KẾT LUẬN
Tóm lại, so với các nghiên cứu khác, số
lượng bệnh nhân trong mẫu của chúng tôi ít
hơn. Do đó, kết quả các tai biến và biến chứng từ
bằng đến thấp hơn. Đây là hạn chế trong nghiên
cứu của chúng tôi. Mặc dù vậy, qua nghiên cứu,
chúng tôi rút ra một số nhận xét sau:
- Phương pháp gây mê toàn diện bằng mask
thanh quản Proseal là thích hợp cho phẫu thuật
cấp cứu vùng bụng, các phẫu thuật có thời gian
kéo dài, những bệnh nhân đã nhịn ăn uống
trước mổ ít nhất 4 giờ.
- Mask thanh quản Proseal có kỹ thuật đặt
đơn giản, hiệu quả thông khí cao, ít gây biến đổi
mạch, huyết áp.
- Các tai biến và biến chứng khi sử dụng
mask thanh quản Proseal ít hơn so với nội khí
quản.
- Nguy cơ trào ngược và hít sặc có khả năng
xảy ra, cần phòng ngừa và chuẩn bị bệnh nhân
trước mổ tốt. Nếu nghi ngờ bệnh nhân có dạ dày
đầy thì tốt hơn là nên đặt nội khí quản.
Nhìn chung, sử dụng Mask thanh quản
Proseal có tính an toàn và hiệu quả cao, có thể
dùng thay thế ống nội khí quản trong đa số các
trường hợp.
9 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 07/02/2022 | Lượt xem: 166 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đánh giá hiệu quả Mask thanh quản Proseal trong phẫu thuật cấp cứu, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 13 * Phụ bản của Số 1 * 2009 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Nội Khoa 1
ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ MASK THANH QUẢN PROSEAL
TRONG PHẪU THUẬT CẤP CỨU
Nguyễn Văn Chừng*, Nguyễn Văn Sách**, Trương Triều Phong**
TÓM TẮT
Mục tiêu: So sánh hiệu quả thông khí, tính ổn định huyết động và các tai biến giữa mask thanh quản Proseal
(PLMA) và nội khí quản (NKQ).
Phương pháp nghiên cứu: nghiên cứu tiền cứu trên 60 bệnh nhân, ASA I và II. Các bệnh nhân được chia
ngẫu nhiên vào hai nhóm PLMA và NKQ. Thu thập các số liệu về mạch, huyết áp tâm thu, huyết áp tâm trương
và SpO2 trong và sau gây mê.
Kết quả: tỉ lệ đặt PLMA thành công sau lầu đặt đầu tiên là 93,33%, thời gian đặt PLMA trung bình: 25,33
giây. Các chỉ số về thông khí và huyết động giữa hai nhóm sau khi đặt PLMA và NKQ một phút có sự khác
nhau, có sự gia tăng mạch, huyết áp tâm thu, huyết áp tâm trương ở nhóm NKQ cón nhóm PLMA thì không có
sự gia tăng này; không có sự khác biệt về hiệu quả thông khí ở hai nhóm.
Kết luận: nhóm PLMA ổn định huyết động hơn nhóm NKQ, hiệu quả thông khí ở hai nhóm như nhau.
ABSTRACT
EVALUATION OF EFFECTS OF PROSEAL LARYNGEAL MASK AIRWAY
IN EMERGENCY SURGERY
Nguyen Van Chung, Nguyen Van Sach, Truong Trieu Phong
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 13 - Supplement of No 1 - 2009: 461 - 467
Objectives: To compare proseal lagynreal mask airway (PLMA) with endotracheal tube (ETT) with respect
to pulmonary ventilation, hemodynamic stabilization and accidents.
Methods: A prospective study, sixty ASA I-II patients scheduled for emergency surgery were randomly
assigned to PLMA group or ETT group. Pulse rate (PR), systolic blood pressure (SBP), diastolic blood pressure
(DBP) and SpO2 were recorded during and after anesthesia.
Results: Successful rate in first attempt by digital insertion technique was 93.33%. Time to achieve airway
control was 25.33 sec. PR, SBP, DBP were increased in ETT group but in PLMA group was not. Pulmonary
ventilation wasn’t differed in two groups.
