KẾTLUẬN
Từ nghiên cứu áp dụng phương pháp xạ
phẫu bằng RGK cho 50 người bệnh u thân não,
chúng tôi thu được một số kết quả sau:
Trước xạ phẫu
Tuổi trung bình của người bệnh là 32,2; Nữ
chiếm 64%. Vị trí u ở trung não chiếm 32%, cầu
não 48%, hành não 20%. Triệu chứng hay gặp
đau đầu 72%, yếu ½ người 36%, nuốt sặc 20%,
nấc, lác mắt 24%, sụp mí mắt 16%, hội chứng
tiểu não 18%. 2 loại u hay gặp ở thân não là
cavernome chiếm 60% và Gliome chiếm 40%.
Kích thước trung bình khối u ở trung não
2,4±1,2cm, liều xạ phẫu trung bình 14,6±1,8Gy; ở
cầu não là 2,1±0,9cm, liều xạ phẫu trung bình
13,4±2,1Gy;Hành não là 1,8±1,6cm, liều xạ phẫu
trung bình 12,1±3,2Gy.
Sau xạ phẫu
Triệu chứng lâm sàng cải thiện ở tháng thứ 1
sau xạ phẫu và cải thiện tốt từsau tháng thứ 3 trở
đi. Kích thước khối u bắt đầu giảm ở tháng thứ
6, tiếp tục giảm ở tháng thứ 12, và giảm nhiều
hơn nữa ở tháng thứ 24 tương ứng với u vị trí
trung não 2,2±0,8cm, 1,6±1,4cm, 1,2±0,6cm. Ở cầu
não là 1,9±1,4cm, 1,4±0,7cm, 1,1±1cm. Ở hành
não 1,6±1cm, 1,2±0,9cm, 0,8±1,5cm; thời gian sau
xạ phẫu càng kéo dài thì kích thước khối u càng
thu nhỏ hơn.
                
              
                                            
                                
            
 
            
                
7 trang | 
Chia sẻ: hachi492 | Lượt xem: 433 | Lượt tải: 0
              
            Bạn đang xem nội dung tài liệu Đánh giá hiệu quả điều trịu thân não bằng dao Gamma quay (rotating gamma knife) tại bệnh viện Bạch Mai, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014  Nghiên cứu Y học
Mạch Máu Não và Xạ Phẫu  403
ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ ĐIỀU TRỊ U THÂN NÃO BẰNG DAO GAMMA QUAY 
(ROTATING GAMMA KNIFE) TẠI BỆNH VIỆN BẠCH MAI 
Nguyễn Quang Hùng*, Mai Trọng Khoa*, Trần Đình Hà*, Lê Chính Đại* 
TÓM TẮT  
Mục tiêu: Đánh giá kết quả điều trị u thân não bằng dao gamma quay (Rotating Gamma Knife, RGK) tại 
Trung tâm Y học hạt nhân và Ung bướu (YHHN & UB) ‐Bệnh viện Bạch Mai, từ 8/2009 đến 1/2012. 
Đối tượng nghiên cứu: 50 người bệnh được chẩn đoán u thân não có chỉ định xạ phẫu bằng RGK.  
Kết quảnghiên cứu: Tuổi trung bình: 32,2 tuổi, tuổi thấp nhất là 4 tuổi, cao nhất là 58 tuổi. Nam chiếm 
36%, nữ chiếm 64%. 32% u ở vị trí trung não, 48% ở cầu não, 20% ở hành não. Cavernme chiếm 60%, Gliome 
chiếm 40%. Triệu chứng hay gặp đau đầu 72%, yếu ½ người 36%, nấc 24%, lác mắt 24%, nuốt sặc 24%... Kích 
thước khối u ở trung não trung bình 2,4 ± 1,2cm, cầu não 2,1 ± 0,9cm, hành não 1,8 ± 1,6cm. Liều xạ trung bình 
14,6 ± 1,8Gy;13,4 ± 2,1Gy; 12,1 ± 3,2Gy tương ứng với trung não, cầu não, hành não.  
