoài biểu hiện sự mất 
cân đối giữa lông mày 2 bên còn thể hiện nếp nhăn 
trán mờ hoặc mất khi cau mày. Các biểu hiện này 
không những xuất hiện sớm khi khởi phát bệnh, 
càng rõ khi bệnh nhân đến điều trị ngoài giai đoạn 
cấp mà còn thường hồi phục chậm nhất. Tuy nhiên 
trong nghiên cứu này, qua đợt điều trị có sự cải thiện 
tương đối tốt, cụ thể là mức độ yếu liệt giảm xuống 
<50% so với bình thường và từ việc không cân đối 
về lông mày, nếp nhăn trán, rãnh mũi má khi nghỉ 
109
Tạp chí Y Dược học - Trường Đại học Y Dược Huế - Tập 9, số 4 - tháng 7/2019
(không cử động các cơ) đã trở về trạng thái cân đối. 
Ngoài ra những rối loạn vận động vùng miệng như 
miệng méo, nhân trung lệch ảnh hưởng nhiều đến 
thẩm mỹ và tâm lý của người bệnh, đồng thời các 
cơ vùng miệng yếu nên ăn uống thức ăn dễ trào ra 
ngoài ảnh hưởng nhiều đến sinh hoạt cũng là điều 
than phiền của đa số bệnh nhân. Do đó việc chọn 
lựa các huyệt tại chỗ như Dương bạch, Ngư yêu, 
Địa thương, Giáp xa cùng với sự kích thích của dòng 
xung điện giúp lưu thông khí huyết, tăng cường dinh 
dưỡng kết hợp với việc ôn ấm kinh lạc thông qua các 
vị thuốc nhằm mang lại hiệu quả điều trị khả quan.
 Về hiệu quả điều trị được thể hiện qua sự thay 
đổi phân độ liệt giữa trước và sau điều trị, qua ghi 
nhận ở bảng 3 và 4 ta thấy, hầu hết bệnh nhân có cải 
thiện trên phân độ FNGS 2.0 so với ban đầu. Sau khi 
điều trị, tỷ lệ bệnh nhân thuộc phân độ I, II và III tăng 
lên, trong khi đó tỷ lệ thuộc phân độ IVvà V giảm 
xuống, sự khác biệt có ý nghĩa thống kê với p<0,05, 
như vậy có thể thấy phương pháp điều trị này có 
hiệu quả trong điều trị, cụ thể là làm giảm phân 
độ liệt. Tỷ lệ khỏi hoàn toàn chiếm 6,7% và phục 
hồi chức năng cơ vùng mặt gần như bình thường 
(33,3%) thấp hơn các nghiên cứu khác như Nguyễn 
Hoàng Trung (2013) - tỷ lệ khỏi 80%, Tang Bin (2013) 
- tỷ lệ khỏi 89,04% [6], [14]. Điều này được giải thích 
là do các nghiên cứu sử dụng các thang đo không 
giống nhau cũng như giai đoạn bệnh và phương 
pháp điều trị khác nhau.
4.2. Chất lượng cuộc sống (WHOQOL- BREF) đối 
tượng nghiên cứu trước và sau điều trị
Tổ chức Y tế thế giới (WHO) định nghĩa chất 
lượng cuộc sống là những cảm nhận của các cá nhân 
về cuộc sống của họ trong bối cảnh văn hóa và các 
hệ thống giá trị mà họ đang sống và liên quan đến 
các mục đích, nguyện vọng, chuẩn mực và các mối 
quan tâm của họ [11].
Trong nghiên cứu này, dựa vào bảng 5 ta thấy 
tuổi càng cao thì sức khỏe thể chất càng giảm được 
ghi nhận qua nhiều biểu hiện như sự vận động hàng 
ngày giảm, gặp khó khăn trong vấn đề giấc ngủ và 
nghỉ ngơi dễ dẫn đến những thay đổi về tâm lý. Bên 
cạnh đó, thời gian mắc bệnh lâu ngày càng khiến 
cho cơ thể chịu nhiều đau đớn, mệt mỏi do bệnh 
tật cũng như phụ thuộc vào các dịch vụ y tế do đó 
những đối tượng trên 50 tuổi và thuộc giai đoạn 
phục hồi có chất lượng cuộc sống kém hơn, đặc biệt 
là khía cạnh thể chất và tâm lý. Tuy nhiên chúng tôi 
chưa tìm thấy sự khác biệt giữa nhóm (p>0,05). 