Conclusion: Pulmonary ventilation in PLMA group is as equal as ETT group, but the use of the PLMA for
emergency surgery during general anesthesia result in smaller hemodynamic chance than ETT
ĐẶT VẤN ĐỀ
Trong gây mê phẫu thuật, đảm bảo thông
khí tốt là vấn đề hết sức quan trọng. Gây mê nội
khí quản là phương pháp kiểm soát hô hấp hữu
hiệu và chắc chắn. Tuy nhiên, việc đặt nội khí
quản (NKQ) cũng làm tăng mạch, huyết áp
(HA), đau họng, nuốt đau, khàn tiếng.
Năm 2000, Archie Brain thiết kế mask
thanh quản Proseal (PLMA: Proseal Laryngeal
Mask Airway). PLMA giúp giải quyết được
những khó khăn khi đặt NKQ, tránh tăng áp
lực dạ dày, phòng ngừa hít sặc, chịu được áp
lực cao khi thông khí áp lực dương, kiểm soát
hô hấp tốt hơn.
Những nghiên cứu của các tác giả trong và
ngoài nước đã cho thấy tính an toàn và hiệu quả
* Đại học Y Dược Tp. Hồ Chí Minh ** Bệnh viện đa khoa trung tâm An Giang
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 13 * Phụ bản của Số 1 * 2009 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Nội Khoa 2
của PLMA trong các phẫu thuật chương trình
như nội soi cắt túi mật, nội soi tiết niệu.
Đối với những trường hợp phẫu thuật cấp
cứu, khi thời gian chuẩn bị bệnh nhân chưa
được hoàn chỉnh thì PLMA có hiệu quả như thế
nào? tính an toàn của nó ra sao? Vấn đề này vẫn
chưa thấy đề cập tới.
Vì vậy, chúng tôi nghiên cứu đề tài này với
mục tiêu: Khảo sát tính an toàn và hiệu quả của
PLMA so với NKQ trong phẫu thuật cấp cứu tại
Bệnh viện Đa khoa Trung tâm An Giang.
Mục tiêu nghiên cứu
Mục tiêu tổng quát
Khảo sát tính an toàn và hiệu quả của PLMA
so với NKQ trong phẫu thuật cấp cứu tại Bệnh
viện Đa khoa Trung tâm An Giang.
Mục tiêu chuyên biệt
- Đánh giá hiệu quả thông khí qua chỉ số
SpO2.
- Khảo sát thay đổi mạch, huyết áp tâm thu
(HATT), huyết áp tâm trương(HATTr).
- Khảo sát các tai biến, biến chứng như trào
ngược, chấn thương, chảy máu vùng răng -
miệng, đau họng, khàn tiếng, kích thích khi rút
PLMA, NKQ.
ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Đối tượng nghiên cứu
Tiêu chuẩn chọn bệnh
Bệnh nhân trên 16 tuổi, ASA I và II và có chỉ
định phẫu thuật:
Viêm ruột thừa
Xuất huyết nội do vỡ lách, thai ngoài tử cung
Chấn thương chi gồm: gãy xương; đứt mạch
máu, thần kinh, gân
U nang buồng trứng xoắn.
Bệnh nhân nhịn ăn uống ít nhất 6 giờ trước
mổ.
Tiêu chuẩn loại trừ
Chống chỉ định đặt mask thanh quản(34812):
Bệnh nhân có thai trên 14 tuần; chấn thương
vùng hàm mặt, độ mở miệng <2cm; khối u vùng
hầu họng; tiền sử trào ngược dạ dày thực quản;
dạ dầy đầy; béo phì (BMI trên 35 kg/m2).
Phương pháp nghiên cứu
Thiết kế nghiên cứu
Thử nghiệm lâm sàng ngẫu nhiên có đối
chứng
Cỡ mẫu
60 bệnh nhân được phân ngẫu nhiên thành 2
nhóm
Nhóm PLMA: 30 bệnh nhân được gây mê
toàn diện với PLMA.
Nhóm NKQ: 30 bệnh nhân được gây mê
toàn diện với NKQ.
Phương thức thực hiện
Bệnh nhân thăm khám, kiểm tra hồ sơ bệnh
án, các xét nghiệm thường qui, đánh giá ASA,
Mallampati trước khi phẫu thuật.
Tiền mê: Midazolam: 0,05mg/kg; Fentanyl: 2
– 3mcg/kg.
Khởi mê: bệnh nhân thở O2 trước khi khởi
mê, Propofol 2 – 2,5mg/kg; Rocuronium:
0,6mg/kg.