Kết luận: Triệu chứng cơ năng như đau đầu, buồn nôn, nôn, phù gai thị, nấc, nuốt sặc bắt đầu cải thiện 
ở tháng thứ 1 ngay sau điều trị và đáp ứng tốt ở tháng thứ 3, riêng dấu hiệu lác mắt hầu như ít cải thiện sau điều 
trị. Kích thước khối u ở vị trí trung não trước điều trị là 2,4 ± 1,2cm bắt đầu giảm ở tháng thứ 6, 12, 24 tương 
ứng là 2,2 ± 0,8cm; 1,6 ± 1,4cm; 1,2 ± 0,6cm. Ở cầu não trước điều trị là 2,1 ± 0,9cm giảm sau điều trị ở tháng 
thứ 6, 12, 24 tương ứng là 1,9 ± 1,4cm; 1,4 ± 0,7cm; 1,1 ± 1cm. Ở hành não trước điều trị là 1,8 ± 1,6cm giảm 
sau điều trị ở tháng thứ 6, 12, 24 tương ứng là 1,6 ± 1cm; 1,2 ± 0,9cm; 0,8 ± 1,5cm. Biến chứng gặp phải sau xạ 
phẫu: mệt mỏi (38%), rụng tóc (16%), giảm tiết nước bọt (24%), mất ngủ (62%). Các dấu hiệu này hết dần sau 
khi can thiệp thuốc nội khoa. Không có trường hợp nào tử vong sau điều trị. Xạ phẫu bằng RGK cho các người 
bệnh u thân não là phương pháp điều trị an toàn và hiệu quả. 
Từ khóa: U thân não; Dao Gamma quay 
ABSTRACT 
EVALUATE THE RESULT OF TREATING BRAINSTEM TUMOR BY ROTATING GAMMA KNIFE AT 
BACH MAI HOSPITAL 
Nguyen Quang Hung, Mai Trong Khoa, Tran Dinh Ha, Le Chinh Dai 
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 18 ‐ Supplement of No 6‐ 2014: 403 – 409 
Aims: To evaluate the treatment outcomes of treating brainstem tumor by Rotating Gamma Knife (RGK) at 
The Nuclear Medicine and Oncology Center‐Bach Mai hospital, from 8/2009 to1/2012. 
Subjects: 50 patients diagnosed with brainstem tumors and being referred to RGK radiosurgery.  
Results: Average age: 32.2 years old, range from 4 to 58. Males accounted for 36%, females accounted for 
64% of the study population. 32% of these patientstumor  located at mid brain, 48% at pons, 20% at medulla 
oblongata.  Cavernoma  accounted  for  60%,  Glioma  accounted  for  40%.  The most  common  symptoms  were 
headache 72%, weakness of half body 36%, hiccup 24%, etophobia 24%, dysphagia 24%. Mean tumor size at mid 
brain were 2.4±1.2cm, pons 2.1±0.9cm, medulla oblongata: 1.8±1.6cm. Mean radiation therapy were 14.6±1.8Gy; 
13.4±2.1Gy; 12.1±3.2Gy in corresponding to mid brain, pons, medulla oblongata, respectively.  
* Bệnh viện Bạch Mai 
Tác giả liên lạc:ThS.BS. Nguyễn Quang Hùng; ĐT: 0909572686; Email:nguyenquanghungbvbm2013@gmail.com
Nghiên cứu Y học  Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014
Chuyên Đề Phẫu Thuật Thần Kinh 404 
Conclusions: Clinical symptoms such as headache, nausea, vomiting, papilledema, hiccup, choke started 
to decreased  from 1st month  after RGK  and have good  response  since 3rd month,exception  of  etophobia which 
stayed still. Average tumor size at mid brain before treatment was 2.4±1.2cm and started to reduce from 6th, 12th, 
24th month with 2.2±0.8cm; 1.6±1.4cm; 1.2±0.6cm, respectively. Pretreatment average size of pons tumors was 
2.1±0.9cmand  started  to  reduce  from  6th,  12th,  24th month with  1.9±1.4cm;  1.4±0.7cm;  1.1±1cm,  respectively. 
Pretreatment median size of medulla oblongata tumor was 1.8± 1.6 and started to reduce from 6th, 12th, 24th month 
with 1.6±1cm; 1.2±0.9cm; 0.8±1.5cm, respectively. Adverse events occured after radiosurgery: fatigueness (38%), 
hair  loss  (16%),  reduced  salivary  secretion  (24%),  insomnia  (62%). These adverse  effects decreased gradually 
after treated by internal medicine. There were no death due to RGK radiosurgery. RGK radiosurgery is a safe and 
effective option for brainstem tumors. 