Qua bảng 6, có thể thấy rằng khía cạnh tâm lý 
luôn có điểm số thấp nhất cả trước và sau điều trị. 
Đặc biệt khi được hỏi các câu hỏi liên quan đến khía 
cạnh tâm lý bao gồm những lo lắng về về ngoại hình, 
cảm xúc tiêu cực hoặc tích cực, vấn đề về tâm linh 
và tôn giáo, tâm lý trong công việc, học tập thì đa 
số các đối tượng đều chọn mức điểm thấp và than 
phiền về vấn đề ngoại hình. Điều này có thể thấy 
rằng bệnh lý liệt dây thần kinh số VII ngoại biên ảnh 
hưởng nhiều đến thẩm mỹ làm ảnh hưởng đến chất 
lượng cuộc sống của người bệnh, hơn nữa với giai 
đoạn bán cấp và phục hồi có thời gian mắc bệnh dài 
(từ tuần thứ 2 đến tháng thứ 6) càng ảnh hưởng 
đến sinh hoạt, công việc và học tập. Tuy vậy, qua quá 
trình điều trị, chúng tôi đều ghi nhận sự cải thiện 
chất lượng cuộc sống của đối tượng nghiên cứu. 
Cụ thể, điểm số ở tất cả các khía cạnh đều có sự 
tăng đáng kể sau khi điều trị, sự khác biệt có ý nghĩa 
thống kê (p<0,05), đáng chú ý là khía cạnh tâm lý 
mặc dù có điểm số thấp nhất nhưng sau khi điều trị 
có sự tăng lên rõ ràng nhất. 
5. KẾT LUẬN
5.1. Hiệu quả điều trị liệt dây thần kinh số VII 
ngoại biên thể phong hàn giai đoạn bán cấp và phục 
hồi bằng điện châm kết hợp với thuốc cổ truyền.
Sau điều trị, điểm số trung bình của các vùng 
cũng như tổng điểm theo phân độ FNGS 2.0 đều 
giảm, trong đó vùng mắt có sự cải thiện rõ nhất. 
Tỷ lệ khỏi hoàn toàn sau điều trị chiếm 6,7% tương 
đương với mức phân độ I theo thang FNGS 2.0. Có 
10 trường hợp hồi phục chức năng cơ vùng mặt gần 
như bình thường (75-100% bình thường) chiếm 
33,3%. Hiệu quả điều trị của phác đồ huyệt điện 
châm này kết hợp với thuốc y học cổ truyền đối với 
bệnh liệt dây thần kinh số VII ngoại biên thể phong 
hàn giai đoạn bán cấp và phục hồi là không cao. 
5.2.Chất lượng cuộc sống đối tượng nghiên cứu 
trước và sau điều trị.
Trước điều trị, điểm số trung bình của tất cả khía 
cạnh đều ở mức trung bình (từ 54,3 đến 69,0), thấp 
nhất là khía cạnh tâm lý. Sau khi điều trị, có sự cải 
thiện chất lượng cuộc sống, cụ thể: điểm số về chất 
lượng cuộc sống có sự tăng đáng kể, sự khác biệt có 
ý nghĩa thống kê (p<0,05).
110
Tạp chí Y Dược học - Trường Đại học Y Dược Huế - Tập 9, số 4 - tháng 7/2019
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ môn Thần kinh, Trường Đại học Y Dược Thành 
phố Hồ Chí Minh (2003), “Liệt mặt”, Thần kinh học, Nhà 
xuất bản Y học thành phố Hồ Chí Minh, tr 75 - 107. 
2. Nguyễn Văn Chương (2011), “Tổn thương dây thần 
kinh mặt”, Thực hành lâm sàng Thần kinh học tập III, Nhà 
xuất bản Y học Hà Nội, tr 292 - 303.
3. Nguyễn Văn Đăng (2003), “Liệt mặt”, Thực hành 
thần kinh các bệnh và hội chứng thường gặp, Nhà xuất 
bản Y học Hà Nội, tr 355 – 377.