Khi đủ thuốc dãn cơ đủ thời gian tác dụng,
tiến hành đặt NKQ hoặc PLMA bằng phương
pháp ngón tay trỏ.
Duy trì mê
O2 và Isofluran
Thêm Fentanyl và Rocuronium (nếu cần)
Tiêu chuẩn rút NKQ, PLMA: bệnh nhân
tỉnh, thở sâu và đều, tần số thở trên 12 lần/phút,
SpO2 trên 95%.
Thu thập các chỉ số
Ghi nhận các chỉ số về mạch, HATT, HATTr,
SpO2 trước khi đặt PLMA hoặc NKQ; sau khi
đặt 1 phút và mỗi 5 – 10 phút trong lúc duy trì
mê; lúc bệnh nhân tỉnh.
Các tai biến, biến chứng như co thắt thanh
quản, đau họng, khàn tiếng trong và sau khi
gây mê.
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 13 * Phụ bản của Số 1 * 2009 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Nội Khoa 3
Xử lý số liệu
Số liệu được xử lý bằng phần mềm SPSS 13.0
for Windows.
Sử dụng phép kiểm Chi-square để so sánh
các tỷ lệ, phép kiểm t để so sánh các số trung
bình. Giá trị p < 0,05 được xem là có ý nghĩa
thống kê.
KẾT QUẢ
Từ tháng 6/2008 đến tháng 9/2008, tại khoa
Phẫu thuật Gây mê Hồi sức Bệnh viện Đa khoa
Trung tâm An Giang, chúng tôi tiến hành gây
mê phẫu thuật cấp cứu cho 60 bệnh nhân bằng
phương pháp gây mê toàn diện qua PLMA hoặc
NKQ và đã thu được kết quả như sau:
Đặc điểm chung của bệnh nhân
Tuổi, BMI
Bảng 1: Đặc điểm chung của bệnh nhân
Nhóm Đặc điểm chung
BN PLMA NKQ P
Tuổi trung bình 39,13± 16,41 43,10 ± 17,79 0,373
BMI (Kg/m2) 21,42± 2,887 21,53 ± 2,992 0,88
Nữ 17 (56,7%) 18 (60%) Giới
Nam 13 (43,3%) 12(40%) 0,793
I 15 (50%) 11 (36,7%) ASA
II 15 (50%) 19 (63,3%) 0,297
VRT 23 (76,7%) 24 (80%) Phẫu
thuật Khác 7 (23,3%) 6 (20%) 0,754
I 8 (26,7%) 6 (20%)
II 13 (43,3%) 16 (53,3%)
III 8 (26,7%) 8 (26,7%)
Mallam-
pati
IV 1 (3,3%) 0 (0%)
0,66
Đặc điểm chung của các bệnh nhân ở hai
nhóm khác nhau không có ý nghĩa thống kê
(P>0,05).
Phẫu thuật khác mẫu nghiên cứu gồm: thai
ngoài tử cung, chấn thương chi, u buồng
trứng,
Thời gian đặt: thời gian đặt PLMA là 25,33 ±
11,67 giây và thời gian đặt NKQ là 22,17 ± 9,8
giây. (P = 0,0003).
Chỉ số mạch, huyết áp, SpO2
Bảng 2: Các chỉ số trước và sau khi đặt PLMA, NKQ
1 phút
Nhóm Thời điểm
PLMA NKQ P
Mạch trước khi đặt 98,20 ± 16,15 92,50 ± 12,68 0,12
Mạch sau đặt
1phút 93,99 ± 14,55
104,83 ±
15,16 0,002
HATT trước khi
đặt
120,70 ±
19,79
114,67 ±
19,08 0,23
HATT sau đặt
1phút
107,20 ±
17,06
123,17 ±
26,87 0,006
HATTr trước khi
đặt 70,23 ± 15,74 66,97 ± 16,11 0,43
HATTr sau đặt
1phút 60,50 ± 12,51 71,60 ± 17,61 0,004
SpO2 trước khi đặt 99,50 ± 0,63 99,17 ± 1,12 0,15
SpO2 sau đặt
1phút 99,60 ± 0,62 99,37 ± 0,76 0,19
0
20
40
60
80
100
120
Trước 1' 5' 10' 20' 30' 45' 60'
PLMA
NKQ
Biểu đồ 1: Thay đổi mạch
0
20
40
60
80
100
120
140
160
Trước 1' 5' 10' 20' 30' 45' 60'
PLMA
NKQ
Biểu đồ 2: Thay đổi huyết áp tâm thu
0
20
40
60
80
100
5' 20
'
45
'
PLMA
NKQ
Biểu đồ 3: Thay đổi huyết áp tâm trương
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 13 * Phụ bản của Số 1 * 2009 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Nội Khoa 4
Tai biến, biến chứng
Bảng 3: Các tai biến và biến chứng
Nhóm Tai biến, biến chứng
PLMA (n = 30) NKQ (n = 30)
Chảy máu 2 0
Kích thích khi rút dụng cụ 2 24
Đau họng 0 10
Khàn tiếng 0 1
Các tai biến, biến chứng khác như: chấn
thương răng, co thắt đường thở,giảm SpO2, trào
ngược và hít sặc đều không xảy ra ở hai nhóm.
