Đánh giá hiệu quả điều trịu thân não bằng dao Gamma quay (rotating gamma knife) tại bệnh viện Bạch Mai

KẾTLUẬN Từ nghiên cứu áp dụng phương pháp xạ phẫu bằng RGK cho 50 người bệnh u thân não, chúng tôi thu được một số kết quả sau: Trước xạ phẫu Tuổi trung bình của người bệnh là 32,2; Nữ chiếm 64%. Vị trí u ở trung não chiếm 32%, cầu não 48%, hành não 20%. Triệu chứng hay gặp đau đầu 72%, yếu ½ người 36%, nuốt sặc 20%, nấc, lác mắt 24%, sụp mí mắt 16%, hội chứng tiểu não 18%. 2 loại u hay gặp ở thân não là cavernome chiếm 60% và Gliome chiếm 40%. Kích thước trung bình khối u ở trung não 2,4±1,2cm, liều xạ phẫu trung bình 14,6±1,8Gy; ở cầu não là 2,1±0,9cm, liều xạ phẫu trung bình 13,4±2,1Gy;Hành não là 1,8±1,6cm, liều xạ phẫu trung bình 12,1±3,2Gy. Sau xạ phẫu Triệu chứng lâm sàng cải thiện ở tháng thứ 1 sau xạ phẫu và cải thiện tốt từsau tháng thứ 3 trở đi. Kích thước khối u bắt đầu giảm ở tháng thứ 6, tiếp tục giảm ở tháng thứ 12, và giảm nhiều hơn nữa ở tháng thứ 24 tương ứng với u vị trí trung não 2,2±0,8cm, 1,6±1,4cm, 1,2±0,6cm. Ở cầu não là 1,9±1,4cm, 1,4±0,7cm, 1,1±1cm. Ở hành não 1,6±1cm, 1,2±0,9cm, 0,8±1,5cm; thời gian sau xạ phẫu càng kéo dài thì kích thước khối u càng thu nhỏ hơn.

pdf7 trang | Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 07/02/2022 | Lượt xem: 137 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đánh giá hiệu quả điều trịu thân não bằng dao Gamma quay (rotating gamma knife) tại bệnh viện Bạch Mai, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014  Nghiên cứu Y học Mạch Máu Não và Xạ Phẫu  403 ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ ĐIỀU TRỊ U THÂN NÃO BẰNG DAO GAMMA QUAY  (ROTATING GAMMA KNIFE) TẠI BỆNH VIỆN BẠCH MAI  Nguyễn Quang Hùng*, Mai Trọng Khoa*, Trần Đình Hà*, Lê Chính Đại*  TÓM TẮT   Mục tiêu: Đánh giá kết quả điều trị u thân não bằng dao gamma quay (Rotating Gamma Knife, RGK) tại  Trung tâm Y học hạt nhân và Ung bướu (YHHN & UB) ‐Bệnh viện Bạch Mai, từ 8/2009 đến 1/2012.  Đối tượng nghiên cứu: 50 người bệnh được chẩn đoán u thân não có chỉ định xạ phẫu bằng RGK.   Kết quảnghiên cứu: Tuổi trung bình: 32,2 tuổi, tuổi thấp nhất là 4 tuổi, cao nhất là 58 tuổi. Nam chiếm  36%, nữ chiếm 64%. 32% u ở vị trí trung não, 48% ở cầu não, 20% ở hành não. Cavernme chiếm 60%, Gliome  chiếm 40%. Triệu chứng hay gặp đau đầu 72%, yếu ½ người 36%, nấc 24%, lác mắt 24%, nuốt sặc 24%... Kích  thước khối u ở trung não trung bình 2,4 ± 1,2cm, cầu não 2,1 ± 0,9cm, hành não 1,8 ± 1,6cm. Liều xạ trung bình  14,6 ± 1,8Gy;13,4 ± 2,1Gy; 12,1 ± 3,2Gy tương ứng với trung não, cầu não, hành não.   