Keyword: Brainstem tumor; Rotating Gamma Knife (RGK) 
ĐẶT VẤN ĐỀ 
U não là thuật ngữ thường dùng có tính quy 
ước để chỉ các u trong sọ, bệnh xuất hiện trong 
hệ thống thần kinh trung ương và có thể gặp ở 
bất cứ vị  trí nào  trong não. Tuy nhiên người  ta 
đặc biệt quan tâm với những u nằm ở những vị 
trí đặc biệt trong não như ở trung não, cầu não 
và hành não. Đó chính  là những u thân não và 
có  ảnh  hưởng  trực  tiếp  tới  các  chức  năng  vận 
động,  hô  hấp,  tuần  hoàn  của  cơ  thể.  Những 
người bệnh có u ở thân não, tiên  lượng thường 
rất xấu, điều trị khó khăn, bệnh tiến triển nhanh, 
thời gian sống ngắn, tỉ lệ tử vong cao. Ở những 
thập niên trước, điều trị u thân não gặp rất nhiều 
khó khăn. Phẫu thuật mở hộp sọ ít được chỉ định 
do tỷ lệ tai biến cao; điều trị nội khoa chỉ mang 
tính  chất  cải  thiện  triệu  chứng  tạm  thời;  xạ  trị 
chiếu ngoài không phát huy được hết  tác dụng 
vì  khối  u  thân  não  ở  vị  trí  sâu,  nguy  hiểm, 
trường chiếu xạ rộng khả năng tập trung liều xạ 
vào tổn thương thấp.  
Ngày nay, sự xuất hiện của nhiều hệ  thống 
xạ phẫu bằng dao Gamma  (Gamma knife)  đặc 
biệt  là RGK đã giúp điều  trị cho người bệnh u 
thân não hiệu quả và an toàn, từ đó góp phần cải 
thiện chất lượng cuộc sống và kéo dài thời gian 
sống cho người bệnh.  
Ở Việt Nam, Trung tâm YHHN & UB ‐ Bệnh 
viện  Bạch Mai  đã  ứng  dụng  phương  pháp  xạ 
phẫu bằng RGK để điều trị người bệnh u não và 
bệnh  lý  sọ  não,  trong  đó  có  khá  nhiều  người 
bệnh u thân não. Vì vậy, chúng tôi tiến hành đề 
tài này nhằm mục đích: “Đánh giá hiệu quả điều 
trị u thân não bằng phương pháp xạ phẫu bằng dao 
gamma quay tại Trung tâm YHHN & UB, Bệnh viện 
Bạch Mai”. 
ĐỐI TƯỢNG ‐ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 
Đối tượng nghiên cứu 
Các người bệnh u thân não nguyên phát có 
chỉ định xạ phẫu bằng RGK. 
Phương pháp nghiên cứu 
Nghiên cứu mô tả có theo dõi dọc 
Thiết kế nghiên cứu 
Những  người  bệnh  có  đủ  các  tiêu  chuẩn 
nghiên cứu sẽ được chọn vào nghiên cứu. Thu 
thập số liệu theo mẫu bệnh án nghiên cứu thống 
nhất. 
Đánh giá kết quả nghiên cứu 
Tất  cả  các người bệnh  được  chẩn  đoán xác 
định u thân não, có chỉ định xạ phẫu bằng RGK, 
được đánh giá các triệu chứng lâm sàng, cận lâm 
sàng  trước và  sau  xạ phẫu  1  tháng,  3  tháng,  6 
tháng, 12 tháng, 24 tháng, 36 tháng.cụ thể là: 
‐ Đánh giá các triệu chứng cơ năng, các thay 
đổi lâm sàng, cận lâm sàng trước và sau xạ phẫu. 
‐ Đánh giá sự thay đổi hình ảnh của khối u 
theo tiêu chuẩn RECIST. 
Thiết bị sử dụng và quy trình xạ phẫu  
Thiết bị sử dụng  
Hệ  thống  RGK do  Hoa  Kỳ  sản  xuất  năm 
2007 bao gồm:  
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014  Nghiên cứu Y học
Mạch Máu Não và Xạ Phẫu  405
‐ Hệ thống collimator quay  
‐ Hệ thống định vị đầu người bệnh tự động 
APS (automatic positioning systems).  
‐ Hệ thống phần mềm lập kế hoạch AGRS(. 