Ý kiến bệnh nhân
Bảng 4: Ý kiến bệnh nhân
Nhóm Ý kiến bệnh nhân
PLMA (n = 30) NKQ (n = 30)
Có khó chịu 1 20
Không khó chịu 29 10
BÀN LUẬN
Bệnh viện Đa khoa Trung tâm An Giang
cũng như nhiều bệnh viện đa khoa tuyến tỉnh
khác, gây mê NKQ thường được sử dụng trong
phẫu thuật cấp cứu, nhất là phẫu thuật vùng
bụng. Tuy nhiên, các tai biến và biến chứng do
đặt đèn soi thanh quản, do ống nội khí quản gặp
khá nhiều.
PLMA với cấu tạo đặc biệt là có thêm một
nhánh dẫn (drain tube) đóng vai trò biệt lập
đường thở và đường hô hấp nhằm dẫn lưu dịch
từ dạ dày ra ngoài, tránh hiện tượng hít sặc phổi;
cấu tạo của bóng hơi cho phép tăng áp lực kín,
phù hợp với những cuộc mê đòi hỏi thông khí
áp lực cao. Qua nghiên cứu so sánh sử dụng
trong gây mê giữa NKQ và PLMA, chúng tôi có
những nhận xét sau:
Đặc điểm chung của bệnh nhân
Tuổi, giới và BMI
Các bệnh nhân ở hai nhóm không có sự khác
biệt về độ tuổi và BMI (P>0,05). Chúng tôi nhận
thấy các bệnh nhân lớn tuổi do răng rụng, lung
lay nên việc đặt PLMA, NKQ chiếm nhiều thời
gian hơn người trẻ.
Giới tính và BMI liên quan đến việc chọn
cỡ PLMA và NKQ. Chọn cỡ PLMA và ống
NKQ phù hợp với bệnh nhân là yêu cầu quan
trọng, đảm bảo cho việc đặt thành công, thông
khí tốt và ít tổn thương cho bệnh nhân. Nam
giới do đường kính khí quản lớn hơn nữ giới
nên cỡ ống NKQ thường đuợc chọn lớn hơn.
PLMA được chế tạo dùng cho bệnh nhân có
cân nặng khác nhau, cỡ số 3 dùng cho người từ
30 – 50 kg và cỡ số 4 dùng cho người từ 50 – 70
kg. Tuy nhiên, theo Shinichi và Kihar(15) thì
không có sự khác biệt giữa chọn cỡ PLMA
theo giới tính và cân nặng.
Do đã đặt NKQ nhiều lần nên 100% trường
hợp chúng tôi đặt thành công trong lần đầu
tiên. Trong khi đó, PLMA mới được chúng tôi
sử dụng nên có những khó khăn khi đặt. Với
kỹ thuật đặt bằng ngón tay trỏ, tỉ lệ thành công
sau lần đặt đầu tiên là 99,33% (28/30 trường
hợp). Tỉ lệ này phù hợp với nghiên cứu của các
tác giả khác.
Hai trường hợp thất bại trong lần đặt PLMA
đầu tiên thì một người là bệnh nhân thứ nhất
trong mẫu nghiên cứu và người còn lại có
Mallapati IV. Các trường hợp này sau khi đặt lại
lần hai đều thành công. Như vậy, để có tỉ lệ
thành công cao cần phải thành thạo trong kỹ
thuật, chọn cỡ dụng cụ phù hợp và cần đánh giá
đúng cấu trúc giải phẫu vùng hầu họng của
bệnh nhân.