Kết luận: Triệu chứng cơ năng như đau đầu, buồn nôn, nôn, phù gai thị, nấc, nuốt sặc bắt đầu cải thiện  ở tháng thứ 1 ngay sau điều trị và đáp ứng tốt ở tháng thứ 3, riêng dấu hiệu lác mắt hầu như ít cải thiện sau điều  trị. Kích thước khối u ở vị trí trung não trước điều trị là 2,4 ± 1,2cm bắt đầu giảm ở tháng thứ 6, 12, 24 tương  ứng là 2,2 ± 0,8cm; 1,6 ± 1,4cm; 1,2 ± 0,6cm. Ở cầu não trước điều trị là 2,1 ± 0,9cm giảm sau điều trị ở tháng  thứ 6, 12, 24 tương ứng là 1,9 ± 1,4cm; 1,4 ± 0,7cm; 1,1 ± 1cm. Ở hành não trước điều trị là 1,8 ± 1,6cm giảm  sau điều trị ở tháng thứ 6, 12, 24 tương ứng là 1,6 ± 1cm; 1,2 ± 0,9cm; 0,8 ± 1,5cm. Biến chứng gặp phải sau xạ  phẫu: mệt mỏi (38%), rụng tóc (16%), giảm tiết nước bọt (24%), mất ngủ (62%). Các dấu hiệu này hết dần sau  khi can thiệp thuốc nội khoa. Không có trường hợp nào tử vong sau điều trị. Xạ phẫu bằng RGK cho các người  bệnh u thân não là phương pháp điều trị an toàn và hiệu quả.  Từ khóa: U thân não; Dao Gamma quay  ABSTRACT  EVALUATE THE RESULT OF TREATING BRAINSTEM TUMOR BY ROTATING GAMMA KNIFE AT  BACH MAI HOSPITAL  Nguyen Quang Hung, Mai Trong Khoa, Tran Dinh Ha, Le Chinh Dai  * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 18 ‐ Supplement of No 6‐ 2014: 403 – 409  Aims: To evaluate the treatment outcomes of treating brainstem tumor by Rotating Gamma Knife (RGK) at  The Nuclear Medicine and Oncology Center‐Bach Mai hospital, from 8/2009 to1/2012.  Subjects: 50 patients diagnosed with brainstem tumors and being referred to RGK radiosurgery.   Results: Average age: 32.2 years old, range from 4 to 58. Males accounted for 36%, females accounted for  64% of the study population. 32% of these patientstumor  located at mid brain, 48% at pons, 20% at medulla  oblongata.  Cavernoma  accounted  for  60%,  Glioma  accounted  for  40%.  The most  common  symptoms  were  headache 72%, weakness of half body 36%, hiccup 24%, etophobia 24%, dysphagia 24%. Mean tumor size at mid  brain were 2.4±1.2cm, pons 2.1±0.9cm, medulla oblongata: 1.8±1.6cm. Mean radiation therapy were 14.6±1.8Gy;  13.4±2.1Gy; 12.1±3.2Gy in corresponding to mid brain, pons, medulla oblongata, respectively.   * Bệnh viện Bạch Mai  Tác giả liên lạc:ThS.BS. Nguyễn Quang Hùng; ĐT: 0909572686; Email:nguyenquanghungbvbm2013@gmail.com Nghiên cứu Y học  Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014 Chuyên Đề Phẫu Thuật Thần Kinh 404 Conclusions: Clinical symptoms such as headache, nausea, vomiting, papilledema, hiccup, choke started  to decreased  from 1st month  after RGK  and have good  response  since 3rd month,exception  of  etophobia which  stayed still. Average tumor size at mid brain before treatment was 2.4±1.2cm and started to reduce from 6th, 12th,  24th month with 2.2±0.8cm; 1.6±1.4cm; 1.2±0.6cm, respectively. Pretreatment average size of pons tumors was  2.1±0.9cmand  started  to  reduce  from  6th,  12th,  24th month with  1.9±1.4cm;  1.4±0.7cm;  1.1±1cm,  respectively.  