‐ Hệ thống chụp mô phỏng: CT, MRI, DSA, 
MSCT với định vị laser ba chiều. 
Quy trình xạ phẫu 
Xử lý số liệu 
Kết quả nghiên cứu được xử lý theo chương 
trình SPSS 16.0.  
KẾT QUẢ VÀ BÀN LUẬN 
Dao gamma đầu tiên do Lars Leksell (người 
Thuỵ Điển) phát minh vào năm 1968 để điều trị 
một số bệnh  lý sọ não. Nguyên  lý của phương 
pháp  là sử dụng nhiều chùm  tia gamma hội  tụ 
tại một  điểm  (vị  trí  tổn  thương)  làm  tăng  liều 
phóng xạ tại điểm đó để phá huỷ mô tổn thương 
nằm  sâu  trong  não mà  không  gây  chảy máu, 
nhiễm trùng, ít gây tổn thương các tổ chức lành 
xung  quanh.  Phương  tiện  này  giúp  loại  bỏ  tổ 
chức  bệnh  lý  trong  não  mà  không  cần  phẫu 
thuật mở hộp sọ, mang lại rất nhiều lợi ích và an 
toàn cho người bệnh và xã hội.  
Tuổi và giới  
Nghiên cứu được tiến hành từ tháng 8/2009 ‐ 
1/2012 chúng tôi đã điều trị cho 50 người bệnh u 
thân não trong đó: Tuổi thấp nhất là 4 tuổi, cao 
nhất là 58 tuổi, tuổi trung bình là 32,2 tuổi; tuổi 
hay gặp nhất là ở 2 nhóm tuổi <15 và 45‐60; Nam 
chiếm tỷ lệ 36%, nữ chiếm 64%. Edward A. và cs 
đã nghiên  cứu  68 người  bệnh  cavernome  thân 
não:  tuổi  trung bình 41,2  tuổi; nam chiếm 50%, 
nữ  chiếm  (50%)(7).  Theo GÁBOR NAGY  và  cs 
nghiên  cứu 113 người bệnh u não  trong  đó 79 
người bệnh u thân não cho thấy tuổi trung bình 
là 34 tuổi, tuổi thấp nhất là 5 tuổi, cao nhất là 69 
tuổi(8). Đối với phương pháp xạ phẫu bằng dao 
gamma  thì  yếu  tố  tuổi  là  rất  quan  trọng.  Rất 
nhiều người bệnh nhi có tuổi thấp không thể tiến 
hành được bằng kỹ thuật này. Kỹ thuật xạ phẫu 
bằng  RGK  ra  đời  cho  phép  tiến  hành  được  ở 
những  người  bệnh  có  tuổi  nhỏ  hơn  mà  các 
phương pháp khác không tiến hành được. Trong 
nghiên  cứu  của  chúng  tôi,  tuổi  thấp  nhất  là  4 
tuổi và ở nước  ta  từ  trước chưa có người bệnh 
nào  được  xạ phẫu  ở  lứa  tuổi  này. Do  đó,  đây 
cũng thể hiện tính ưu việt của phương pháp xạ 
phẫu bằng RGK. Trong nghiên cứu này, chúng 
tôi mới chỉ gặp một người bệnh ở độ tuổi 58 có u 
ở  vị  trí  thân  não.  Tuy  nhiên,  nghiên  cứu  1200 
người  bệnh  u  não  và một  số  bệnh  lý  sọ  não, 
chúng tôi đã tiến hành xạ phẫu bằng RGK thành 
công an toàn và hiệu quả cho mọi lứa tuổi từ 4‐
91  tuổi(6). Ở độ  tuổi nhỏ hơn hay cao  tuổi hơn 
trong xạ phẫu  chúng  tôi phối hợp với  tiền mê 
tĩnh mạch hoặc gây mê nội khí quản. 
Đặc điểm tổn thương  
Chúng tôi tiến hành xạ phẫu bằng RGK cho 
50 người bệnh u thân não thì có 16 người bệnh u 
trung não chiếm 32%, 24 người bệnh u cầu não 
chiếm  48%,  10  người  bệnh  u  hành  não  chiếm 
20%. (Biểu đồ1). 