Loại phẫu thuật và phân loại nguy cơ phẫu
thuật
Mẫu nghiên cứu của chúng tôi có 47/60
trường hợp viêm ruột thừa, 5 bệnh nhân bị thai
ngoài tử cung còn lại là chấn thương chi, u
buồng trứng. Hai bệnh nhân chẩn đoán trước
mổ là viêm ruột thừa, nhưng chẩn đoán sau mổ
là một người viêm tụy, một người bị u mạc treo
ruột hoại tử. Hai bệnh nhân chẩn đoán trước mổ
là thai ngoài tử cung trong khi chẩn đoán sau
mổ là xuất huyết nang buồng trứng. Các trường
hợp chẩn đoán trước và sau mổ khác nhau này
gặp đều ở hai nhóm. Việc chọn phương pháp
gây mê toàn diện với NKQ và PLMA đều tạo
thuận lợi cho phẫu thuật viên dễ dàng thao tác.
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 13 * Phụ bản của Số 1 * 2009 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Nội Khoa 5
Bệnh lý viêm ruột thừa chiếm số lượng lớn
trong nghiên cứu (78,33%). Điều này phù hợp
với nhận định của tác giả Lê Nữ Hòa Hiệp(9)
“Viêm ruột thừa là cấp cứu ngoại khoa gặp hàng
ngày ở các bệnh viện quận, tỉnh, thành phố”. Vô cảm
cho phẫu thuật ruột thừa cũng như các phẫu
thuật vùng bụng khác có thể chọn phương pháp
gây mê hoặc gây tê. Tuy nhiên, khi bệnh nhân
đã viêm phúc mạc thì gây mê là thích hợp, sử
dụng PLMA trong các trường hợp này vừa
thông khí tốt cho bệnh nhân, vừa thỏa mãn yêu
cầu của phẫu thuật viên.
ASA II chiếm 56,67%, còn lại 43,33% là ASA
I. Chúng tôi chỉ chọn bệnh nhân có ASA I và II
vào mẫu nghiên cứu là do PLMA mới được
chúng tôi sử dụng, kỹ thuật đặt chưa thành thạo,
chọn bệnh nhân có ASA III, IV có thể gây ảnh
hưởng đến bệnh nhân.
Thời gian đặt PLMA, NKQ
Sự khác biệt về thời gian đặt ở hai nhóm có ý
nghĩa thống kê (P<0,05). Thời gian đặt PLMA lâu
hơn là do đây là kỹ thuật mới nên còn một số
lúng túng, chưa có sự phối hợp tốt giữa người
đặt PLMA và người phụ. Ngoài ra, chúng tôi
thấy việc dùng hai ngón tay bàn tay trái mở rộng
miệng bệnh nhân trước khi đưa PLMA vào thì
sẽ đặt dễ dàng và nhanh chóng hơn. Chúng tôi
cho rằng qua thời gian sử dụng, với kỹ thuật đặt
không quá phức tạp thì thời gian đặt PLMA sẽ
rút ngắn lại.
Xác định vị trí của PLMA
Trong nghiên cứu, chúng tôi đặt ống thông
dạ dày để xác định vị trí của PLMA; nếu đặt dễ
dàng thì thường PLMA đúng vị trí, nằm sau sụn
nhẫn và ôm kín vùng thanh môn
Nghiên cứu của Nguyễn Thành(13) có 90,2%
đặt ống thông dạ dày dễ dàng trong lần đặt đầu
tiên và 8,8% đặt lần hai; tác giả F. Agro, S.
Antonelli(1) tỉ lệ đặt lần thứ nhất là 90,7% và lần
thứ hai là 8,6%. Nghiên cứu của chúng tôi, 100%
bệnh nhân đặt ống thông dạ dày dễ dàng trong
lần đặt đầu tiên. Đặt ống thông dạ dày là
nghiệm pháp đơn giản, do đó nên đặt thường
qui để kiểm tra vị trí PLMA thay cho việc dùng
ống nội soi khí quản để kiểm tra(3,14)
Hiệu quả thông khí
Để đánh giá chính xác hiệu quả thông khí
cần phải đo nồng độ oxy trong máu động mạch.
Trong nghiên cứu này, chúng tôi đánh giá hiệu
quả thông khí gián tiếp qua độ bão hòa oxy qua
mạch đập (SpO2). Harald(6) nhận thấy SpO2 sau
đặt PLMA 3 phút là 99,5%, 10 phút là 99,8%.