Pretreatment median size of medulla oblongata tumor was 1.8± 1.6 and started to reduce from 6th, 12th, 24th month  with 1.6±1cm; 1.2±0.9cm; 0.8±1.5cm, respectively. Adverse events occured after radiosurgery: fatigueness (38%),  hair  loss  (16%),  reduced  salivary  secretion  (24%),  insomnia  (62%). These adverse  effects decreased gradually  after treated by internal medicine. There were no death due to RGK radiosurgery. RGK radiosurgery is a safe and  effective option for brainstem tumors.  Keyword: Brainstem tumor; Rotating Gamma Knife (RGK)  ĐẶT VẤN ĐỀ  U não là thuật ngữ thường dùng có tính quy  ước để chỉ các u trong sọ, bệnh xuất hiện trong  hệ thống thần kinh trung ương và có thể gặp ở  bất cứ vị  trí nào  trong não. Tuy nhiên người  ta  đặc biệt quan tâm với những u nằm ở những vị  trí đặc biệt trong não như ở trung não, cầu não  và hành não. Đó chính  là những u thân não và  có  ảnh  hưởng  trực  tiếp  tới  các  chức  năng  vận  động,  hô  hấp,  tuần  hoàn  của  cơ  thể.  Những  người bệnh có u ở thân não, tiên  lượng thường  rất xấu, điều trị khó khăn, bệnh tiến triển nhanh,  thời gian sống ngắn, tỉ lệ tử vong cao. Ở những  thập niên trước, điều trị u thân não gặp rất nhiều  khó khăn. Phẫu thuật mở hộp sọ ít được chỉ định  do tỷ lệ tai biến cao; điều trị nội khoa chỉ mang  tính  chất  cải  thiện  triệu  chứng  tạm  thời;  xạ  trị  chiếu ngoài không phát huy được hết  tác dụng  vì  khối  u  thân  não  ở  vị  trí  sâu,  nguy  hiểm,  trường chiếu xạ rộng khả năng tập trung liều xạ  vào tổn thương thấp.   Ngày nay, sự xuất hiện của nhiều hệ  thống  xạ phẫu bằng dao Gamma  (Gamma knife)  đặc  biệt  là RGK đã giúp điều  trị cho người bệnh u  thân não hiệu quả và an toàn, từ đó góp phần cải  thiện chất lượng cuộc sống và kéo dài thời gian  sống cho người bệnh.   Ở Việt Nam, Trung tâm YHHN & UB ‐ Bệnh  viện  Bạch Mai  đã  ứng  dụng  phương  pháp  xạ  phẫu bằng RGK để điều trị người bệnh u não và  bệnh  lý  sọ  não,  trong  đó  có  khá  nhiều  người  bệnh u thân não. Vì vậy, chúng tôi tiến hành đề  tài này nhằm mục đích: “Đánh giá hiệu quả điều  trị u thân não bằng phương pháp xạ phẫu bằng dao  gamma quay tại Trung tâm YHHN & UB, Bệnh viện  Bạch Mai”.  ĐỐI TƯỢNG ‐ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU  Đối tượng nghiên cứu  Các người bệnh u thân não nguyên phát có  chỉ định xạ phẫu bằng RGK.  Phương pháp nghiên cứu  Nghiên cứu mô tả có theo dõi dọc  Thiết kế nghiên cứu  Những  người  bệnh  có  đủ  các  tiêu  chuẩn  nghiên cứu sẽ được chọn vào nghiên cứu. Thu  thập số liệu theo mẫu bệnh án nghiên cứu thống  nhất.  Đánh giá kết quả nghiên cứu  Tất  cả  các người bệnh  được  chẩn  đoán xác  định u thân não, có chỉ định xạ phẫu bằng RGK,  được đánh giá các triệu chứng lâm sàng, cận lâm  sàng  trước và  sau  xạ phẫu  1  tháng,  3  tháng,  6  tháng, 12 tháng, 24 tháng, 36 tháng.cụ thể là:  ‐ Đánh giá các triệu chứng cơ năng, các thay  đổi lâm sàng, cận lâm sàng trước và sau xạ phẫu.  ‐ Đánh giá sự thay đổi hình ảnh của khối u  theo tiêu chuẩn RECIST.  