Biểu đồ1: Phân loại hình thái u dựa theo vị trí 
giải phẫu 
Nghiên  cứu  của Randall W  và  cs  cho  thấy 
trong  tổng  số  100 người  bệnh  cavernome  thân 
não  thì  có  tới  39  người  bệnh  có  u  ở  cầu  não 
(39%),  16  người  bệnh  u  hành  não  (16%),  16 
người bệnh u trung não (16%), nam chiếm tỷ lệ 
38%,  nữ  62%(9). Theo GÁBOR NAGY  được  xạ 
phẫu  bằng  dao  gamma  cho  79  người  bệnh 
cavernome thân não trong đó u ở vị trí hành não 
4 trường hợp chiếm 5%, cầu hành não 13 trường 
hợp  (16%),  cầu  não  30  người  bệnh  (38%),  cầu 
cuống đại não 8 trường hợp (10%), trung não 18 
trường  hợp  (22,5%)(8).  Landolfi  và  cs  xạ  phẫu 
32%
48%
20% Trung não (n=16)
Cầu não (n=24)
Hành não (n=10)
Nghiên cứu Y học  Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014
Chuyên Đề Phẫu Thuật Thần Kinh 406 
cho 19 người bệnh Gliome thân não trong đó 13 
trường hợp ở cầu não chiếm 68,4%; 4 trường hợp 
ở  hành  não  chiếm  21%,  2  trường  hợp  ở  trung 
não chiếm 10,5%(5). Qua nghiên cứu của một số 
tác  giả  chúng  tôi  nhận  thấy  u  thân  não 
(Cavernome và Gliome) chủ yếu gặp ở vị trí cầu 
não.Kết quả nghiên cứu của các tác giả này cũng 
tương tự như nghiên cứu của chúng tôi. 
Các  dấu  hiệu  lâm  sàng  như  đau  đầu,  nấc, 
nuốt  sặc, nôn và buồn nôn, phù gai  thị, yếu ½ 
người... cải thiện ngay sau điều trị ở tháng thư 1 
và  cải  thiện  rất  tốt  ở  tháng  thứ  6  trở  đi.  Tuy 
nhiên ở tháng thứ 3 dấu hiệu lâm sàng có chiều 
hướng cải thiện ít, thậm trí một số người bệnh có 
một  vài  triệu  chứng  còn  nặng  hơn. Giải  thích 
vấn đề này chúng  tôi đã  tiến hành  thăm khám 
kỹ  và  chụp  cộng  hưởng  từ  cho  tất  các  người 
bệnh  được  xạ  phẫu  sau  3  tháng  cho  thấy  20 
người  bệnh  được  chẩn  đoán  là gliome  có  kích 
thước khối u tăng hơn so với trước điều trị và có 
phù não xung quanh, 30 người bệnh được chẩn 
đoán là cavernome không có dấu hiệu tăng kích 
thước khối u và phù não xung quanh. Điều đó 
cho  thấy  rằng khả năng  đáp  ứng  sau  xạ phẫu 
không  chỉ  phụ  thuộc  vào  liều  điều  trị mà  còn 
phụ  thuộc  đáng  kể  vào  bản  chất,  tính  chất  và 
kích thước khối u (Biểu đồ2). 
Biểu đồ2: Thay đổi triệu chứng lâm sàng theo thời gian 
Nghiên cứu của De Oliveira JG và cs với 45 
người bệnh thì triệu chứng cơ năng bắt đầu cải 
thiện ngay ở tháng thứ 1 sau xạ phẫu đến tháng 
thứ 6 thì các dấu hiệu này cải thiện đáng kể. Tuy 
nhiên  tác giả không đề cập đến kết quả nghiên 
cứu ở tháng thứ 3, nhưng tác giả cũng đưa ra tỷ 
lệ phù não sau xạ phẫu ở tháng thứ 6 là 40%(1). 
Một khuyến cáo đưa ra cho những người bệnh u 
thân não sau xạ phẫu là phải thăm khám định kỳ 
và thường xuyên kết hợp điều trị nội khoa. 
50 người bệnh được tiến hành đo kích thước 
tổn  thương  đánh  giá  theo  tiêu  chuẩn  RECIST 
trong đó đối với u ở vị trí trung não kích thước 
nhỏ nhất là 1,1cm, lớn nhất 3cm, kíchthước trung 
bình  2,4±1,2cm,  liều  xạ  phẫu  trung  bình 
14,6±1,8cm;  u  ở  cầu  não  kích  thước  nhỏ  nhất 
0,8cm,  lớn nhất 3cm,  trung bình 2,1±0,9cm,  liều 
xạ  phẫu  trung  bình  13,4±2,1cm; U  ở  hành  não 
kích thước nhỏ nhất 0,6cm, lớn nhất 2,8cm, trung 
bình  1,8±1,6cm,  liều  xạ  phẫu  trung  bình 
12,1±3,2cm. Sau xạ phẫu kích  thước  trung bình 
của khối u  tăng hơn  ở  tháng  thứ 3 và bắt  đầu 
giảm ở tháng thứ 6, giảm mạnh ở tháng thứ 24.  