4. Dương Thị Mai Huyền (2016), “Đánh giá hiệu quả 
điều trị liệt dây thần kinh VII ngoại biên do lạnh bằng 
phương pháp ôn châm kết hợp thuốc cổ truyền”, Luận văn 
tốt nghiệp Bác sĩ Y học cổ truyền, Đại học Y Dược Huế.
5. Hồ Hữu Lương(2005), “Bệnh thần kinh ngoại vi”, 
Liệt mặt, Nhà xuất bản Y học, Hà Nội, tr 303 – 341.
6. Nguyễn Hoàng Trung (2013), Đánh giá tác dụng điều 
trị và phân tích chi phí của phương pháp cấy chỉ Catgut 
vào huyệt trong điều trị liệt VII ngoại biên do lạnh, Luận 
văn tốt nghiệp Thạc sĩ Y học, Trường Đại học Y Hà Nội.
7. Bonhyuk Goo, Seong-Mok Jeong, Jong-Uk Kim, 
Yeon-Cheol Park, Byung-Kwan Seo, Yong-Hyeon Baek,-
Tae-Han Yook, Sang-Soo Nam (2019), “Clinical effi-
cacy and safety of thread-embedding acupuncture 
for treatment of the sequelae of Bell’s palsy”, Goo et 
al. Medicine (2019) 98:7; 
MD.0000000000014508.
8. Feng Xia, Junliang Han, Xuedong Liu, Jingcun 
Wang, Zhao Jiang, Kangjun Wang, Songdi Wu and Gang 
Zhao(2011), “Prednisolone and acupuncture in Bell’s pal-
sy:study protocol for a randomized, controlled trial” , Xia 
et al. Trials 2011, 12:158, 
content/12/1/158.
9. Ho Yun Lee, Moon Suh Park,Jae Yong Byun,Ji Hyun 
Chung, Se Young Na, Seung Geun Yeo (2013), “Agree-
ment between the Facial Nerve Grading System 2.0 and 
the House-Brackmann Grading System in Patients with 
Bell Palsy”, Clinical and Experimental Otorhinolaryngolo-
gy Vol. 6, No. 3: 135-139, September 2013 
org/10.3342/ceo.2013.6.3.135.
10. Kyung Hwan Suk, Hee Kyoung Ryu, Bon Hyuk Goo, 
Ju Hyeon Lee, Soo Hyeong Ryu, Su Yeon Lee, Min Jeong 
Kim, Yeon Cheol Park, Byung Kwan Seo, Dong Suk Park and 
Yong Hyeon Baek (2014), “A Review Study and Proposal 
of Facial Palsy Sequelae Evaluating Scale”, The Acupunc-
ture Vol. 31 No. 4 December 2014 : 99-108, 
org/10.13045/acupunct.2014057 .
11. World Health Organization (1996), WHOQOL-BREF: 
introduction, administration, scoring and generic version 
of the assessment. 
12. Xi Wu, Ying Li, Yi-Hui Zhu, Hui Zheng, Qin Chen, 
Xue-Zhi Li, Ling Luo, Fang Zeng,Wen-Jing Huanga, Ling 
Zhao, Xiao-Dong Wu, Hong Zhao, Ming-Jie Zi, Xu Guo, 
Si-Yuan Zhou,Hui-Juan Tan and Fan-Rong Liang, (2015), 
“Clinical Practice Guideline of Acupuncture for Bell’s 
Palsy”, World Journal of Traditional Chinese Medicine,-
DOI:10.15806/j.issn.23118571.2015.0016.
13. Zhi-dan Liu1, Jiang-bo He, Si-si Guo, Zhi-xin Yang, 
Jun Shen, Xiao-yan Li, Wei Liang and Wei-dong Shen 
(2015), “Effects of electroacupuncture therapy for Bell’s 
palsy from acute stage: study protocol for a random-
ized controlled trial”, Liu et al. Trials (2015) 16:378, DOI 
10.1186/s13063-015-0893-9.
14. 唐斌 (2013), “温针治针面针73例”, 上海市南针针
中心医院针灸科, 上海, 页155 - 175.
            Các file đính kèm theo tài liệu này:
 danh_gia_hieu_qua_dieu_tri_liet_day_than_kinh_so_vii_ngoai_b.pdf danh_gia_hieu_qua_dieu_tri_liet_day_than_kinh_so_vii_ngoai_b.pdf