Thiết bị sử dụng và quy trình xạ phẫu   Thiết bị sử dụng   Hệ  thống  RGK do  Hoa  Kỳ  sản  xuất  năm  2007 bao gồm:   Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014  Nghiên cứu Y học Mạch Máu Não và Xạ Phẫu  405 ‐ Hệ thống collimator quay   ‐ Hệ thống định vị đầu người bệnh tự động  APS (automatic positioning systems).   ‐ Hệ thống phần mềm lập kế hoạch AGRS(.  ‐ Hệ thống chụp mô phỏng: CT, MRI, DSA,  MSCT với định vị laser ba chiều.  Quy trình xạ phẫu  Xử lý số liệu  Kết quả nghiên cứu được xử lý theo chương  trình SPSS 16.0.   KẾT QUẢ VÀ BÀN LUẬN  Dao gamma đầu tiên do Lars Leksell (người  Thuỵ Điển) phát minh vào năm 1968 để điều trị  một số bệnh  lý sọ não. Nguyên  lý của phương  pháp  là sử dụng nhiều chùm  tia gamma hội  tụ  tại một  điểm  (vị  trí  tổn  thương)  làm  tăng  liều  phóng xạ tại điểm đó để phá huỷ mô tổn thương  nằm  sâu  trong  não mà  không  gây  chảy máu,  nhiễm trùng, ít gây tổn thương các tổ chức lành  xung  quanh.  Phương  tiện  này  giúp  loại  bỏ  tổ  chức  bệnh  lý  trong  não  mà  không  cần  phẫu  thuật mở hộp sọ, mang lại rất nhiều lợi ích và an  toàn cho người bệnh và xã hội.   Tuổi và giới   Nghiên cứu được tiến hành từ tháng 8/2009 ‐  1/2012 chúng tôi đã điều trị cho 50 người bệnh u  thân não trong đó: Tuổi thấp nhất là 4 tuổi, cao  nhất là 58 tuổi, tuổi trung bình là 32,2 tuổi; tuổi  hay gặp nhất là ở 2 nhóm tuổi <15 và 45‐60; Nam  chiếm tỷ lệ 36%, nữ chiếm 64%. Edward A. và cs  đã nghiên  cứu  68 người  bệnh  cavernome  thân  não:  tuổi  trung bình 41,2  tuổi; nam chiếm 50%,  nữ  chiếm  (50%)(7).  Theo GÁBOR NAGY  và  cs  nghiên  cứu 113 người bệnh u não  trong  đó 79  người bệnh u thân não cho thấy tuổi trung bình  là 34 tuổi, tuổi thấp nhất là 5 tuổi, cao nhất là 69  tuổi(8). Đối với phương pháp xạ phẫu bằng dao  gamma  thì  yếu  tố  tuổi  là  rất  quan  trọng.  Rất  nhiều người bệnh nhi có tuổi thấp không thể tiến  hành được bằng kỹ thuật này. Kỹ thuật xạ phẫu  bằng  RGK  ra  đời  cho  phép  tiến  hành  được  ở  những  người  bệnh  có  tuổi  nhỏ  hơn  mà  các  phương pháp khác không tiến hành được. Trong  nghiên  cứu  của  chúng  tôi,  tuổi  thấp  nhất  là  4  tuổi và ở nước  ta  từ  trước chưa có người bệnh  nào  được  xạ phẫu  ở  lứa  tuổi  này. Do  đó,  đây  cũng thể hiện tính ưu việt của phương pháp xạ  phẫu bằng RGK. Trong nghiên cứu này, chúng  tôi mới chỉ gặp một người bệnh ở độ tuổi 58 có u  ở  vị  trí  thân  não.  Tuy  nhiên,  nghiên  cứu  1200  người  bệnh  u  não  và một  số  bệnh  lý  sọ  não,  chúng tôi đã tiến hành xạ phẫu bằng RGK thành  công an toàn và hiệu quả cho mọi lứa tuổi từ 4‐ 91  tuổi(6). Ở độ  tuổi nhỏ hơn hay cao  tuổi hơn  trong xạ phẫu  chúng  tôi phối hợp với  tiền mê  tĩnh mạch hoặc gây mê nội khí quản.  Đặc điểm tổn thương   Chúng tôi tiến hành xạ phẫu bằng RGK cho  50 người bệnh u thân não thì có 16 người bệnh u  trung não chiếm 32%, 24 người bệnh u cầu não  chiếm  48%,  10  người  bệnh  u  hành  não  chiếm  20%. (Biểu đồ1).  