-10
0
10
20
30
40
50
60
70
80
Trước ĐT 1tháng 3tháng 6 tháng 12 tháng 24 tháng
Đau đầu
Buồn nôn, nôn
Phù gai thị
Rối loạn ý thức
Nấc
Nuốt sặc
Lác mắt
Sụp mí mắt
Khó thở
Khó nói
Yếu 1/2 người
Liệt 1/2 người
Yếu 2 chi dưới
HC tiểu não
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014  Nghiên cứu Y học
Mạch Máu Não và Xạ Phẫu  407
Biểu đồ3: Thay đổi kích thước khối u (cm) trước và sau điều trị 
Theo Edward A  trong nghiên cứu 68 người 
bệnh u thân não được xạ phẫu bằng dao gamma 
cổ điển: kích thước khối u trung bình 1,3cm, liều 
xạ phẫu trung bình 15,84 Gy(7). Theo Fuchs I và 
cs nghiên cứu từ năm 1992 – 1999 cho 21 gliome 
thân  não  được  xạ  phẫu  bằng  dao  gamma  cổ 
điển:  tuổi  trung  bình  là  23  tuổi,  nhỏ  nhất  là  8 
tuổi, lớn nhất là 56 tuổi. Trong đó 2 trường hợp 
u hành não, 12  là u ở cầu não, 7 u ở trung não. 
Liều  điều  trị  trung  bình  12Gy,  thấp  nhất  9Gy, 
cao nhất 20Gy. Thời gian theo dõi trung bình 29 
tháng  (3‐99  tháng). Kiểm  soát  được  bệnh  ở  10 
người bệnh, tái phát ở 2 người bệnh. Các tác giả 
đã đi đến kết luận là xạ phẫu bằng dao Gamma 
là phương pháp điều trị an toàn và hiệu quả(2).  
Kida Y và cs đã nghiên cứu 51 người bệnh u 
tế bào hình sao bậc  thấp được điều  trị với dao 
gamma cổ điển (Gamma knife) và  theo dõi sau 
xạ phẫu hơn 24 tháng. Trong đó 12 người bệnh 
là u tế bào sao bậc I, 39 người bệnh còn lại u tế 
bào  sao  bậc  II.  Ở  nhóm  u  tế  bào  sao  bậc  I 
(astrocytoma Grade I), tuổi trung bình là 9,8 tuổi, 
đường kính trung bình khối u là 25,4mm, liều xạ 
phẫu trung bình 12,5Gy. Nhóm u tế bào sao bậc 
II (astrocytoma Grade II): tuổi trung bình là 30,9 
tuổi, đường kính  trung bình khối u  là 23,7mm, 
liều  trung  bình  là  15,7Gy.  Thời  gian  theo  dõi 
trung bình là 27,6 tháng. Tỷ lệ đáp ứng với u tế 
bào  sao bậc  I  là 50%,  tỷ  lệ kiểm  soát khối u  là 
91,7%. Đối với u tế bào sao bậc II: tỷ lệ đáp ứng 
là 46,2% và tỷ lệ kiểm soát khối u là 87,2%. Các 
tác giả kết  luận xạ phẫu đóng một vai trò quan 
trọng  trong  việc  điều  trị  các  u  tế  bào  sao  bậc 
thấp,  thậm  chí một  số  trường  hợp  còn  có  thể 
khỏi hoàn toàn(4). 
Chúng  tôi  xạ  phẫu  bằng RGK  và  theo  dõi 
cho 50 người bệnh u thân não trong vòng 2 năm, 
khám  định  kỳ  1  tháng,  3  tháng,  6  tháng,  12 
tháng, 24 tháng , đánh giá bilan và chụp cộng 
hưởng từ có tiêm thuốc đối quang từ, đo đường 
kính khối u  theo  tiêu  chuẩn RECIST. Đánh giá 
đáp ứng khối u  theo vị  trí  (trung não, cầu não, 
hành não),  theo bản chất  (Cavernome, Gliome). 