SpO2 trung bình của nhóm PLMA là 99,52% và
của nhóm NKQ là 99,52%(13)
Kết quả của chúng tôi, trung bình SpO2
nhóm PLMA: 99,62 ± 0,05% và nhóm NKQ: 99,49
± 0,2%. Sự khác biệt này không có ý nghĩa thống
kê (P>0,05); Kết quả này phù hợp với các tác giả
trên. Như vậy, có thể thấy hiệu quả thông khí
của PLMA và NKQ là như nhau.
Thay đổi mạch, huyết áp tâm thu và huyết áp
tâm trương
Các yếu tố tác động lên vùng hầu thanh
quản có thể làm tăng mạch, HA như: động tác
đặt đèn soi thanh quản, ống NKQ, tác động của
bóng chèn, túi hơi của PLMA
Nhiều nghiên cứu cho thấy ảnh hưởng của
mask thanh quản lên mạch, HA không đáng kể
và ít hơn nhiều so với NKQ(11,16,5). Tại thời điểm
sau đặt dụng cụ 1phút thì mạch và huyết áp của
nhóm PLMA ít thay đổi trong khi đó các chỉ số
này tăng cao hơn ở nhóm NKQ(13). Sharma(2)
cũng nhận thấy mạch, huyết áp ở những bệnh
nhân đặt mask thanh quản ở thời điểm trước và
sau đặt 01 phút và 05 phút không có sự khác
biệt. Wolfgang Oczenski và cộng sự(14) cho kết
quả ảnh hưởng lên huyết động của nhóm NKQ
ở giai đoạn trước và sau đặt cao gấp hai lần
nhóm đặt mask thanh quản. Quan sát những
thay đổi cúa mạch, HATT, HATTr tại các thời
điểm khác nhau (Biểu đồ 1, 2 và 3) chúng tôi
nhận thấy: Phút thứ nhất sau đặt PLMA và
NKQ, các trị số trung bình của mạch, HATT,
HATTr giữa hai nhóm khác nhau có ý nghĩa
thống kê (P<0,05); nhóm PLMA có mạch, HATT,
HATTr giảm hơn so với lúc trước khi đặt; ngược
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 13 * Phụ bản của Số 1 * 2009 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Nội Khoa 6
lại, nhóm NKQ thì các trị số này tăng hơn so với
trước khi đặt (Bảng 2). Các thời điểm còn lại thì
sự khác biệt không có ý nghĩa thống kê (P>0,05).
Các kết quả thu được trong nghiên cứu của
chúng tôi phù hợp với nhận định của các tác giả
nêu trên. Điều đó có thể kết luận PLMA ít ảnh
hưởng đến huyết động so với NKQ.
Các tai biến, biến chứng
Chảy máu và chấn thương răng
Tổn thương niêm mạc trung bình khi dùng
PLMA trong nghiên cứu của Brimacombe và
Kihara(8) là 10,2%, của Nguyễn Thành(13) là 5,88%
và của chúng tôi là 6,67%. Có hai trường hợp bị
chảy máu trong nghiên cứu của chúng tôi (Bảng
3) một người là bệnh nhân đầu tiên chúng tôi đặt
PLMA, người còn lại có Mallampati IV. Kỹ thuật
đặt chưa thành thạo, đặt nhiều lần là nguyên
nhân gây tồn thương niêm mạc cho hai bệnh
nhân này.
Co thắt thanh quản
Các động tác như đặt PLMA, đèn soi thanh
quản hoặc ống NKQ lúc bệnh nhân chưa đủ độ
mê, thuốc dãn cơ chưa đủ tác dụng đều có thể
gây co thắt thanh quản. Các nghiên cứu khác cho
tỉ lệ co thắt thanh quản khi dùng PLMA là từ
3,92% đến 4%(12,13). Chúng tôi không gặp trường
hợp co thắt thanh quản nào trong quá trình
nghiên cứu.
Trào ngược, hít sặc
Ghi nhận của Brimacombe vào năm 2004 có
19 bệnh nhân bị hít sặc khi dùng mask thanh
quản cổ điểm và một bệnh nhân bị tai biến này
khi dùng PLMA. Nhóm bệnh nhân dùng PLMA
bị trào ngược theo nghiên cứu của Cook(14) từ
1/200.000 – 2/200.000, một nghiên cứu khác cho tỉ
lệ là 1,96%(13). Nhận thấy 30 bệnh nhân trong
mẫu nghiên cứu của chúng tôi không có trường
hợp nào bị trào ngược và hít sặc.