Biểu đồ1: Phân loại hình thái u dựa theo vị trí  giải phẫu  Nghiên  cứu  của Randall W  và  cs  cho  thấy  trong  tổng  số  100 người  bệnh  cavernome  thân  não  thì  có  tới  39  người  bệnh  có  u  ở  cầu  não  (39%),  16  người  bệnh  u  hành  não  (16%),  16  người bệnh u trung não (16%), nam chiếm tỷ lệ  38%,  nữ  62%(9). Theo GÁBOR NAGY  được  xạ  phẫu  bằng  dao  gamma  cho  79  người  bệnh  cavernome thân não trong đó u ở vị trí hành não  4 trường hợp chiếm 5%, cầu hành não 13 trường  hợp  (16%),  cầu  não  30  người  bệnh  (38%),  cầu  cuống đại não 8 trường hợp (10%), trung não 18  trường  hợp  (22,5%)(8).  Landolfi  và  cs  xạ  phẫu  32% 48% 20% Trung não (n=16) Cầu não (n=24) Hành não (n=10) Nghiên cứu Y học  Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014 Chuyên Đề Phẫu Thuật Thần Kinh 406 cho 19 người bệnh Gliome thân não trong đó 13  trường hợp ở cầu não chiếm 68,4%; 4 trường hợp  ở  hành  não  chiếm  21%,  2  trường  hợp  ở  trung  não chiếm 10,5%(5). Qua nghiên cứu của một số  tác  giả  chúng  tôi  nhận  thấy  u  thân  não  (Cavernome và Gliome) chủ yếu gặp ở vị trí cầu  não.Kết quả nghiên cứu của các tác giả này cũng  tương tự như nghiên cứu của chúng tôi.  Các  dấu  hiệu  lâm  sàng  như  đau  đầu,  nấc,  nuốt  sặc, nôn và buồn nôn, phù gai  thị, yếu ½  người... cải thiện ngay sau điều trị ở tháng thư 1  và  cải  thiện  rất  tốt  ở  tháng  thứ  6  trở  đi.  Tuy  nhiên ở tháng thứ 3 dấu hiệu lâm sàng có chiều  hướng cải thiện ít, thậm trí một số người bệnh có  một  vài  triệu  chứng  còn  nặng  hơn. Giải  thích  vấn đề này chúng  tôi đã  tiến hành  thăm khám  kỹ  và  chụp  cộng  hưởng  từ  cho  tất  các  người  bệnh  được  xạ  phẫu  sau  3  tháng  cho  thấy  20  người  bệnh  được  chẩn  đoán  là gliome  có  kích  thước khối u tăng hơn so với trước điều trị và có  phù não xung quanh, 30 người bệnh được chẩn  đoán là cavernome không có dấu hiệu tăng kích  thước khối u và phù não xung quanh. Điều đó  cho  thấy  rằng khả năng  đáp  ứng  sau  xạ phẫu  không  chỉ  phụ  thuộc  vào  liều  điều  trị mà  còn  phụ  thuộc  đáng  kể  vào  bản  chất,  tính  chất  và  kích thước khối u (Biểu đồ2).  Biểu đồ2: Thay đổi triệu chứng lâm sàng theo thời gian  Nghiên cứu của De Oliveira JG và cs với 45  người bệnh thì triệu chứng cơ năng bắt đầu cải  thiện ngay ở tháng thứ 1 sau xạ phẫu đến tháng  thứ 6 thì các dấu hiệu này cải thiện đáng kể. Tuy  nhiên  tác giả không đề cập đến kết quả nghiên  cứu ở tháng thứ 3, nhưng tác giả cũng đưa ra tỷ  lệ phù não sau xạ phẫu ở tháng thứ 6 là 40%(1).  