Tiêu chuẩn lựa chọn đường kích khối u trước xạ 
phẫu ≤ 3cm, sau xạ phẫu bằng RGK khối u được 
kiểm  soát hoàn  toàn,  thời gian  theo dõi  sau xạ 
phẫu càng lâu thì kích thước khối u có xu hướng 
ngày càng nhỏ lại. Chứng tỏ xạ phẫu bằng RGK 
là phương pháp sử dụng bức xạ năng lượng từ 
nguồn Co‐60  tác động, phá hủy  tới khối u một 
cách từ từ đảm bảo tiêu diệt được khối u mà vẫn 
bảo vệ được các mô não  lành xung quanh, khả 
năng xuất  liều không đe dọa tính mạng và ảnh 
hưởng tới môi trường xung quanh.  
2.4
2.6
2.2
1.6
1.2
2.1 2.2
1.9
1.4
1.1
1.8 1.9
1.6
1.2
0.8
0
0.5
1
1.5
2
2.5
3
Trước điều trị Sau 3tháng Sau 6tháng Sau 12tháng Sau 24tháng
Trung não
Cầu não
Hành não
cm
Nghiên cứu Y học  Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014
Chuyên Đề Phẫu Thuật Thần Kinh 408 
Theo  Kaplan  và  cs  nghiên  cứu  119  người 
bệnh  xạ  phẫu  bằng  dao  gamma  cổ  điển  cho 
Gliome thân não cho thấy 37% sống 1 năm, 20% 
sống sau 2 năm, 13% sống sau 3 năm(3). Squire 
và  cs  xạ phẫu  cho  12 người bệnh u  trung não 
thời  gian  sống  trung  bình  hơn  50  tháng(10). 
Landofil và cs nghiên cứu 19 người bệnh gliome 
thân  não  thì  thời  gian  sống  trung  bình  là  54 
tháng, sống sau 5 năm chiếm 45%(5). 
Từ những nghiên cứu trên cho thấy, chúng 
tôi sử dụng máy xạ phẫu RGK điều trị cho 50 
người bệnh u thân não, kết quả kiểm soát tình 
trạng  khối u  cao  hơn,  an  toàn  hơn, mang  lại 
hiệu quả và chất lượng sống tốt hơn cho người 
bệnh.  Đó  chính  là  ưu  việt  mang  lại  của  hệ 
thống xạ phẫu bằng RGK so với hệ thống dao 
gamma khác. 
Một số trường hợp lâm sàng 
1. BN Hồ. V.Th. 46 tuổi (Cavernome) 
2.  BN  Đinh.  Th.  V.  42  tuổi  (Gliome)
KẾT LUẬN  
Từ  nghiên  cứu  áp  dụng  phương  pháp  xạ 
phẫu bằng RGK cho 50 người bệnh u thân não, 
chúng tôi thu được một số kết quả sau: 
Trước xạ phẫu  
Tuổi trung bình của người bệnh  là 32,2; Nữ 
chiếm 64%. Vị trí u ở trung não chiếm 32%, cầu 
não  48%, hành não  20%. Triệu  chứng hay  gặp 
đau đầu 72%, yếu ½ người 36%, nuốt sặc 20%, 
nấc,  lác mắt  24%,  sụp mí mắt  16%,  hội  chứng 
tiểu  não  18%.  2  loại  u  hay  gặp  ở  thân  não  là 
cavernome  chiếm  60%  và  Gliome  chiếm  40%. 
Kích  thước  trung  bình  khối  u  ở  trung  não 
2,4±1,2cm, liều xạ phẫu trung bình 14,6±1,8Gy; ở 
cầu  não  là  2,1±0,9cm,  liều  xạ  phẫu  trung  bình 
13,4±2,1Gy;Hành não  là 1,8±1,6cm,  liều xạ phẫu 
trung bình 12,1±3,2Gy. 