Kích thích khi rút ống nội khí quản, mask
thanh quản Proseal
Theo Brimacombe và Brain, thể tích bơm
bóng tối thiểu sẽ làm bệnh nhân ít kích thích,
giẫy giụa. Tỉ lệ bệnh nhân kích thích khi rút
PLMA là 13,72% và khi rút NKQ là 100%(13).
Kết quả của chúng tôi có phần thấp hơn,
2/30 bệnh nhân khi rút PLMA (tỉ lệ 6,67%) và
24/30 bệnh nhân (tỉ lệ 80%) bị kích thích khi rút
(Bảng 3).
Đau họng, khàn tiếng
Đau họng khi sau khi đặt NKQ hoặc PLMA
có thể do động tác đặt đèn soi thanh quản, bóng
hơi của PLMA gây ra. Tỉ lệ này là 33,33% nhóm
PLMA và 53,62% ở nhóm NKQ trong nghiên
cứu của Ketchada(7). Nguyễn Thành(13) cho kết
quả là 5,88% ở nhóm PLMA và 33,33% ở nhóm
NKQ. Nghiên cứu của chúng tôi có 10/30
(33,33%) bệnh nhân nhóm NKQ bị đau họng,
không có người nào trong nhóm PLMA bị triệu
chứng này (Bảng 3).
Khàn tiếng có thể do bóng hơi bơm căng
quá, cũng có thể do kỹ thuật đặt NKQ làm dây
thanh âm bị phù nề hoặc bị tổn thương(5). Một
nghiên cứu ở 90 bệnh nhân đặt NKQ cho thấy tỉ
lệ khàn tiếng là 10%, cỡ ống càng lớn thì khàn
tiếng càng gặp nhiều hơn(10). Khàn tiếng ở nhóm
NKQ 9,8% và không có trường hợp nào ở nhóm
PLMA(13). Bảng 3 cho thấy khàn tiếng ở nhóm
NKQ là 1/30 (tỉ lệ 3,33%), không có bệnh nhân
nào trong nhóm PLMA. Kết quả ở nhóm NKQ
thấp hơn này có thể do chúng tôi chọn cỡ ống
nội khí quản nhỏ; đa số người nữ được chúng tôi
chọn ống số 7 (14/18 bệnh nhân nữ) và ống số 7,5
đối với nam (9/12 bệnh nhân).
KẾT LUẬN
Tóm lại, so với các nghiên cứu khác, số
lượng bệnh nhân trong mẫu của chúng tôi ít
hơn. Do đó, kết quả các tai biến và biến chứng từ
bằng đến thấp hơn. Đây là hạn chế trong nghiên
cứu của chúng tôi. Mặc dù vậy, qua nghiên cứu,
chúng tôi rút ra một số nhận xét sau:
- Phương pháp gây mê toàn diện bằng mask
thanh quản Proseal là thích hợp cho phẫu thuật
cấp cứu vùng bụng, các phẫu thuật có thời gian
kéo dài, những bệnh nhân đã nhịn ăn uống
trước mổ ít nhất 4 giờ.
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 13 * Phụ bản của Số 1 * 2009 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Nội Khoa 7
- Mask thanh quản Proseal có kỹ thuật đặt
đơn giản, hiệu quả thông khí cao, ít gây biến đổi
mạch, huyết áp.
- Các tai biến và biến chứng khi sử dụng
mask thanh quản Proseal ít hơn so với nội khí
quản.
- Nguy cơ trào ngược và hít sặc có khả năng
xảy ra, cần phòng ngừa và chuẩn bị bệnh nhân
trước mổ tốt. Nếu nghi ngờ bệnh nhân có dạ dày
đầy thì tốt hơn là nên đặt nội khí quản.
Nhìn chung, sử dụng Mask thanh quản
Proseal có tính an toàn và hiệu quả cao, có thể
dùng thay thế ống nội khí quản trong đa số các
trường hợp.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Agro F, Antonelli S, Cataldo R, Montecchia F (2002). “The
ProSeal laryngeal mask airway: fibreoptic visualization of the
glottic opening is associated with ease of insertion of the
gastric tube”. Canadian Journal of Anesthesia; 49(8); pp 867-
870.
2. Bimla S, Chand S, Abhijit B, Kumra VP., Jayashree S (2003).
“Proseal laryngeal mask airway: a study of 100 Consecutive
cases of laparoscopic surgery”. Indian J Nesth; 47(6); pp:467-
472.