Một khuyến cáo đưa ra cho những người bệnh u  thân não sau xạ phẫu là phải thăm khám định kỳ  và thường xuyên kết hợp điều trị nội khoa.  50 người bệnh được tiến hành đo kích thước  tổn  thương  đánh  giá  theo  tiêu  chuẩn  RECIST  trong đó đối với u ở vị trí trung não kích thước  nhỏ nhất là 1,1cm, lớn nhất 3cm, kíchthước trung  bình  2,4±1,2cm,  liều  xạ  phẫu  trung  bình  14,6±1,8cm;  u  ở  cầu  não  kích  thước  nhỏ  nhất  0,8cm,  lớn nhất 3cm,  trung bình 2,1±0,9cm,  liều  xạ  phẫu  trung  bình  13,4±2,1cm; U  ở  hành  não  kích thước nhỏ nhất 0,6cm, lớn nhất 2,8cm, trung  bình  1,8±1,6cm,  liều  xạ  phẫu  trung  bình  12,1±3,2cm. Sau xạ phẫu kích  thước  trung bình  của khối u  tăng hơn  ở  tháng  thứ 3 và bắt  đầu  giảm ở tháng thứ 6, giảm mạnh ở tháng thứ 24.   -10 0 10 20 30 40 50 60 70 80 Trước ĐT 1tháng 3tháng 6 tháng 12 tháng 24 tháng Đau đầu Buồn nôn, nôn Phù gai thị Rối loạn ý thức Nấc Nuốt sặc Lác mắt Sụp mí mắt Khó thở Khó nói Yếu 1/2 người Liệt 1/2 người Yếu 2 chi dưới HC tiểu não Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014  Nghiên cứu Y học Mạch Máu Não và Xạ Phẫu  407 Biểu đồ3: Thay đổi kích thước khối u (cm) trước và sau điều trị  Theo Edward A  trong nghiên cứu 68 người  bệnh u thân não được xạ phẫu bằng dao gamma  cổ điển: kích thước khối u trung bình 1,3cm, liều  xạ phẫu trung bình 15,84 Gy(7). Theo Fuchs I và  cs nghiên cứu từ năm 1992 – 1999 cho 21 gliome  thân  não  được  xạ  phẫu  bằng  dao  gamma  cổ  điển:  tuổi  trung  bình  là  23  tuổi,  nhỏ  nhất  là  8  tuổi, lớn nhất là 56 tuổi. Trong đó 2 trường hợp  u hành não, 12  là u ở cầu não, 7 u ở trung não.  Liều  điều  trị  trung  bình  12Gy,  thấp  nhất  9Gy,  cao nhất 20Gy. Thời gian theo dõi trung bình 29  tháng  (3‐99  tháng). Kiểm  soát  được  bệnh  ở  10  người bệnh, tái phát ở 2 người bệnh. Các tác giả  đã đi đến kết luận là xạ phẫu bằng dao Gamma  là phương pháp điều trị an toàn và hiệu quả(2).   Kida Y và cs đã nghiên cứu 51 người bệnh u  tế bào hình sao bậc  thấp được điều  trị với dao  gamma cổ điển (Gamma knife) và  theo dõi sau  xạ phẫu hơn 24 tháng. Trong đó 12 người bệnh  là u tế bào sao bậc I, 39 người bệnh còn lại u tế  bào  sao  bậc  II.  Ở  nhóm  u  tế  bào  sao  bậc  I  (astrocytoma Grade I), tuổi trung bình là 9,8 tuổi,  đường kính trung bình khối u là 25,4mm, liều xạ  phẫu trung bình 12,5Gy. Nhóm u tế bào sao bậc  II (astrocytoma Grade II): tuổi trung bình là 30,9  tuổi, đường kính  trung bình khối u  là 23,7mm,  liều  trung  bình  là  15,7Gy.  Thời  gian  theo  dõi  trung bình là 27,6 tháng. Tỷ lệ đáp ứng với u tế  bào  sao bậc  I  là 50%,  tỷ  lệ kiểm  soát khối u  là  91,7%. Đối với u tế bào sao bậc II: tỷ lệ đáp ứng  là 46,2% và tỷ lệ kiểm soát khối u là 87,2%. Các  tác giả kết  luận xạ phẫu đóng một vai trò quan  trọng  trong  việc  điều  trị  các  u  tế  bào  sao  bậc  thấp,  thậm  chí một  số  trường  hợp  còn  có  thể  khỏi hoàn toàn(4).  Chúng  tôi  xạ  phẫu  bằng RGK  và  theo  dõi  cho 50 người bệnh u thân não trong vòng 2 năm,  khám  định  kỳ  1  tháng,  3  tháng,  6  tháng,  12  tháng, 24 tháng , đánh giá bilan và chụp cộng  hưởng từ có tiêm thuốc đối quang từ, đo đường  kính khối u  theo  tiêu  chuẩn RECIST. Đánh giá  đáp ứng khối u  theo vị  trí  (trung não, cầu não,  hành não),  theo bản chất  (Cavernome, Gliome).  