Sau xạ phẫu 
Triệu chứng lâm sàng cải thiện ở tháng thứ 1 
sau xạ phẫu và cải thiện tốt từsau tháng thứ 3 trở 
đi. Kích thước khối u bắt đầu giảm ở tháng thứ 
6,  tiếp  tục giảm  ở  tháng  thứ 12, và giảm nhiều 
hơn nữa ở  tháng  thứ 24  tương ứng với u vị  trí 
trung não 2,2±0,8cm, 1,6±1,4cm, 1,2±0,6cm. Ở cầu 
não  là  1,9±1,4cm,  1,4±0,7cm,  1,1±1cm.  Ở  hành 
não 1,6±1cm, 1,2±0,9cm, 0,8±1,5cm; thời gian sau 
xạ phẫu càng kéo dài thì kích thước khối u càng 
thu nhỏ hơn. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. De Oliveira JG, Lekovic GP, Safavi‐ Abbasi S, Reis CV, Hanel 
RA, Porter RW.  et  al  (2010).:  Suppracerebellar  infratentorial 
approach  to  cavernous  malformations  of  the  brainstem: 
surgical  vari‐ants  and  clinical  experience  with  45  patients. 
Neurosurgery. 66: 389‐399. 
2. Fuchs I, Kreil W, Sutter B, Papaethymiou G, Pendl G (2002), 
ʺGamma  Knife  radiosurgery  of  brain  stem  glioma”. 
Trước ĐT: Yếu ½ 
người, không tự đi 
lại được 
Sau ĐT 6 tháng 
BN đi lại đaược 
Trước ĐT 
Sụp mí mắt, lác, tê 
bì ½ mặt 
Sau ĐT 12 tháng 
BN hết sụp mí mắt, 
cảm giác tê bì giảm 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014  Nghiên cứu Y học
Mạch Máu Não và Xạ Phẫu  409
Department  of  Neurosurgery,  Karl‐Franzens  University, 
Graz, Austria, Acta Neurochir Suppl; 84: 85‐90. 
3. Kaplan AM, Albright AL, Zimmerman RA, Rorke LB, Li H, 
Boyett  JM,  (1996).  et  al. Brainstem  gliomas  in  children.  A 
Childrenʹs  Cancer  Group  review  of  119  cases. Pediatr 
Neurosurg. 24(4):185‐92. 
4. Kida  Y,  Kobayashi  T, Mori  Y  et  al  (2000),  ʺGamma  knife 
radiosurgery for low‐grade astrocytomas: results of long‐term 
follow upʺ, J Neurosurg Dec; 93 Suppl 3:42‐6. 
5. Landolfi  JC,  Thaler  HT,  DeAngelis  LM.  (1998). Adult 
brainstem gliomas. Neurology. 51(4):1136‐9. (Medline). 
6. Mai  Trọng  Khoa,  Trần  Đình  Hà,  Lê  Chính  Đại,  Nguyên 
Quang Hùng: (2012) “Kết quả điều trị 1200 bệnh nhân u não 
và một  số bệnh  lý  sọ não bằng phương pháp xạ phẫu dao 
gamma quay tại trung tâm Y học hạt nhân và Ung bướu Bệnh 
viện Bạch Mai”. Y học lâm sàng; số chuyên đề hội nghị khoa 
học Bệnh viện bạch Mai lần thứ 28, tr 60. 
7. Monaco E III, Khan A (2009), Stereotactic radiosurgery for the 
treatment  of  symptomatic  brainstem  cavernous 
malformations. Department of Neurological Surgery and the 
Center  for  Image‐Guided  Neurosurgery,  University  of 
Pittsburgh Medical Center, Pittsburgh, Pennsylvania. 
8. NAGY G, RaZak A (2010) “Stereotactic radiosurgery for deep‐
seated cavernous malformations: a move toward more active, 
early  intervention”  Royal  Hallamshire  Hospital,  Sheffeld, 
United Kingdom 
9. Porter RW, Detwiler PW, Spetzler RF, Lawton MT, Baskin JJ, 
Derksen  PT,  and  Zabramski  JM,  (1999)  Cavernous 
malformations of the brainstem: experience with 100 patients. 
DOI: 10.3171/jns.1999.90.1.0050. 
10. Squires LA, Allen JC, Abbott R, Epstein FJ. (1994). Focal tectal 
tumors:  management  and  prognosis. Neurology. 44(5):953‐
6. (Medline) 
Ngày nhận bài báo:       10/10/2014 
Ngày phản biện nhận xét bài báo:   27/10/2014 
Ngày bài báo được đăng:    5/12/2014 
            Các file đính kèm theo tài liệu này:
danh_gia_hieu_qua_dieu_triu_than_nao_bang_dao_gamma_quay_rot.pdf