3. Brimacombe J (2004). “LMA - Proseal an analysis of current
knowledge and a complete practical guide”. The Laryngeal
Mask Company Limited; pp: 2-104.
4. Brimacombe J, Keller C, (2002). “A multicenter study
comparing the Proseal with the Classic laryngeal mask airway
in anethetised non - paralysed patients”. Anesthesiology; 96;
pp: 289-295.
5. Cook TM., Lee G, Nolan JP. (2005). “The ProsealTM laryngeal
mask airway: a review of the literature”. Canadian Journal of
Anesthesia; 52(7); pp: 739-760.
6. Harald V, Roth H, Rothhaas A, (2006). “Comparison of LMA-
ProsealTM and LTSTM for ventilation during laparoscopic
gynaecological surgery”. American Society of
Anesthesiologists; October; pp:14-18.
7. Ketchada (2004). “Postoperative throat discomfort after using
LMA-ProsealTM versus Profile Soft-seal cuffTM for
anesthesia in ambulatory gynecologic laparoscopy”. A Thesis
Submitted in Partial Fulfilment of the Requirements for the
Degree of Master of Science in Health Development; pp: 23-
38.
8. Kihara, Brimacombe J (2003). “Sex - Based ProSeal™
Laryngeal Mask Airway size selection: A randomised
crossover study of anesthetised, paralysed male and female
adult patients”; Anesth Analg; 97; pp: 280- 284.
9. Lê Nữ Hòa Hiệp (2001). “Viêm ruột thừa”. Bài giảng bệnh học
ngoại khoa tiêu hóa. Đại học Y Dược Tp Hồ Chí minh. Nhà
xuất bản Y học, tr:29-58.
10. Lê Tuyên Hồng Dương, Nguyễn Hữu Tú, Nguyễn Thụ
(2006). “Liên quan giữa cỡ ống nội khí quản với biến chứng
đau họng và khàn tiếng sau mổ”. Kỷ yếu công trình nghiên
cứu khoa học, hội nghị gây mê toàn quốc, Hải Phòng 11/2006,
tr: 161.
11. Montazari K, Naghibi Kh, Hashemi Sj (2004). “Comparison of
hemodynamic changes after Insertion of Laryngeal Mask
Airway, Facemask and endotracheal intubation”. Acta
Medica Iranica; 42(6); pp: 437-440.
12. Neil C, Watson NC, Maltby JR, Micheal T, Fick GH (2002).
“The LMA-ProsealTM is an effective to tracheal intubation for
laparoscopic cholescystetomy”. Canadian journal of
anaesthesia; 49; pp: 857-862.
13. Nguyễn Thành, Nguyễn Văn Chừng (2008). “Đánh giá hiệu
quả mặt nạ thanh quản Prseal trong gây mê phẫu thuật cắt túi
mật”. Y học Tp Hồ Chí Minh. Đại học Y Dược Tp Hồ Chí
Minh; tập 12(1); tr: 35-41.
14. Oczenski W, Krenn H, Dahaba AA., Binder M, El-Schahawi-
Kienzl I, Jellinek H, Schwarz S, and Fitzgerald RD. (1999).
“Hemodynamic and Catecholamine stress responses to
insertion of the Combitube, Laryngeal Mask Airway or
Tracheal Intubation”. Anesth Analg; 88; pp:1389-1394.
15. Shinichi, Kihar (2004). “A comprison of sex and weight base
ProsealTM laryngeal mask size selection creteria: A
randomised study of health, anesthetised, paralysed adult
patients”. Anesthesiology; 101(2); August; pp: 340-343.
16. Singh S, Smith J.E (2003). “Cardiovascular changes after the
three stages of nasotracheal intubation”. BJ Anaesthesia; 91(5);
pp: 667-671.
17. Tanaka, Atsuko, Isono, Shiroh, Ishikawa, Teruhiko, Nishino,
Takashi (2005). “Laryngeal reflex before and after placement
of airway interventions: Endotracheal tube and Laryngeal
Mask Airway™”. Anesthesiology; 102(1); pp: 20-25.
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 13 * Phụ bản của Số 1 * 2009 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Nội Khoa 8
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 13 * Phụ bản của Số 1 * 2009 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Nội Khoa 9
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- danh_gia_hieu_qua_mask_thanh_quan_proseal_trong_phau_thuat_c.pdf