Tiêu chuẩn lựa chọn đường kích khối u trước xạ  phẫu ≤ 3cm, sau xạ phẫu bằng RGK khối u được  kiểm  soát hoàn  toàn,  thời gian  theo dõi  sau xạ  phẫu càng lâu thì kích thước khối u có xu hướng  ngày càng nhỏ lại. Chứng tỏ xạ phẫu bằng RGK  là phương pháp sử dụng bức xạ năng lượng từ  nguồn Co‐60  tác động, phá hủy  tới khối u một  cách từ từ đảm bảo tiêu diệt được khối u mà vẫn  bảo vệ được các mô não  lành xung quanh, khả  năng xuất  liều không đe dọa tính mạng và ảnh  hưởng tới môi trường xung quanh.   2.4 2.6 2.2 1.6 1.2 2.1 2.2 1.9 1.4 1.1 1.8 1.9 1.6 1.2 0.8 0 0.5 1 1.5 2 2.5 3 Trước điều trị Sau 3tháng Sau 6tháng Sau 12tháng Sau 24tháng Trung não Cầu não Hành não cm Nghiên cứu Y học  Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014 Chuyên Đề Phẫu Thuật Thần Kinh 408 Theo  Kaplan  và  cs  nghiên  cứu  119  người  bệnh  xạ  phẫu  bằng  dao  gamma  cổ  điển  cho  Gliome thân não cho thấy 37% sống 1 năm, 20%  sống sau 2 năm, 13% sống sau 3 năm(3). Squire  và  cs  xạ phẫu  cho  12 người bệnh u  trung não  thời  gian  sống  trung  bình  hơn  50  tháng(10).  Landofil và cs nghiên cứu 19 người bệnh gliome  thân  não  thì  thời  gian  sống  trung  bình  là  54  tháng, sống sau 5 năm chiếm 45%(5).  Từ những nghiên cứu trên cho thấy, chúng  tôi sử dụng máy xạ phẫu RGK điều trị cho 50  người bệnh u thân não, kết quả kiểm soát tình  trạng  khối u  cao  hơn,  an  toàn  hơn, mang  lại  hiệu quả và chất lượng sống tốt hơn cho người  bệnh.  Đó  chính  là  ưu  việt  mang  lại  của  hệ  thống xạ phẫu bằng RGK so với hệ thống dao  gamma khác.  Một số trường hợp lâm sàng  1. BN Hồ. V.Th. 46 tuổi (Cavernome)  2.  BN  Đinh.  Th.  V.  42  tuổi  (Gliome) KẾT LUẬN   Từ  nghiên  cứu  áp  dụng  phương  pháp  xạ  phẫu bằng RGK cho 50 người bệnh u thân não,  chúng tôi thu được một số kết quả sau:  Trước xạ phẫu   Tuổi trung bình của người bệnh  là 32,2; Nữ  chiếm 64%. Vị trí u ở trung não chiếm 32%, cầu  não  48%, hành não  20%. Triệu  chứng hay  gặp  đau đầu 72%, yếu ½ người 36%, nuốt sặc 20%,  nấc,  lác mắt  24%,  sụp mí mắt  16%,  hội  chứng  tiểu  não  18%.  2  loại  u  hay  gặp  ở  thân  não  là  cavernome  chiếm  60%  và  Gliome  chiếm  40%.  Kích  thước  trung  bình  khối  u  ở  trung  não  2,4±1,2cm, liều xạ phẫu trung bình 14,6±1,8Gy; ở  cầu  não  là  2,1±0,9cm,  liều  xạ  phẫu  trung  bình  13,4±2,1Gy;Hành não  là 1,8±1,6cm,  liều xạ phẫu  trung bình 12,1±3,2Gy.  Sau xạ phẫu  Triệu chứng lâm sàng cải thiện ở tháng thứ 1  sau xạ phẫu và cải thiện tốt từsau tháng thứ 3 trở  đi. Kích thước khối u bắt đầu giảm ở tháng thứ  6,  tiếp  tục giảm  ở  tháng  thứ 12, và giảm nhiều  hơn nữa ở  tháng  thứ 24  tương ứng với u vị  trí  trung não 2,2±0,8cm, 1,6±1,4cm, 1,2±0,6cm. Ở cầu  não  là  1,9±1,4cm,  1,4±0,7cm,  1,1±1cm.  Ở  hành  não 1,6±1cm, 1,2±0,9cm, 0,8±1,5cm; thời gian sau  xạ phẫu càng kéo dài thì kích thước khối u càng  thu nhỏ hơn.  TÀI LIỆU THAM KHẢO  1. De Oliveira JG, Lekovic GP, Safavi‐ Abbasi S, Reis CV, Hanel  RA, Porter RW.  et  al  (2010).:  Suppracerebellar  infratentorial  approach  to  cavernous  malformations  of  the  brainstem:  surgical  vari‐ants  and  clinical  experience  with  45  patients.  Neurosurgery. 66: 389‐399.  2. Fuchs I, Kreil W, Sutter B, Papaethymiou G, Pendl G (2002),  ʺGamma  Knife  radiosurgery  of  brain  stem  glioma”.  Trước ĐT: Yếu ½  người, không tự đi  lại được  Sau ĐT 6 tháng  BN đi lại đaược  Trước ĐT  Sụp mí mắt, lác, tê  bì ½ mặt  Sau ĐT 12 tháng  BN hết sụp mí mắt,  cảm giác tê bì giảm  Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014  Nghiên cứu Y học Mạch Máu Não và Xạ Phẫu  409 Department  of  Neurosurgery,  Karl‐Franzens  University,  Graz, Austria, Acta Neurochir Suppl; 84: 85‐90.  3. Kaplan AM, Albright AL, Zimmerman RA, Rorke LB, Li H,  Boyett  JM,  (1996).  et  al. Brainstem  gliomas  in  children.  A  Childrenʹs  Cancer  Group  review  of  119  cases. Pediatr  Neurosurg. 24(4):185‐92.  4. Kida  Y,  Kobayashi  T, Mori  Y  et  al  (2000),  ʺGamma  knife  radiosurgery for low‐grade astrocytomas: results of long‐term  follow upʺ, J Neurosurg Dec; 93 Suppl 3:42‐6.  5. Landolfi  JC,  Thaler  HT,  DeAngelis  LM.  (1998). Adult  brainstem gliomas. Neurology. 51(4):1136‐9. (Medline).  6. Mai  Trọng  Khoa,  Trần  Đình  Hà,  Lê  Chính  Đại,  Nguyên  Quang Hùng: (2012) “Kết quả điều trị 1200 bệnh nhân u não  và một  số bệnh  lý  sọ não bằng phương pháp xạ phẫu dao  gamma quay tại trung tâm Y học hạt nhân và Ung bướu Bệnh  viện Bạch Mai”. Y học lâm sàng; số chuyên đề hội nghị khoa  học Bệnh viện bạch Mai lần thứ 28, tr 60.  7. Monaco E III, Khan A (2009), Stereotactic radiosurgery for the  treatment  of  symptomatic  brainstem  cavernous  malformations. Department of Neurological Surgery and the  Center  for  Image‐Guided  Neurosurgery,  University  of  Pittsburgh Medical Center, Pittsburgh, Pennsylvania.  8. NAGY G, RaZak A (2010) “Stereotactic radiosurgery for deep‐ seated cavernous malformations: a move toward more active,  early  intervention”  Royal  Hallamshire  Hospital,  Sheffeld,  United Kingdom  9. Porter RW, Detwiler PW, Spetzler RF, Lawton MT, Baskin JJ,  Derksen  PT,  and  Zabramski  JM,  (1999)  Cavernous  malformations of the brainstem: experience with 100 patients.  DOI: 10.3171/jns.1999.90.1.0050.  10. Squires LA, Allen JC, Abbott R, Epstein FJ. (1994). Focal tectal  tumors:  management  and  prognosis. Neurology. 44(5):953‐ 6. (Medline)  Ngày nhận bài báo:       10/10/2014  Ngày phản biện nhận xét bài báo:   27/10/2014  Ngày bài báo được đăng:    5/12/2014 

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfdanh_gia_hieu_qua_dieu_triu_than_nao_bang_dao_gamma_quay_rot.pdf
Tài liệu liên quan